Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Chi trả dịch vụ môi trường – kinh nghiệm thế giới và áp dụng tại VN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.4 KB, 69 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu và đóng vai trị quan
trọng trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam. Tín dụng ngân hàng là cơng cụ
thúc đẩy các tổ chức tín dụng thu vốn tạm thời nhàn rỗi và cho các chủ thể
kinh tế cần thiết vay số vốn này. Nguồn vốn cho vay chủ yếu của tổ chức tín
dụng là vốn huy động (trong đó tiền gửi chiếm tỷ lệ đáng kể). Chính vì vậy
nhiệm vụ đầu tiên của tổ chức tín dụng là bảo vệ tiền gửi của khách hàng.
Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thốt (khơng thu hồi được) thì trước
tiên làm cho tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khơng có khả năng thanh tốn
cho người gửi tiền. Do đó, tổ chức tín dụng phải ln ln thận trọng trong
việc cho vay nhằm giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Từ những thực tiễn thu được trong q trình thực tập tại ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Hà Nội, em nhận thấy nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay
là vấn đề vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay. Chính vì vậy đề tài:
“Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Hà Nội” đựơc chọn để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Khóa luận tốt nghiệp bao gồm ba chương:
-Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo đảm tiền vay của
NHTM
- Chương II: Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Hà Nội.
- Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội

Lê Thanh Ngọc


1

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM
TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Bảo đảm tiền vay trong hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.1 Sự cần thiết của bảm đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là điều kiện quan trọng nhất thực hiện mục tiêu kinh
doanh của ngân hàng. Để thu hồi được nợ, ngân hàng phải xem xét một cách
thận trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng, từ đó áp dụng các phương
pháp cho vay thích hợp. Xét về cả góc độ lý luận và thực tiễn thì có rất nhiều
lý do để quy định và nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm tiền vay. Tuy
nhiên, có một số lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, đối với bản thân các ngân hàng, bảo đảm tiền vay giúp giảm
bớt tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng vay tiền không thể hoặc khơng
muốn hồn trả tiền vay.
Thứ hai, bảo đảm tiền vay giúp bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền. Các tổ chức tín dụng ở Việt Nam chủ yếu là cho vay. Các tổ
chức này cho vay trên cơ sở là nguồn vốn huy động là chủ yếu. Điều này có
nghĩa là nguồn vốn cho vay của các ngân hàng chủ yếu là nguồn đi vay bởi
các tổ chức này hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc đi vay để cho vay.
Chính vì vậy, trách nhiệm hàng đầu của các ngân hàng là bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền, tránh tình trạng rút tiền đồng loạt, dẫn đến nguy cơ phá
sản ngân hàng, lung lay hệ thống ngân hàng. Mặc dù phần lớn các ngân hàng

đều dự tính trước nguy cơ có thể xảy ra, nhưng rủi ro này phải được kiểm soát
chặt chẽ để bảo vệ số tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên thực tiễn hoạt động
kinh doanh của ngân hàng đã chứng minh rằng khơng phải lúc nào cũng kiểm
sốt được rủi ro, có những rủi ro tín dụng khả kháng được, nhưng cũng có
những rủi ro bất khả kháng, nằm ngồi tầm kiểm soát của ngân hàng. Nếu
một khoản cho vay nào đó bị thất thốt, thì trước tiên ngân hàng phải sử dụng

Lê Thanh Ngọc

2

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

nguồn vốn của mình để trả nợ cho người gửi tiền. Nếu khơng đủ nguồn vốn
để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh tốn, thậm chí phá sản. Do đó, an tồn là một vấn đề cần xem xét trước
tiên đối với mọi khoản vay. Ngồi việc xây dựng quy trình cho vay khoa học
chặt chẽ, các tổ chức tín dụng cịn áp dụng các biện pháp phòng ngừa để giảm
thiểu rủi ro. Bảo hiểm tiền vay là một trong các biện pháp đó và gián tiếp
đóng vai trị bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Thứ ba, đối với hệ thống ngân hàng, bảo đảm tiền vay bảo vệ sự an toàn
và ổn định của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Trung ương của bất kỳ quốc
gia nào cũng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng, ngân hàng và đều có nhiệm vụ đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động
một cách có hiệu quả, an tồn và ổn định. Nếu có sự thất thốt trong hoạt

động tín dụng nào đó, dù chỉ ở một ngân hàng cũng đe doạ đến tính an tồn
và ổn định của tồn hệ thống. Vì thế mà các ngân hàng Trung ương đều quy
định mọi tổ chức tín dụng phải tn thủ q trình phân tích rủi ro truớc khi
cho vay.
Thứ tư, bảo đảm tiền vay là động lực thúc đẩy khách hàng thực hiện
nghĩa vụ trả nợ. Nếu khơng có bảo đảm tiền vay có thể dẫn đến việc lơ là
nghĩa vụ trả nợ. Bảo đảm sẽ tạo động lực tốt hơn cho nghĩa vụ trả nợ, vì nếu
không sẽ mất tài sản và tốn kém nhiều chi phí hơn. Mặt khác, bảo đảm tín
dụng cịn là rào cản đối với những người đi vay có chủ ý lừa đảo.
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm tiền vay
Cho đến nay chưa có khái niệm chính tắc về bảo đảm tiền vay mà chỉ
được thể hiện duới dạng lịêt kê từng biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên trong một
số công trình khoa học của các tác giả cũng đã đưa ra khái niệm này. Chẳng
hạn: “bảo đảm tiền vay được hiểu là các biện pháp hay công cụ để củng cố
vịêc thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng”, hay “bảo đảm tiền vay là các hình

