Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Ảnh hưởng của phun chế phẩm điền mĩ và kali aba2 lên lá đến quang hợp và năng suất cây lạc (arachis hypogaea l )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.71 KB, 46 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN



NGUYỄN THỊ LOAN


ẢNH HƯỞNG CỦA PHUN CHẾ PHẨM
ĐIỀN MĨ VÀ KALI ABA2 LÊN LÁ ĐẾN
QUANG HỢP VÀ NĂNG SUẤT CÂY LẠC
(Arachis hypogaea L.)


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sinh lý học thực vật







HÀ NỘI, 2014

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN




NGUYỄN THỊ LOAN



ẢNH HƯỞNG CỦA PHUN CHẾ PHẨM
ĐIỀN MĨ VÀ KALI ABA2 LÊN LÁ ĐẾN
QUANG HỢP VÀ NĂNG SUẤT CÂY LẠC
(Arachis hypogaea L.)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sinh lý học thực vật
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN VĂN ĐÍNH



HÀ NỘI, 2014




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy Nguyễn Văn Đính đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy trong Ban Giám hiệu trường
ĐHSP Hà Nội 2 cùng các Thầy, Cô trong Ban Chủ nhiệm khoa Sinh – KTNN
trường ĐHSP Hà Nội 2,… đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận
này.
Trong thời gian thực tập tôi cũng nhận được sự giúp đỡ tận tình của ThS.
La Việt Hồng – Trưởng phòng thí nghiệm Sinh lí thực vật, đã đóng góp ý kiến

để hoàn thành đề tài khóa luận, nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Tập thể cán bộ Trung tâm Hỗ trợ Nghiên
cứu Khoa học và Chuyển giao Công nghệ - trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo
điều kiện thuận lợi về thiết bị, phương tiện để tôi có thể hoàn thành khóa luận
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và những người đồng nghiệp
đã luôn động viên, góp ý cho tôi trong thời gian qua.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên


NGUYỄN THỊ LOAN
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa được ai công bố.

Sinh viên


NGUYỄN THỊ LOAN


















DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng lạc trên thế giới từ 2000 - 2008

Bảng 1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng lạc ở Việt Nam từ 2000 -
2008

Bảng 3.1. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến diện tích lá
giống Lạc L14
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến diệp lục tổng
số giống Lạc L14
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến huỳnh quang
ổn định F
0
giống Lạc L14
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến huỳnh quang
cực đại F
m
giống Lạc L14
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến huỳnh quang
biến đổi F
vm
giống Lạc L14

Bảng 3.6. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến năng suất
của giống Lạc L14
Bảng 3.7. Đánh giá hiệu quả việc sử dụng chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2
phun lên lá giống lạc L14

DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến diện tích lá
của giống Lạc L14
Hình 3.2. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến diệp lục tổng
số giống Lạc L14
Hình 3.3. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến huỳnh quang
ổn định F
0
giống Lạc L14
Hình 3.4. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến huỳnh quang
cực đại F
m
giống Lạc L14
Hình 3.5. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến huỳnh quang
biến đổi F
vm
giống Lạc L14
Hình 3.6. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến năng suất
tươi của giống Lạc L14
Hình 3.7. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 đến năng suất
khô của giống Lạc L14


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Giải nghĩa
CCC
(2-chloroethyl) trimethyl ammonium
chloride
ĐC
Đối chứng
GA
Gibberellic acid
CT
Công thức
NAA
Naphthalene acetic acid
NSTT
Năng suất thực thu
ppm
Parts per million - Một phần triệu
TN
Thí nghiệm
VNĐ
Việt Nam đồng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Nguồn gốc, phân loại, phân bố và đặc điểm sinh học cây
l
ạc 4
1.2. Các nghiên cứu phun chế phẩm lên lá trong nước và ngoài nước 9
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.1. Đối tượng nghiên cứu 16