Lê Thanh Ngọc

3

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

thức bảo đảm trả nợ của người vay trước ngân hàng trong trường hợp nguời
vay không thể trả nợ trong tương lai”. Ngoài ra, một số quan điểm cho rằng
bảo đảm tiền vay cũng chính là bảo đảm tín dụng và bảo đảm tiền vay chính

là bảo đảm cho một khoản vay hoặc những nghĩa vụ khác.
Cần nhấn mạnh rằng, bảo đảm tiền vay thông thường chỉ được xem xét là
biện pháp thay thế và là cơ sở thu nợ thứ hai khi khách hàng vì mơt lý do nào
đó khơng trả đựơc nợ vay. Vịêc quyết định cấp tín dụng hay khơng là do tính
khả thi của dự án, khá năng tài chính của khách hàng vay, chứ khơng phải ở
tài sản bảo đảm tiền vay. Nếu ngân hàng cấp tín dụng dựa vào bảo đảm tiền
vay xong lại biết rằng ngân hàng sẽ phải bán vật đảm bảo sau đó để trang trải
món nợ thì ngân hàng sẽ chẳng bao giờ cho vay. Chính vì vậy bảo đảm tiền
vay khơng phải lúc nào cũng là yếu tố cần thiết trong vay vốn ngân hàng. Bảo
đảm tiền vay thường đuợc áp dụng trong các trường hợp sau: khả năng trả nợ
vốn vay của khách hàng còn hạn chế hoặc trong nền kinh tế đất nước có thể
xẩy ra lạm phát, làm mất giá số tiền đã cho vay của tổ chức tín dụng, dễ làm
ảnh hưởng đến khả năng tài chính của khách hàng vay vốn, dễ dẫn đến vịêc vi
phạm thời hạn trả nợ.
Theo nghĩa rộng, bảo đảm tiền vay là vịêc thiết lập các điều kiện nhằm
xác định khả năng thực có của khách hàng đối với vịêc hồn trả vốn vay đúng
thời hạn (ví dụ nếu khách hàng là cá nhân thì địi hỏi phải có thu nhập thường
xuyên). Theo quan điểm của các chuyên gia ngân hàng ở Anh, Mỹ phải có hai
hay tốt nhất là ba vành đai bảo vệ người cho vay tránh khỏi vịêc không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các tổ chức tín dụng: đó là nguồn tiền mặt (thu
nhập là nguồn tiền chính để trả nợ của khách hàng), tài sản của khách hàng
được khách hàng đưa ra làm đảm bảo cho khoản vay hoặc bảo lãnh của tổ
chức, cá nhân để bảo đảm khoản cho vay.

Lê Thanh Ngọc

4

Lớp TCDN 47B



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Theo nghĩa hẹp, bảo đảm tiền vay là những biện pháp đảm bảo vịêc trả
nợ vốn vay (cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn, bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba, cầm cố thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn
vay). Hay nói cách khác, bảo đảm tiền vay là sự thoả thuận của người đi vay
và người cho vay dựa trên các quy định của Nhà nước nhằm thiết lập các biện
pháp tác động mang tính chất dự phịng để đảm bảo vịêc trả nợ vốn vay, ngăn
ngừa vi phạm và tạo khả năng khắc phục những hậu quả do vị phạm nghĩa vụ
trả nợ gây ra.
1.1.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động của các
doanh nghiệp ngày càng phong phú, nhu cầu vốn của thị trường ngày càng
lớn, để thực hiện mục tiêu phát triển là mở rộng cho vay gắn với hạn chế rủi
ro, bảo đảm an tồn vốn địi hỏi các NHTM phải áp dụng đồng thời nhiều
biện pháp bảo đảm tiền vay, chấp nhận nhiều loại tài sản bảo đảm và vận
dụng các điều kiện đó linh hoạt, phù hợp với điều kiện của từng khách hàng.
Vịêc vận dụng hiểu quả các biện pháp bảo đảm tiền vay phải dựa trên cơ sở
hiểu rõ những nội dung của các biện pháp bảo đảm.
1.1.3.1.Bảo đảm tiền vay bằng tài sản bảo đảm
Từ xa xưa, vấn đề làm thế nào để đảm bảo thực hiện hợp đồng, đặc biệt là
hợp đồng vay nợ đã được đặt ra với nhiều biện pháp khác nhau. Cùng với sự
phát triển của xã hội, những điều kiện bảo đảm thực hiện hợp đồng càng được
cải thiện đáng kể. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là loại bảo đảm tiền vay theo
đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảm đảm thực hiện bằng
tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, tài sản hình thành từ vốn vay
hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Trong trường hợp khách hàng vi

phạm nghĩa vụ trả nợ và bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì
tài sản bảm đảm tiền vay sẽ được xử lý để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng.

Lê Thanh Ngọc

5

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Tuy nhiên, khơng phải bất kỳ tài sản nào cũng có thể được mang ra làm bảo
đảm mà tài sản đó phải thoả mãn một số điều kiện cơ bản sau:
 Giá trị của tài sản bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ đuợc bảo đảm.
 Tài sản dùng làm bảo đảm nợ vay phải tạo ra được ngân lưu (được
phép giao dịch, có giá trị và được thị trường tiêu thụ).
 Tài sản bảo đảm phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để nguời cho vay có
quyền xử lý tài sản dùng làm tài sản bảo đảm (quyền sở hữu, quyền
sử dụng, quyền chuyển nhựơng..) và khơng có tranh chấp.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay bao gồm:
Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn
Cầm cố là hình thức theo đó nguời nhận tài trợ của ngân hàng phải
chuyển quyển kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian
cam kết (thường là thời gian nhận tài trợ).
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm sốt và bảo
quản tương đối chắc chắn, đồng thời vịêc ngân hàng nắm giữ không ảnh
hưởng đến quà trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ như các chứng

khốn, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quý. Các tài sản
này gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự
nhiên. Đối với hàng hố, ngân hàng thường chấp nhận các loại ít chịu tác
động của môi trường trong thời gian cầm cố. Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi
xét thấy vịêc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm là khơng an tồn cho ngân
hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán, dễ chuyển nhượng. Khi
tài trợ dựa trên đảm bào bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp
lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả
của người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại.
Thế chấp bằng tài sản bảo đảm của khách hàng vay vốn:

Lê Thanh Ngọc

6

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Thế chấp là hình thức theo đó bên đi vay dùng tài sản thuộc sở hữu của
mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
đối với bên cho vay và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Trong hình thức này người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận
sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang ngân hàng nắm giữ trong thời
gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các tài trợ của ngân
hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động như nhà đất đang trong

quá trình sử dụng, trang thiết bị, hàng hoá đang trong quá trình luân
chuyển...Những tài sản này thường cồng kềnh, phân tán, ngân hàng không thể
cầm cố. Hơn nữa, vịêc bán hoặc chuyển nhượng cũng khơng hề đơn giản. Vì
vậy, đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và
người tiêu dùng. Do giá trị của tài sản loại này thường lớn nên doanh nghiệp
có thể vay ngân hàng với quy mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản bảo
đảm phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá
trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát tài sản
bảo đảm của ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm
giảm giá trị của tài sản gây thiệt hại cho ngân hàng.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức trong đó khách
hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
trả nợ cho chính khoản vay đó.
Trong đó, tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà
giá trị tài sản đựơc tạo nên bởi một phần hoặc tồn bộ khoản vay của tổ chức
tín dụng. Vịêc đảm bảo tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay thường
đựơc áp dụng trong trường hợp ngân hàng cho vay trả góp, cho vay trung và

Lê Thanh Ngọc

7

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính


dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời
sống. Vịêc lựa chọn hình thức bảo đảm này mang lại rủi ro khá cao cho ngân
hàng vì nguyên tắc cơ bản của bảo đảm tiền vay là nguồn đảm bảo cho khoản
vay trong khi tài sản bảo đảm lại được hình thành từ chính vốn vay ngân
hàng. Điều này có thể làm giảm chất lượng bảo đảm tiền vay của ngân hàng.
Vì vậy, khi cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay ngân hàng
luôn xem xét kỹ lưỡng đối với khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn
vay.
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là hình thức trong đó bên thứ ba
hay cịn gọi là bên bảo lãnh cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc sử
dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay
cho khách hàng vay nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
Bảo lãnh được áp dụng trong trường hợp, các tổ chức, cá nhân có nhu
cầu vay vốn ở các tổ chức tín dụng nhưng do nhiều lý do khác nhau họ chưa
có uy tín và cũng khơng có cả tài sản để bảo đảm tiền vay. Khi đó, bảo lãnh
xuất hiện vừa có tác dụng là biện pháp đảm bảo nghĩa vụ vừa là biện pháp tạo
cơ hội tín dụng cho người có nhu cầu vay vốn. Nếu bên khách hàng có nhu
cầu vay vốn tìm được cho mình người bảo lãnh có đủ năng lực thực hiện
nghĩa vụ của người bảo lãnh và nếu được ngân hàng chấp nhận thì sẽ tạo cơ
hội cho bên có nhu cầu về vốn vay được vay vốn và về phía ngân hàng an
tồn tín dụng vẫn được đảm bảo khi cho vay.
Điểm khác biệt giữa bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba so với cầm cố
và thế chấp là tài sản đem bảo đảm trong thế chấp, cầm cố thuộc sở hữa của
bên khách hàng vay vốn, còn trong bảo lãnh là tài sản của người thứ ba.
Trong quan hệ cầm cố, thế chấp chỉ có hai bên trong quan hệ nghĩa vụ có

Lê Thanh Ngọc


8

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

quan hệ với nhau (khách hàng và tổ chức tín dụng), cịn trong bảo lãnh xuất
hiện thêm người thứ ba vốn không liên quan đến nghĩa vụ trong quan hệ
nhưng họ tham gia do tự nguyện hoặc đựơc nhờ để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ thay cho khách hàng (bên có nghĩa vụ) bằng tài sản của mình. Trong
trường hợp bảo lãnh bằng tài sản của cá nhân thì điều kiện bắt buộc là tài sản
này phải thuộc sở hữu hợp pháp của họ. Khi sử dụng hình thức bảo đảm này,
ngân hàng thường phải thẩm định cả khách hàng lẫn bên bảo lãnh một cách
chặt chẽ để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của mình.
1.1.3.2.Hình thức bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay khơng
có tài sản bảo đảm
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản như đã trình bày ở trên đem lại nguồn thu
thứ hai cho ngân hàng, tăng cường khả năng thu hồi nợ đồng thời góp phần
tạo áp lực trả nợ đối với người đi vay. Tuy nhiên, các ngân hàng ngày càng
cạnh tranh gay gắt để tìm kiếm khách hàng, mở rộng đối tượng và các hình
thức cho vay cùng với sự tin cậy về năng lực trả nợ của khách hàng nên hình
thức cho vay khơng cần tài sản bảo đảm tồn tại và phát triển. Cho vay khơng
có tài sản bảo đảm là vịêc cho vay vốn của các tổ chức tín dụng mà theo đó
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được cam kết trả nợ bằng tài sản mà
chỉ dựa trên uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng vay hay của bên bảo lãnh,
bao gồm:

Cho vay bằng tín chấp cho các doanh nghiệp có uy tín, các khách hàng
lâu năm..
Các ngân hàng thương mại đựơc chủ động lựa chọn khách hàng vay để
cho vay khơng có bảo đảm bằng tài sản, tuy nhiên, để đảm bảo an tồn và
lành mạnh trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, khách hàng vay phải đáp
ứng đầy đủ các điều kiện cơ bản sau: Phải có tín nhiệm với ngân hàng cho
vay trong vịêc sử dụng vốn vay, trả nợ đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi,

Lê Thanh Ngọc

9

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

khách hàng vay phải có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả
thi, có khả năng trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi
phù hợp với quy định của pháp lụât. Khách hàng phải có khả năng tài chính
và các nguồn thu hợp pháp có khả năng thu được trong thời hạn vay vốn để
thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng. Trong trường hợp này ngân
hàng tự quyết định mức cho vay trên cơ sở mức độ tín nhiệm, đặc điểm tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng.
Cho vay khơng có tài sản bảo đảm theo chỉ thị của Chính phủ
Các ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay khơng có bảo đảm đối
với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế
đặc bịêt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tếxã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng đựơc hưởng các chính

sách tín dụng ưu đãi.
Cho vay có tổ chức bằng tín chấp của các tổ chức đồn thể chính trị-xã
hội
Đây là hình thức mà theo đó, các tổ chức đồn thể chính trị-xã hội dùng
uy tín của mình để đảm bảo cho các tổ chức cá nhân, các hộ gia đình nghèo
vay vốn để hộ tổ chức sản xuất kinh doanh ổn định đời sống, hoặc hỗ trợ họ
trong lúc khó khăn, thiên tai, mất mùa… Đây là hình thức cho vay mang tính
xã hội cao, thường vì mục tiêu chung, tỷ suất sinh lời thường không cao, đặc
biệt với các hộ nghèo, khả năng trả nợ khó. Điều này tạo áp lực không nhỏ lên
các ngân hàng thương mại Nhà nước.
1.2.

Chất lượng bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm về chất lượng bảo đảm tiền vay

Bất cứ ngân hàng thương mại nào đều mong muốn đạt được hiệu quả cao
nhất trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc bịêt là trong hoạt động tín
dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động có khả năng sinh lợi nhiều nhất nhưng

Lê Thanh Ngọc

10

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính


cũng là hoạt động chịu nhiều rủi ro nhất. Do vậy, để hạn chế rủi ro trong hoạt
động cho vay, các ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng hoạt động cho
vay, nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay. Chất lượng của cơng tác bảo đảm
tiền vay chính là chất lượng của những hình thức mà ngân hàng chấp nhận
làm bảo đảm cho món vay của khách hàng có khả năng thực hiện đúng chức
năng là nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng hay khơng, có giúp ngân hàng
bảo tồn được nguồn vốn khi xảy ra rủi ro không.
Chất lượng bảo đảm tiền vay không chỉ phản ảnh về tài sản bảo đảm mà
còn thể hiện ở thành quả thu đựơc khi các khoản cho vay đựơc bảo đảm bằng
các hình thức thích hợp. Chất lượng bảo đảm tiền vay càng cao thì khả năng
thu hồi nợ của ngân hàng càng được bảo đảm, từ đó giảm bớt tổn thất cho
ngân hàng khi rủi ro tín dụng xẩy ra. Có thể nói, chất lượng bảo đảm tiền vay
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thuơng mại.
Nếu các khoản cho vay có chất lượng khơng tốt sẽ là nguy cơ tiềm ẩn rủi ro
cho ngân hàng trong vịêc thu hồi nợ dẫn đến khả năng mất vốn, với mức độ
lớn hơn có thể làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng với khách hàng,
làm giảm uy tín của ngân hàng dẫn đến tình trạng rút tiền hàng loạt và đẩy
ngân hàng đến nguy cơ phá sản. Vì vậy, các ngân hàng phải thường xuyên
quan tâm và nâng cao chất lượng bảo dảm tiền vay nhằm bảo đảm sự phát
triển bền vững cho ngân hàng.
1.2.2.Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng bảo đảm tiền vay
của ngân hàng thương mại
1.2.2.1.Các chỉ tiêu định tính
Dựa vào các chỉ tiêu định tính ta có thể phần nào đánh giá khái quát đựơc
về chất lượng bảo đảm tiền vay của một NHTM. Có rất nhiều chỉ tiêu định
tính phản ánh chất lượng này, và một số chỉ tiêu giúp ta nhận biết rõ nhất về
chất lượng bảo đảm tiền vay, bao gồm:

Lê Thanh Ngọc


11

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Danh mục tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm bao gồm: bất động sản (nhà,
đất), động sản (hàng hố, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải), các giấy tờ
có giá khác. Các loại tài sản thuộc sở hữu công, kém, mất phẩm chất hay phi
pháp đều bị loại khỏi đảm bảo. Quản trị danh mục tài sản bảo đảm là yêu cầu
khách quan trong công tác quản trị ngân hàng thương mại, nó là một mắt xích
quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý các khoản nợ có vấn đề.
Cho vay có tài sản bảo đảm cùng với quản lý tốt danh mục tài sản bảo đảm là
một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng các khoản vay, hạn chế
tổn thất của ngân hàng trong trường hợp các khoản vay quá hạn khách hàng
không trả được nợ, buộc phải xử lý tài sản để thu hồi nợ. Rõ ràng, chất lượng
của tài sản bảo đảm, mà cụ thể là giá trị thị trường của tài sản bảo đảm tại thời
điểm xử lý tài sản bảo đảm sẽ có tính chất quyết định đến nguồn thu hồi nợ
của ngân hàng. Ví dụ, nếu ngân hàng nhận tài sản bảo đảm là dây chuyền máy
móc thiết bị, khi phải phát mại thì tiêu chuẩn cơng nghệ cịn phù hợp hay
khơng so với thị trường sẽ quyết định giá cả của tài sản bảo đảm này, nếu lạc
hậu thậm trí giá trị chỉ là sắt vụn và phải tốn chi phí thanh lý. Do vậy, vịêc
quản lý, đánh giá phân tích danh mục tài sản bảo đảm nhận làm bảo đảm tiền
vay dưới hình thức như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh là khâu tác nghiệp hết sức
cần thiết. Vịêc lựa chọn tài sản bảo đảm đa dạng, đựơc sử dụng phù hợp và
phương thức bảo đảm tốt sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều đối tượng
khách hàng, làm tăng uy tín cho ngân hàng, tăng cường khả năng tín dụng

đồng thời giúp giảm thiểu rủi ro phi hệ thống nhờ vịêc đa dạng hoá các tài sản
bảo đảm.
Định giá tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm là yếu tố quan trọng để ngân
hàng quyết định mức cho vay. Xác định chính xác giá trị tài sản bảo đảm là
yếu tố hết sức quan trọng giúp ngân hàng bảo đảm được quyền lợi cho chính
bản thân mình và cho khách hàng. Tài sản bảo đảm phải thoả mãn được một