2.1.1. Giống lạc L14 16
2.1.2. Chế phẩm Kali ABA2 16
2.1.3. Chế phẩm Điền Mĩ 16
2.2. Phương pháp nghiên cứu 17
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 17
2.2.2. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu 18
2.2.2.1. Xác định chỉ tiêu quang hợp 18
2.2.2.2. Năng suất cây lạc 19
2.2.3. Phương pháp xử lí số liệu 19
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20
3.1. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 lên lá đến các chỉ tiêu
quang hợp 20
3.1.1. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và chế phẩm kali ABA2 ra lá đến
diện tích lá 20
3.1.2. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và chế phẩm kali ABA2 ra lá đến
hàm lượng diệp lục tổng số 21
3.1.3. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và chế phẩm kali ABA2 lên lá đến
huỳnh quang của diệp lục 23
3.1.3.1. Huỳnh quang ổn định F
0
23
3.1.3.2. Huỳnh quang cực đại F
m
24
3.1.3.3. Hiệu suất huỳnh quang biến đổi F
vm
26
3.2. Ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 lên lá đến năng suất
giống lạc L14 27
3.3. Đánh giá hiệu quả việc sử dụng chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 phun

lên lá giống lạc L14 30
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 31
4.1. Kết luận 31
4.2. Kiến nghị 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
PHỤ LỤC 37
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạc (Arachis hypogaea L.) vừa là cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực
phẩm và cũng là cây có dầu có giá trị kinh tế cao. Trên thế giới, trong số các
loại cây có dầu ngắn ngày, cây lạc được xếp thứ 2 sau đậu tương về diện tích
và sản lượng, xếp thứ 13 trong các cây thực phẩm quan trọng, xếp thứ 4 về
nguồn dầu thực vật và xếp thứ 3 về nguồn protein cung cấp cho người. Cây
lạc được gieo trồng phổ biến ở 115 nước trên thế giới với diện tích 25,6 triệu
ha. Hạt lạc chứa từ 40% đến 50% chất béo; 24% đến 27% protein và nhiều
chất khoáng như Ca, Fe, Mg, P, K, Zn cùng với nhiều loại vitamin, đặc biệt là
vitamin B [11]. Hạt lạc là nguyên liệu chính để sản xuất dầu ăn, bánh kẹo,
phomát… và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Các phụ phẩm của lạc (khô
dầu, thân, lá) dùng làm thức ăn cho gia súc đều rất tốt và rẻ tiền. Cũng như
các cây họ đậu khác, lạc là cây có khả năng cố định nitơ sinh học rất quan
trọng cho cây trồng thông qua hoạt động sống của vi sinh vật. Ước tính có
khoảng 72-124kg N/ha/năm cố định được sau khi canh tác lạc. Trong những
điều kiện tối ưu, cây lạc có thể cố định được từ khí trời khoảng 200-260kg
N/ha cung cấp cho đất. Bên cạnh còn có một khối lượng sinh học lớn của thân
lá lạc bị phân huỷ sau khi thu hoạch đã để lại một lượng mùn đáng kể, lạc
cũng được xem là cây che phủ đất rất tốt, nếu gieo trồng ở mật độ thích hợp,
quản lý cỏ dại tốt ở thời gian đầu, cây lạc hoàn toàn có khả năng khống chế
được cỏ dại trong suốt thời kỳ sinh trưởng, do vậy sẽ giảm đáng kể số công

lao động để chuẩn bị đất gieo trồng vụ sau. Vì vậy, trồng lạc có tác dụng cải
tạo đất, bồi dưỡng độ phì nhiêu cho đất, tạo điều kiện thuận lợi trong việc
luân xen canh, thâm canh tăng năng suất cây trồng, nhất là đối với những
vùng đất xám, đất bạc màu nghèo dinh dưỡng. Diện tích lạc của cả nước hiện
nay khoảng 256.000 ha (năm 2010), phân bố ở nhiều vùng sinh thái nông
2