Lê Thanh Ngọc

12

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

số u cầu cần thiết như: tài sản bảo đảm phải không có tranh chấp, có khả
năng mua bán chuyển nhượng…Về nguyên tắc, định giá tài sản bảo đảm phải
theo giá trị thị trường, nếu định giá cao hơn giá trị thị trường có thể sẽ dẫn
đến khi phát mại tài sản trong trường hợp khách hàng không trả đựơc nợ
không thu hồi đủ nợ gốc, lãi và các chi phí khác. Nếu định giá thấp giá trị thị
trường sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng và làm
suy yếu tính cạnh tranh trong vịêc thu hút khách hàng.
Quản lý và thụ đắc tài sản bảo đảm: Quản lý tài sản bảo đảm và các giấy
tờ có giá liên quan được hiểu là qúa trình theo dõi, kiểm tra nhằm bảo đảm tài
sản và các loại giấy tờ vẫn đang trong tình trạng bình thường hoặc kịp thời
phát hiện các sự cố liên quan làm giảm giá trị của tài sản bảo đảm, các loại
giấy tờ có giá so với dự kiến nêu tại hợp đồng bảo đảm. Cán bộ tín dụng là

người chịu trách nhiệm chính trong suốt quá trình quản lý tài sản bảo đảm và
các loại tài sản liên quan. Quản lý tốt tài sản bảo đảm giúp các ngân hàng theo
dõi, kiểm tra, đánh giá nhằm đảm bảo tài sản vẫn đang trong tình trạng bình
thường, đồng thời ngăn chặn kịp thời các sự cố làm giảm giá trị của tài sản
bảo đảm gây thiệt hại cho ngân hàng. Đối với những tài sản bảo đảm đặt dưới
sự quản lý của ngân hàng hoặc ngân hàng được pháp lụât bảo vệ để dễ dàng
lấy tài sản để bán thì tính chất an tồn của tài sản bảo đảm sẽ cao. Trái lại,
những tài sản nằm ngồi sự kiểm sốt của ngân hàng thì tính an tồn của bảo
đảm sẽ thấp.
Trường hợp tài sản bảo đảm do bên khách hàng vay, bên thứ ba, nắm
giữ, bảo quản hay sử dụng cán bộ tín dụng cần chủ động đề xuất và thực hiện
kiểm gia tài sản bảo đảm định kỳ, thu thập các loại giấy tờ khác có liên quan
đến tài sản bảo đảm, chứng minh tình trạng hiện tại của tài sản bảo đảm.

Lê Thanh Ngọc

13

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Trường hợp tài sản bảo đảm do chính ngân hàng nắm giữ và bảo quản,
cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm tiến hàng thủ tục bàn giao và bảo quản tài
sản theo đúng quy định của ngân hàng.
Xử lý tài sản bảo đảm: Khả năng xử lý đựơc tài sản bảo đảm với chi phí
thấp, thủ tục nhanh chóng giúp bảo đảm đựơc quỳên lợi cho ngân hàng và

khách hàng cũng là một tiêu chí phản ánh chất lượng bảo đảm tiền vay... Việc
xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công khai,
minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan.
1.2.2.2.Các chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu giá trị khoản vay so với giá trị của tài sản bảo đảm
H=
Giá trị khoản vay là số tiền mà ngân hàng cho khách hàng vay ghi trên
hợp đồng tín dụng. Giá trị của tài sản bảo đảm được thể hiện bằng số tiền mà
các cán bộ thẩm định định giá, được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng
bảo đảm, làm cơ sở cho vịêc xác định mức vay của ngân hàng.
Chỉ tiêu này được dùng để phản ánh mức độ bù đắp vốn của tài sản bảo
đảm,và để phản ánh chính xác, ngân hàng phải dự đoán đựơc biến động của
giá trị tài sản bảo đảm trong thời gian cho vay như hao mòn, mất giá do giá
thị trường giảm...cũng như phải tính trước được chi phí cho vịêc bán tài sản
bảo đảm. Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ khả năng bù đắp vốn của tài sản bảo
đảm càng cao. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này thấp quá sẽ gây khó khăn cho việc
tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của cá nhân và các doanh nghiệp, nếu tỷ lệ này
quá cao sẽ gây ra tình trạng mất an tồn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng khi khách hàng không có khả năng hồn trả nợ vay.

Lê Thanh Ngọc

14

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa Ngân hàng – Tài chính

Các ngân hàng thường cố gắng duy trì tỷ lệ này trong khoảng từ 0,5 đến
0,7.
Chỉ tiêu về tỷ trọng dư nợ cho vay tín chấp so với dư nợ cho vay có tài
sản bảo đảm
=

x 100%

Dư nợ cho vay tín chấp là số tiền mà ngân hàng đã cho vay không cần
tài sản bảo đảm, chỉ dựa trên uy tín của khách hàng, cịn dư nợ cho vay có tài
sản bảo đảm là số tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay có đảm bảo bằng tài
sản. Chỉ tiêu này cho biết dư nợ cho vay tín chấp bằng bao nhiêu phần trăm so
với dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm. Theo lý thuyết, chỉ tiêu này càng thấp
thì an toàn trong hoạt động của ngân hàng càng được đảm bảo, tuy nhiên ,
trên thực tế, tỷ lệ giữa cho vay tín chấp và cho vay có tài sản bảo đảm lớn hay
nhỏ cịn phụ thuộc vào chính sách, đối tượng khách hàng… của từng ngân
hàng. Các ngân hàng thường cố gắng duy trì tỷ lệ này khoảng 15% để đảm
bảo an tồn vốn trong hoạt động của mình.
Chỉ tiêu về tỷ lệ dự nợ cho vay có tài sản bảo đảm trên tổng dư nợ
=

x 100%

Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu phần trăm dư nợ của các tổ chức
tín dụng được đảm bảo bằng tài sản. Thơng thường, tỷ lệ này càng cao thì
chất lượng bảo đảm tiền vay càng tốt, tuy nhiên, việc cho vay của một NHTM
không phải chỉ dựa vào tài sản bảo đảm mà cần quan tâm đến phương án sản
xuất kinh doanh của khách hàng. Tỷ lệ này trung bình ở các ngân hàng vào

khoảng 87%.
Chỉ tiêu về giá trị tài sản thanh lý so với số nợ mất vốn khó đòi
Giá trị tài sản thanh lý so với nợ mất vốn, khó địi

Lê Thanh Ngọc

15

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

=
Giá trị tài sản thanh lý là số tiền mà ngân hàng thu được sau khi bán
tài sản bảo đảm và đã trừ đi các chi phí bảo quản, xử lý tài sản bảo đảm. Tỷ lệ
này phản ánh khả năng bù đắp rủi ro của tài sản bảm đảm, cho biết với mỗi
đồng vốn bị chiếm dụng thì có thể đựơc bù đắp bao nhiều đồng bằng cách bán
tài sản bảo đảm, đồng thời cũng phản ánh chất lượng của công tác định giá,
quán lý và xử lý tài sản của mỗi ngân hàng. Đối với các ngân hàng, chỉ tiêu
này bằng một là tối ưu mà các ngân hàng đang hướng tới bằng cách nâng cao
công tác xử lý, định giá tài sản bảo đảm. Hiện nay ở các ngân hàng tỷ lệ này
vào khoảng 80%
Chỉ tiêu về nợ quá hạn của khoản vay khơng có tài sản bảo đảm so
với tổng nợ quá hạn

=
Trong đó, nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng sau khi đã vay, đã đến

thời hạn trả nợ theo thoả thuận trên hợp đồng tín dụng nhưng khơng có khả
năng hồn trả cho ngân hàng. Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ chất lượng bảo
đảm tiền vay có tài sản bảo đảm của khách hàng càng tốt và ngược lại. Thông
thường ở các ngân hàng hiện này, các khoản vay có tài sản bảo đảm thường
có nợ q hạn ít hơn so với các khoản vay khơng có bảo đảm bằng tài sản. Nợ
q hạn của khoản vay có tài sản bảo đảm chỉ chiếm khoảng 20% so với tổng
dư nợ quá hạn.
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền
vay
1.2.3.1.Các nhân tố thuộc về ngân hàng

Lê Thanh Ngọc

16

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Chất lượng của cán bộ tín dụng
Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng,có ảnh
hưởng rất lớn đến công tác thẩm định, định giá, quản lý và xử lý tài sản bảo
đảm. Trình độ chun mơn và đạo đức của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng lớn
đến chất lượng bảo đảm tiền vay. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ tín dụng
giỏi chun mơn, có kiến thức và kinh nghiệm, am hiểu pháp lụât thì sẽ có
khả năng đánh giá chính xác về giá trị tài sản bảo đảm, xác định được quyền
đối với tài sản bảo đảm là hợp pháp hay không. Tuy nhiên, trình độ chun

mơn thơi thì chưa đủ mà mỗi cán bộ tín dụng cịn cần phải có đạo đức tốt bởi
trong hoạt động ngân hàng, thường xuyên tiếp xúc với tiền nên con người rất
dễ nảy sinh lòng tham, móc nối với khách hàng để cố tình đánh giá sai giá trị
tài sản bảo đảm, gây ảnh hưởng đến vịêc xử lý tài sản bảo đảm khi khách
hàng vay khơng có khả năng trả nợ. Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp
cán bộ tín dụng bị tha hố, thơng đồng với khách hàng để mưu lợi cá nhân,
dẫn đến không thẩm định đầy đủ các dự án của khách hàng khi cho vay, dẫn
đến tình trạng dự án khơng có tính khả thi trên thực tế, khơng có khả năng thu
hồi vốn để trả nợ cho ngân hàng
Chiến lược kinh doanh và phát triển của ngân hàng trong từng thời
kỳ
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn mà các ngân hàng có chiến lược kinh
doanh và phát triển khác nhau nhằm mở rộng hay thắt chặt quy mô cho vay
của mình. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình danh mục những ngành
được ưu tiên và khun khích vay vốn trong từng thời kỳ. Nếu ngân hàng có
mục tiêu đẩy mạnh dư nợ cho vay sẽ mở rộng danh mục tài sản bảo đảm cũng
như mở rộng các hình thức cho vay để đáp ứng tốt hơn nhu cần vay vốn của
khách hàng, ngược lại, nếu ngân hàng đang cần thắt chặt dư nợ cho vay nhằm

Lê Thanh Ngọc

17

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính


tránh rủi ro cho ngân hàng trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế sẽ
quy định chặt chẽ về tài sản bảo đảm.
Năng lực quản lý giám sát của ngân hàng
Các sai phạm xảy ra có thể là do vơ ý hoặc cố ý, vịêc phát hiện các sai
phạm kịp thời là vô cùng cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Hiện này, các ngân
hàng thường tiến hành phân cấp tín dụng với mức phân cấp phụ thuộc vào
chính sách của từng ngân hàng. Với các khoản vay nhỏ có thể chỉ cần một vài
cán bộ thực hiện, nhưng đối với các khoản vay lớn phải đưa lên cấp trên,
thậm chí thành lập hội đồng xét duyệt. Chính sách quản lý của ngân hàng tốt
sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng đảm bảo tiền vay.
Ngồi ra cịn một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến chất lượng bảo
đảm tiền vay như hệ thống thông tin ngân hàng, chất lượng công tác xử lý,
kiểm tra giám sát tài sản bảo đảm…
1.2.3.2. Nhân tố thuộc về phía khách hàng
Tính trung thực, chính xác của các thơng tin do khách hàng cung cấp
Tư cách đạo đức của khách hàng vay có tác động lớn đến hiệu quả của
bảo đảm tiền vay. Những thông tin ban đầu mà ngân hàng có đựơc chủ yếu do
khách hàng cung cấp. Nếu họ cố tình che đậy, thiếu trung thực trong báo cáo
tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, các chứng từ sổ sách liên quan đến vịêc
sử dụng vốn vay thì sẽ gây khó khăn cho cán bộ thẩm định cũng như khó
khăn trong vịêc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, theo dõi, giám sát,
quản lý vốn vay của khách hàng. Ngược lại, nếu khách hàng trung thực, cung
cấp những thơng tin chính xác sẽ giúp ngân hàng lựa chọn được hình thức cho
vay phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay.
Năng lực tài chính, trình độ quản lý của khách hàng
Năng lực tài chính, trình độ quản lý của khách hàng vay vốn rất quan
trọng ảnh hưởng đến chất lượng của công tác bảo đảm tiền vay. Nếu trình độ