nghiệp khác nhau, nhưng chủ yếu ở đồng bằng Sông Hồng; trung du và miền
núi phía Bắc; Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung [19]. Tuy nhiên, năng
suất lạc ở Việt Nam còn thấp so với một số nước (ở Việt Nam năng suất trung
bình 2,09 tấn/ha, I.Ixraen 6,8 tấn/ha, Iran 3,5 tấn/ha…) [2]. Hơn nữa, năng
suất cây trồng nói chung và năng suất cây lạc nói riêng là kết quả tổng hợp
của các quá trình sinh lý bên trong cây như quang hợp, hô hấp, trao đổi nước,
trao đổi khí… Trong đó, quá trình quang hợp có ảnh hưởng nhiều đến các quá
trình khác và là một yếu tố quyết định đến năng suất của cây.
Ở thực vật rễ là cơ quan hút nước và khoáng chính của cây. Ngoài ra,
chúng còn có khả năng hấp thụ một số chất từ thân, lá. Chính vì vậy, trong
sản xuất con người đã sử dụng một số chế phẩm như phân khoáng, các chất
kích thích sinh trưởng phun lên lá nhằm bổ sung một số chất cần thiết cho cây
trồng gọi chung là phân bón lá. Dùng phân bón lá có nhiều ưu điểm: chất dinh
dưỡng được cung cấp nhanh hơn bón gốc, hiệu suất sử dụng phân bón cao
hơn, chi phí thấp, ít ảnh hưởng đến môi trường và làm tăng nhanh các quá
trình sinh lí trong cây. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu ảnh
hưởng của phân bón lá đến các loại cây trồng khác nhau như lúa, lạc, đậu
tương, khoai tây Các công trình đó cho thấy, sử dụng phân bón lá làm tăng
năng suất và chất lượng nông sản [1], [6], [7], [18], [9], [10], [14], [15], [16],
[17].
Do lợi ích của phân bón lá đã được khẳng định, nên hiện nay trên thị
trường đã bán rất nhiều các chế phẩm dùng phun lên lá như: phân bón lá cao
cấp Đầu Trâu, NitraMa, Bortrac, Đầu trâu 502, HVP, HUMIX, HQ 201,

BIOTED, KOMIX Các chế phẩm này được sử dụng trên nhiều các đối
tượng khác nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các cây trồng đều có phản ứng
như nhau và cũng sử dụng với liều lượng được khuyến cáo bởi nhà sản xuất.
Vấn đề đặt ra là dùng phân bón lá như thế nào để có hiệu quả cao nhất cho
3

người nông dân sử dụng, đồng thời không ảnh hưởng đến chất lượng nông sản
nói chung.
Đặc biệt hiệu quả của chế phẩm đối với quang hợp và năng suất cây lạc
làm cơ sở khuyến cáo cho người sản xuất chưa được nghiên cứu nhiều. Do
vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Ảnh hưởng phối hợp của phun chế phẩm
Điền Mĩ và Kali ABA2 lên lá đến quang hợp và năng suất giống lạc L14”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiệu lực của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 lên lá đến khả
năng quang hợp và năng suất của giống lạc L14 được trồng phổ biến tại khu
vực Cao Minh - Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đó khuyến cáo
cách dùng sản phẩm này cho người nông dân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 lên lá đến các
chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu quang hợp: hàm lượng diệp lục; huỳnh quang diệp lục ( F
0
, F
m
,
F
vm
); diện tích lá.
- Năng suất cây lạc (năng suất tươi, năng suất khô).
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của phun chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 trên

cây lạc.
4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa lí luận: Nhằm góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu nghiên cứu
ảnh hưởng của các chế phẩm bón lá đến khả năng quang hợp và năng suất của
cây lạc.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài đưa ra kết luận khoa học
khẳng định hiệu quả của chế phẩm Điền Mĩ và Kali ABA2 trên cây lạc.