Lê Thanh Ngọc


18

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

quả lý của khách hàng yếu kém, không đủ khả năng cạnh tranh trên thương
trường sẽ dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ, không đủ khả năng trả nợ cho
ngân hàng khiến chất lượng của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút.
1.2.3.3.Các nhân tố thuộc về môi trường
Môi trường pháp lý
Hoạt động của một ngân hàng nói chung cũng như cơng tác bảo đảm tiền
vay nói riêng khơng thể nằm ngồi những văn bản pháp lụât do Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và các bộ ngành có liên quan ban hành. Hệ thống các
văn bản pháp lụât về bảo đảm tiền vay có sự thống nhất, hồn thiện và chặt
chẽ sẽ là hành lang pháp lý giúp các ngân hàng thương mại thực hiện vấn đề
an toàn trong hoạt động cho vay của mình. Nếu các văn bản pháp lụât chồng
chéo, không phù hợp với thực tế sẽ gây khó khăn trong q trình thực hiện
cơng tác bảo đảm tiền vay của các ngân hàng, khiến cho một số khách hàng
dựa vào kẽ hở của pháp lụât để lừa đảo ngân hàng. Vì vậy, hệ thống pháp lụât
đồng bộ và chặt chẽ là một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định chất lượng
của công tác bảo đảm tiền vay.
Môi trường kinh tế
Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động kinh doanh trong
nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng của các biến động kinh tế. Khi nền kinh tế
tăng trưởng ổn định, lạm phát thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng
trong vịêc định giá cũng như xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng. Ngược

lại, khi nền kinh tế có nhiều biến động, lạm phát ở mức cao, sản xuất kinh
doanh bị đình trệ, thua lỗ kéo dài gây khó khăn cho ngân hàng trong vịêc cho
vay vốn cũng như thu hồi món tiền đã cho vay, khó khăn trong việc xử lý tài
sản bảo đảm…
Các nhân tố bất khả kháng

Lê Thanh Ngọc

19

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Các nhân tố bất khả kháng như chiến tranh, thiên tai, hoả hoạn là là mối
đe doạ tiềm tàng mà khách hàng nào cũng phải đối mặt. Sự tác động của các
nhân tố đôi khi gây ảnh hưởng rất nặng nề tới người vay vốn, khiến cho khả
năng trả nợ của họ bị giảm sút, gây ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền
vay của ngân hàng.

Lê Thanh Ngọc

20

Lớp TCDN 47B



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM TIỀN

VAY TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
2.1.

Khái quát về ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Hà Nội
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập ngày
26/04/1957 theo quyết định 177/TTg của Thủ tướng chính phủ, tiền thân là
Ngân hàng Kiến thiết Vịêt Nam. Quy mô ban đầu gồm 8 chi nhánh, 200 cán
bộ. Đây là một trong bốn ngân hàng nhà nước lớn nhất, được hình thành sớm
nhất và lâu đời nhất ở Vịêt Nam, là doanh nghiệp nhà nước đặc biệt được tổ
chức theo mơ hình tổng cơng ty nhà nước. Mục tiêu của Ngân hàng Kiến thiết
là: “ hiệu quả, an toàn, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Kiến thiết Hà Nội (tiền thân
của ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Hà Nội ngày nay), nằm trong
hệ thống của ngân hàng Kiến thiết Vịêt Nam (là tiền thân của ngân hàng Đầu
tư và Phát triển) được thành lập chỉ sau ngân hàng Đầu tư và Phát triển một
tháng, ngày 27/05/1957. Nhiệm vụ của ngân hàng trong thời kỳ này là nhận
vốn từ ngân sách nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng cơ bản. Từ khi thành lập cho đến nay, trải qua hơn 50 năm
xây dựng và phát triển, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội trải qua 3 giai
đoạn phát triển:
Giai đoạn 1957-1965:

Nhiệm vụ của Chi hàng trong giai đoạn này là phục vụ công cuộc xây
dựng kinh tế sau chiến tranh chống Pháp và kế hoạch năm năm lần thứ nhất.
Khi đó, mơ hình tổ chức của chi nhánh Kiến thiết Hà Nội chỉ có 2 phịng là

Lê Thanh Ngọc

21

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

phịng cấp phát và phịng kế tốn. Từ năm 1957 đến năm 1960, Chi hàng đã
cung ứng vốn phục vụ cho 912 cơng trình xây dựng các khu cơng nghiệp, xây
dựng đường giao thông và các cơ sở hạ tầng quan trọng. Để hoàn thành tốt kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) chi nhánh Kiến thiết thành phố Hà Nội
đã cung ứng số vốn gấp 3 lần so với thời kỳ 1957-1960 nhằm đẩy mạnh triển
khai xây dựng các khu công nghiệp.
Tháng 9/1963, Chi hàng đã thành lập thêm 3 chi điểm phụ trách 3
huyện: Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm.
Giai đoạn 1965-1975:
Giai đoạn này chi hàng hoạt động nhằm phục vụ chống chiến tranh phá
hoại của giặc Mỹ leo thang ra đánh phá Miền Bắc và đấu tranh giải phóng
Miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong 4 năm (1965-1968), Ngân hàng đã đầu
tư mức vốn 782 triệu với 6070 chỉ tiêu cơng trình và là chi hàng có mức vốn
lớn nhất góp phần xây dựng thủ đơ. Năm 1966, chi hàng thành lập thêm chi
điểm thứ 4 phụ trách huyện Đông Anh.

Từ năm 1969-1973, chi hàng đã tăng số vốn đầu tư gấp 16 lần so với
năm 1961 và bằng cả 12 năm sau hồ bình lập lại (1957-1968).
Giai đoạn 1975 đến nay:
Giai đoạn này nhằm phục vụ công cuộc phục hồi, phát triển kinh tế
trong cả nước, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Tháng 5/1979: chi hàng kiến thiết Hà Nội đã tiếp nhận thêm chi điểm
thứ 5: chi điểm Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và chi điểm Sơn Tây.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới đòi hỏi các ngân hàng phải chuyển
biến mạnh mẽ đáp ứng tình hình mới. Ngày 14/11/1990, theo quyết định số
401, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Nội được chuyển thành Ngân hàng

Lê Thanh Ngọc

22

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Đầu tư và Phát triển Hà Nội và chủ yếu cung ứng vốn đầu tư những cơng
trình then chốt phục vụ cho vịêc xây dựng kinh tế thủ đô.
Ngày 1/1/1995, bộ phận cấp phát vốn ngân sách tách khỏi Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành Tổng cục đầu tư và phát triển trực thuộc
Bộ Tài Chính. Như vậy, từ khi thành lập cho tới 1/1/1995, Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển khơng hồn tồn là một ngân hàng thương mại mà chỉ là một
Ngân hàng Quốc doanh có nhiệm vụ nhận vốn từ ngân sách Nhà nước và tiến
hành cấp phát cho vay trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản.

Và từ ngày 1/1/1995, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung, chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội mới thực sự hoạt
động như một ngân hàng thương mại, kinh doanh đa năng tổng hợp phục vụ
chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng tình hình mới, các ngân hàng khơng thể
trơng chờ vào ngân sách Nhà nước mà phải mở rộng huy động các nguồn vốn
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các thành phần kinh tế, các tổ chức phi
Chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức nước
ngoài để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi
tổ chức, mọi thành phần kinh tế và dân cư.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà
Nội
Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội có 23 đầu
mối, hơn 350 cán bộ cơng nhân viên. Mơ hình tổ chức của chi nhánh gồm:

Lê Thanh Ngọc

23

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

Sơ đồ 1: Mơ hình cơ cấu tổ chức của chi nhánh
BAN GIÁM ĐỐC

Các phòng nghiệp

vụ

Các phòng chức
năng

Phòng quan hệ
khách hàng 1

Phòng quan hệ
khách hàng 2

Phòng dịch vụ
khách hàng cá
nhân

Phòng dịch vụ
khách hàng doanh
nghiệp

Phòng quan hệ
khách hàng 3

Phòng quan hệ
khách hàng 4

Phòng dịch vụ và
quản lỹ kho quỹ

Phịng thanh tốn
quốc tế


Sở gao dịch 1, 2, 6,
10, 11, 12, 17, 18

Phòng quản trị tín
dụng

Phịng quản lý rủi
ro

Phịng điện tốn

Phịng kế hoạch
tổng hợp

Phịng tổ chức
nhân sự

Phịng tài chính kế
tốn

Văn phịng

2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Hà Nội những năm gần đây
2.1.3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội
Trong nhưng năm 2005-2007, năm bản lề của kế hoạch ba năm
(2005-2007) nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục tăng trưởng cao, đầu tư trực tiếp
nước ngồi có nhìều khởi sắc, môi trường pháp lý đã được cải thiện đáng kể,
đặc bịêt trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều đổi mới,

bổ sung đồng bộ các cơ chế, quy chế, áp dụng linh hoạt các cơng cụ chính
sách tiền tệ và điều hành tỷ giá phù hợp với cung cầu thị trường, góp phần giữ

Lê Thanh Ngọc

24

Lớp TCDN 47B


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngân hàng – Tài chính

ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng truởng kinh tế. Tuy nhiên, do sự
tăng giá của nhìêu mặt hàng chủ yếu như xăng dầu, sắt thép, cùng với sự biến
động thất thường của giá vàng, đồng USD…và những bất ổn về chính trị,
chiến tranh vùng Vịnh, xung đột vũ trang, nạn khủng bố, cộng với tình trạng
dịch cúm gia cầm và thiên tai xảy ra liên tiếp đã tác động ảnh hưởng đến tình
trạng tăng trưởng kinh tế và hoạt động ngân hàng trong nước.
Đến năm 2008, nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế tồn cầu
nói chung, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng đã chịu nhiều tác động tiêu
cực. Trong những tháng đầu năm, nhằm kiềm chế lạm phát, chính sách thắt
chặt tiền tệ đã được Chính phủ đưa ra: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, yêu cầu các
ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc, kiểm sốt tăng trưởng tín dụng, tăng mạnh
lãi suất cơ bản (cao nhất tới 14% vào tháng 6 năm 2008). Với vịêc áp dụng
hàng loạt các biện pháp thắt chặt tiền tệ, cả hệ thống NHTM Vịêt Nam đã gặp
nhiều khó khăn: thiếu hụt thanh khoản kéo dài, lãi suất huy động liên tục tăng
cao, có thời điểm lên đến gần lãi suất trần cho vay là 21%/năm. Bên cạnh đó,
chi phí đầu vào tăng cao do trượt giá cũng gây khó khăn lớn cho hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa làm gia tăng áp lực nợ xấu đối với
ngân hàng, vừa hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng. Vào thời điểm
cuối q III, khủng hoảng tài chính tồn cầu kéo theo suy thoái kinh tế và lạm
phát cao ở Mỹ và hàng loạt các quốc gia trên thế giới, nền kinh tế lại đối mặt
với nguy cơ suy thoái buộc Chính phủ phải tiến hành các giải pháp kích cầu,
theo đó chính sách tiền tệ được nới lỏng, lãi suất cơ bản giảm mạnh kéo theo
lãi suất cho vay giảm đột ngột, tỷ giá tăng cao…
Trước những diễn biến trái chiều từ thị trường tài chính tiền tệ, NHĐTPT
chịu những ảnh hưởng không nhỏ, tuy nhiên, nhờ những quyết sách đúng đắn,
chỉ đạo quyết lịêt, nhanh nhậy và kịp thời, với tinh thần chủ động sáng tạo,

Lê Thanh Ngọc

25

Lớp TCDN 47B


×