4




NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc, phân loại, phân bố và đặc điểm sinh học cây
l
ạc
Những người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đầu tiên đến châu Mỹ đã
thấy dân bản xứ trồng lạc cùng với những cây lương thực khác. Hiện nay,
cây lạc được trồng phổ biến trên thế giới và Việt Nam.
Lạc thuộc họ Đậu (Leguminosae), chi Arachi, phân họ Cánh bướm
phượng (Papillonacea), có tên khoa học là Arachis hypogaea L.,
chi Arachis và có đến 70 loài khác nhau. Dựa trên cấu trúc hình thái, khả năng
tổ hợp và mức độ hữu dục của con lai, người ta đã mô tả được 22 loài phân
chia theo nhóm và có bộ nhiễm sắc thể 2n = 40. Về đặc điểm hình thái, cây
lạc có 3 bộ phận chính là: rễ, thân và lá [21].
Rễ cái có thể ăn sâu từ 1 - 1,3m, nhưng trung bình khoảng 40-50cm, có
nhiều rễ phụ. Rễ phụ xuất phát từ các vị trí khác nhau trên rễ cái, phân nhánh

rất nhiều làm thành một mạng rễ dày đặc. Rễ phân bố ở lớp đất mặt khoảng
30cm. Trên các rễ con, khoảng 2-3 tuần sau khi hạt nảy mầm, thấy có nhiều
nốt sần xuất hiện. Trong các nốt sần này có các vi khuẩn hình que (Rhizobium
leguminosarum), có khả năng hấp thụ đạm khí trời và sống cộng sinh với cây
lạc. Tại nốt sần xảy ra quá trình cố định đạm cung cấp chất dinh dưỡng cho
cây [4].
Thân cây lạc thuộc loại thân thảo ít gỗ. Khi còn non thân thường tròn và
đặc. Khi thân già có hình góc cạnh và rỗng giữa. Tốc độ tăng trưởng của
thân tăng dần và đạt cao nhất ở thời kì ra hoa rộ. Cây lạc phân cành ngay từ
gốc. Cành cấp 1 được mọc từ gốc thường có nhiều hoa, cành cấp 2 mọc từ
5

cành cấp 1 và thường có ít hoa hơn. Số cành/cây khác nhau tuỳ giống và có
ảnh hưởng trực tiếp đến số hoa và quả của cây [4], [5].
Lá lạc thuộc lá kép lông chim chẵn, gồm 2 đôi lá chét. Hai lá mầm có vai
trò cung cấp chất dinh dưỡng cho cây ở giai đoạn đầu. Hai lá kèm hình mũi
mác có nhiệm vụ bảo vệ mầm, lá thật có màu xanh thẫm và nhọn ở đầu. Diện
tích lá đạt tối đa ở thời kỳ hình thành quả và hạt nhưng lại giảm nhanh và có
thể đạt giá trị âm vào thời kỳ chín. Khi hoa tắt thì lá không mọc thêm nữa.
Hoa tắt được vài ngày bộ lá chuyển sang màu vàng. Lúc quả chín, bộ lá đen
và rụng [4].
Hoa lạc mọc ở nách lá thành chùm từ 3 - 5 hoa/chùm. Hoa lạc màu vàng,
không có cuống gồm 5 phần: lá bắc, lá đài, tràng hoa, nhị đực và nhụy cái.
Khi cây có từ 9 - 10 lá thật thì hoa nở. Khi hoa nở là đã thụ phấn xong, sau đó
cuống nhụy mọc dài, nghiêng xuống, đầu bầu nhụy cắm vào đất. Quá trình
phân hoá hoa kéo dài nên quá trình nở hoa cũng kéo dài [4].
Quả bao gồm vỏ và hạt có từ 1-4. Vỏ quả có 3 lớp: tầng ngoại bì và tân
trung bì gồm những tế bào cứng, tầng nội bì gồm những tế bào mềm. Hình
dạng của quả thay đổi tùy giống. Mỏ quả tù, hơi tù, hoặc nhọn, eo lưng, eo
bụng rõ hay không rõ. Đường gân trên vỏ quả nhiều hay ít là tùy thuộc vào

giống. Đây là chỉ tiêu phân loại giống lạc. Màu sắc của vỏ quả thay đổi nhiều
theo điều kiện ngoại cảnh như: đất trồng, điều kiện phơi Thí dụ: trồng ở đất
cát vỏ quả có màu sáng bóng, trồng ở đất sét nặng, bón nhiều phân hữu cơ vỏ
quả không bóng, điểm những chấm đen và có khi thay đổi cả về dạng. Độ lớn
của quả thay đổi từ 1x0,5cm đến 8x12cm, bề dày của quả biến động từ 0,2-
2mm tùy thuộc và điều kiện canh tác và đặc tính của giống. Do đó chọn giống
hạt to, mỏng vỏ có ý nghĩa tăng sản lượng rất lớn. Số quả trên một cây thay
đổi tùy giống và điều kiện trồng trọt, mức độ thay đổi rất lớn từ 7-8 quả, có
khi đến hằng trăm quả trên cây.
6


Căn cứ theo thời gian sinh trưởng của cây lạc, người ta chia thành giống
chín sớm (thời gian sinh trưởng 90 - 125 ngày) và giống chín muộn (140 -
160 ngày). Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây lạc từ
24
0
C -33
0
C, dưới 12
0
C hạt lạc không nảy mầm, từ 15
0
C tỉ lệ nảy mầm khá
cao, dưới 17
0
C hoa không thụ phấn, yêu cầu độ ẩm khoảng 60% - 70%, lượng
mưa phân bố đều. Đất thích hợp nhất cho trồng lạc là đất có màu sáng, thoát
nước nhanh, dễ vỡ, lượng canxi, lân, chất hữu cơ vừa phải, mùn ít hơn 2%,
pH= 6,0 - 6,4 [4].

Ở nước ta, lạc được coi là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao và có giá trị
rất đa dạng. Trước hết, với giá trị dinh dưỡng cao nên lạc là cây thực phẩm
quan trọng trong đời sống của người dân. Trong dầu lạc chứa hàm lượng
axit béo chưa no cao (80% trong thành phần axit béo của dầu lạc) đây chính
là loại dầu thực phẩm tốt. Trong hạt lạc có chất lecithin (photphattidyl
cholin) có tác dụng trong việc làm giảm lượng cholesterol trong máu,
chống hiện tượng xơ vữa mạch máu. Lạc là loại thực phẩm cung cấp năng
lượng cao, 100 g hạt lạc cung cấp 590 cal, trong khi đậu tương là 400 cal.
Hạt có thể sử dụng trực tiếp hoặc ép lấy dầu [5]. Hạt lạc chứa nhiều loại
vitamin, đặc biệt là vitamin A. Vì vậy, sử dụng các sản phẩm từ hạt lạc sẽ
khắc phục được sự thiếu hụt vitamin A [3].
Lạc còn được sử dụng trong chăn nuôi, khô dầu lạc chế biến thành thức
ăn gia súc, vỏ quả lạc có thể nghiền thành cám, cám lạc có giá trị vitamin
tương đương với cám gạo. Vỏ lạc có thành phần là celluloz và hemicelluloz
được sử dụng để chế biến thành vật liệu hấp phụ kim loại nặng, đây là
một trong những hướng nghiên cứu có tính ứng dụng quan trọng trong việc
xử lí nước thải, bảo vệ nguồn nước.
Ngoài giá trị dinh dưỡng, lạc còn là cây cải tạo đất rất tốt. Cũng như các
7

cây họ đậu khác, ở rễ lạc có các nốt sần do các vi sinh vật cộng sinh cố định
đạm hình thành. Nhờ khả năng này mà lượng protein ở hạt và các cơ quan
như thân, lá,… cao hơn nhiều cây trồng khác. Cũng nhờ khả năng cố định
đạm nên sau khi thu hoạch đất trồng lạc cũng được cải thiện rõ rệt, lượng
đạm trong đất tăng, nhờ hoạt động của vi khuẩn nốt sần mà sau một vụ lạc
sẽ để lại trong đất 40 - 60 kg N/ha. Thân, lá lạc dùng làm phân bón cũng có
hàm lượng N, P, K tương đương với phân chuồng.
Hiện nay, lạc được trồng trên 100 nước và sản lượng đạt 53,38 triệu tấn.
Châu Á là nơi có diện tích trồng và sản lượng lạc cao nhất, chiếm trên 60%
sản lượng của thế giới. Châu Phi đứng thứ hai chiếm 30%, các châu lục khác

rất ít (châu Mỹ 5%, châu Âu 0,22%). Sản lượng lạc (trên 60%) tập chung ở
một số nước như Ấn Độ (chiếm 31% sản lượng lạc toàn thế giới), Trung
Quốc (15%), Xenegan, Nigieria và Mỹ [18]. Ấn Độ là nước đứng đầu thế
giới về diện tích trồng lạc (trên 8 triệu ha) nhưng năng suất thấp (6,9 - 9,89
tạ/ha), sản lượng hàng năm chỉ đạt 5,4 triệu tấn. Nói chung, năng suất lạc ở
Ấn Độ không đồng đều, có vùng chỉ đạt 0,5 tấn/ha, có vùng lại đạt tới 3
tấn/ha [20]. Trung Quốc là nước đứng thứ hai về diện tích trồng lạc. Diện
tích trồng lạc ở Trung Quốc có xu hướng tăng (năm 1993 tổng diện tích là
3379,0 nghìn ha, đến năm 2002 tổng diện tích là 4920,7 nghìn ha). Năng
suất lạc ở Trung Quốc khá đồng đều ở các vùng. Nhiều năm nay, sản
phẩm lạc Trung Quốc là một trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu nổi
tiếng trên thị trường quốc tế. Vào năm 60 của thế kỉ XX, năng suất lạc
toàn quốc trung bình đạt 3,0 tấn/ha. Sản lượng lạc hàng năm đạt 11,89 triệu
tấn, đứng đầu thế giới [18]. Mỹ là nước trồng lạc không lớn (0,59 triệu ha),
nhưng năng suất lạc cao nhất thế giới (3,1 tấn/ha), sản lượng đạt 1,8 triệu tấn
(số liệu năm 2003). Điều đó chứng tỏ Mỹ là nước đứng đầu về áp dụng các
tiến bộ khoa học kĩ thuật [20].
8

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng lạc trên thế giới

từ năm 2000 - 2008
Chỉ
tiêu/năm

2000
2004
2005
2006
2007

2008
Diện tích
(triệu ha)

24,49
26,37
26,96
24,67
25,45
25,06
Năng suất
(tấn/ha)

1,45
1,79
1,81
1,87
2,00
2,09
Sản lượng
(triệu tấn)

35,53
46,90
48,93
46,25
51,00
53,38
(Nguồn: theo PAS, USDA 2008) [38].
Diện tích trồng lạc ở Đông Nam Á không nhiều, chỉ chiếm 12,61%

diện tích thu hoạch và 12,95% sản lượng lạc của châu Á. Trong số 7 nước
có trồng lạc ở khu vực này thì Myanmar là nước có diện tích trồng lạc lớn
nhất, theo sau là Indonesia. Tổng diện tích trồng lạc của hai nước này chiếm
tới gần 75% diện tích trồng lạc trong khu vực. Về năng suất, nhìn chung
năng suất lạc trong khu vực còn ở mức thấp, trung bình là 1,17 tấn/ha.
Malaysia là nước có diện tích trồng lạc không lớn (6000 ha) nhưng lại có
năng suất cao nhất khu vực, trung bình năng suất đạt 2,33 tấn/ha và tương
đương với mức năng suất cao của một số nước trên thế giới [19].
Ở Việt Nam, cây lạc được trồng rộng rãi ở hầu hết các tỉnh, thành trong
cả nước và được chia theo các vùng sinh thái ở hai miền Nam, Bắc. Diện tích,
năng suất và sản lượng lạc không ngừng phát triển. Năm 2000, diện tích lạc
chỉ đạt 24,1 nghìn ha, với năng suất 1450 kg/ha, đạt sản lượng 349,0 nghìn
tấn nhưng đến năm 2007 diện tích lạc ở nước ta đã lên 27,99 nghìn ha,
năng suất 1980 kg/ha, với sản lượng 554,2 nghìn tấn. Do lạc là cây trồng
nhiệt đới và á nhiệt đới, hơn nữa yêu cầu về đất đai không quá khắt khe nên
phù hợp với điều kiện nước ta [18].

9

Bảng 1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng lạc ở Việt Nam
từ 2000 -
2008
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

2007
2008
Diện tích
(1000 ha)
244,9
244,6
244,7
243,8
263,7
269,6
264,7
254,5
256,0
Năng suất
(tấn/ha)
1,45
1,48
1,62
1,67
1,78
1,81
1,87
2,00
2,09
Sản lượng
(1000 tấn)
355,3
363,1
400,4
306,2

469,0
489,3
462,5
510,0
533,8
(Nguồn: theo Tổng cục thống kê Việt Nam 2010) [37].
Tình hình sản xuất lạc ở các vùng sinh thái khác nhau cũng rất khác nhau
về diện tích, năng suất và sản lượng. Nhìn chung, các vùng trồng lạc ở miền
Bắc có diện tích ổn định hơn ở miền Nam. Trong những năm gần đây, khí
hậu thay đổi phức tạp, đất nông nghiệp bị rửa trôi và phong hóa nhanh, hàm
lượng mùn và dinh dưỡng thấp (đất bạc màu, đất phù sa cổ, đất dốc tụ, ). Vì
vậy, trồng lạc là một trong những biện pháp cải tạo đất, tạo nền nông nghiệp
bền vững [3].
Các chất khoáng cần thiết cho cây lạc bao gồm các nguyên tố đa lượng
(N, P, K…) và các nguyên tố vi lượng (Mo, Bo, Cu…). Ngoài ra, số giờ
nắng/ngày cũng ảnh hưởng rõ rệt đến sự ra hoa, tạo quả của lạc. Trong
những ngày nắng hoa nở rộ và quá trình thụ phấn, thụ tinh thuận lợi hơn
ngày không nắng. Điều kiện đất đai, thổ nhưỡng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
sự sinh trưởng và phát triển của cây lạc. Từ những đặc điểm đó, cần có biện
pháp kỹ thuật thích hợp để nâng cao năng suất, chất lượng và tính chống chịu
của cây lạc [5].
1.2. Các nghiên cứu phun chế phẩm lên lá trong nước và ngoài nước
Để tăng năng suất cây trồng, các nhà khoa học đã có nhiều cách tiếp cận
khác nhau như lai tạo giống mới, cải tiến các biện pháp kĩ thuật, có chế độ
10

chăm sóc hợp lí đặc biệt chú ý đến nước, dinh dưỡng cung cấp cho cây
trồng… trong đó có biện pháp sử dụng phân bón qua lá nhằm cung cấp cho
cây trồng các nguyên tố đa lượng, nguyên tố vi lượng, các chất điều hòa sinh
trưởng thực vật.

Theo tác giả Ziaeian và Malakouti (2001) [36] thì kẽm, đồng và mangan
được hấp thụ tăng lên rõ rệt ở đối tượng ngũ cốc và cây Irit (flag). Các
nguyên tố vi lượng giúp sự hình thành diệp lục, axit nucleic, sinh tổng hợp
protein và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của một số enzym trong
quang hợp cũng như một số enzym tham gia vào quá trình hô hấp của cây.
Theo báo cáo của NDFC (1998) để tạo ra 2 tấn sản lượng ngũ cốc thì một ha
ngũ cốc đã lấy đi 34 - 50 gam đồng, 232 - 1219 gam sắt, 140 - 330 gam
mangan và 66 - 209 gam kẽm từ đất [32]. Mặc dù chúng ta cung cấp đủ dinh
dưỡng NPK cho cây nhưng chúng ta sẽ không thể thu được năng suất cây
trồng tối đa nếu cây trồng không được cung cấp các nguyên tố vi lượng. Theo
tác giả Nataraja (2006) [31] thì tiềm năng năng suất cây trồng chỉ có thể đạt
tối đa khi các nguyên tố vi lượng được xử lí cho cây trồng cùng với sự có mặt
đầy đủ của các nguyên tố NPK. Tác giả Chaudry và cộng sự (2007) [25] cho
rằng có sự tương quan thuận giữa hàm lượng các nguyên tố vi lượng (kẽm, sắt
và Bo) được cung cấp cho cây với năng suất của chúng ở đối tượng lúa mì,
tác động kết hợp các nguyên tố này cho hiệu quả cao hơn so với tác động đơn
lẻ của từng nguyên tố. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Nadim M.A (2011)
khi xử lí trên đối tượng lúa mì bằng các nguyên tố vi lượng khác nhau đã cho
thấy Bo cải thiện năng suất của cây lúa mì, đồng và mangan có mối quan hệ
thuận với sản lượng của lúa mì [30]. Có thể chỉ ra vai trò của một số nguyên
tố vi lượng như sau: kẽm đóng vai trò rất quan trọng trong rất nhiều quá trình
chuyển hóa trong cây, còn sự thiếu hụt nguyên tố sắt là nguyên nhân gây mất
cân bằng trong chuyển hóa ion đồng và ion mangan. Hàm lượng các nguyên
11

tố vi lượng trong đất sẽ bị cạn kiệt nếu chế độ canh tác liên tục không hợp lí
mà không được bổ sung thì sẽ ảnh hưởng tới sinh trưởng và năng suất cây
trồng sau đó. Theo Deb và Zeliaing (1975) nghiên cứu trên đối tượng cây lúa
cho thấy không có sự tương quan thuận giữa trọng lượng khô của cây lúa với
việc xử lí ion kẽm hoặc ion sắt. Hàm lượng kẽm của thực vật không bị ảnh

hưởng khi xử lí ion kẽm và ion sắt trong khi đó hàm lượng sắt lại giảm xuống
khi xử lí bằng hai ion này [24] .
Phun qua lá (Foliar spray) là kĩ thuật được sử dụng rộng rãi trong việc
cung cấp nguyên tố vi lượng đặc biệt là sắt và mangan cho nhiều loại cây
trồng khác nhau. Các loại muối vô cơ tan thường tác động giống như các hợp
chất chelat tổng hợp trong phương pháp phun qua lá này, vì thế các muối vô
cơ được lựa chọn vì giá rẻ hơn so với áp dụng các hợp chất chelat. Nếu phun
qua lá với nồng độ thích hợp thì có thể khắc phục được các triệu chứng thiếu
hụt vi lượng ngay trong một vài ngày đầu sau phun. Có hai kĩ thuật thích hợp
dùng trong phun qua lá. Thứ nhất là sử dụng các bình phun tĩnh điện
(electrostatic sprayers), kĩ thuật này giúp phun dung dịch dưới dạng sương mù
làm tăng hiệu quả bám của dung dịch vào cây. Kĩ thuật phun qua lá thứ hai
được gọi là Sonic BloomTM, kĩ thuật này sử dụng âm thanh để tăng cường
khả năng hấp thụ dinh dưỡng. Dinh dưỡng qua lá được sử dụng rộng rãi để
cung cấp chính xác các nguyên tố thiếu hụt cho cây mà đất không cung cấp đủ
qua bộ rễ. Những lợi ích của dinh dưỡng qua lá được quan sát ở nhiều điều
kiện khác nhau.
Đã có quan sát thấy rằng các nguyên tố vi lượng giúp tăng năng suất của
nhiều loại cây trồng khác nhau. Khi đất có độ pH cao và các chất hữu cơ thấp,
thì thường xảy ra sự thiếu hụt dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng. Tác giả
Savithri và cộng sự [33] cho rằng năng suất lúa sẽ tăng tối đa khi phun qua lá
dung dịch FeSO
4
1 - 2%. Tác giả Ali và cộng sự [23] cũng nghiên cứu trên
12

đối tượng cây lúa cho thấy năng suất đạt cao nhất (6087 kg/ha) khi xử lí đồng
thời NPK + Zn
2+
+ Cu

2+
+ Fe
2+
+ Mn
2+
so với xử lí riêng bằng NPK (đạt 4073
kg/ha). Tác giả Johnson và cộng sự thông báo rằng khi xử lí nguyên tố vi
lượng làm tăng rõ rệt năng suất lúa gạo. Hơn nữa, theo Sultana và cộng sự
[35] khi phun qua lá dung dịch MnSO
4
trên đối tượng gây thiếu hụt vi lượng
do muối làm tăng hoạt động quang hợp của cây, tăng tích lũy chất khô, tăng
số hoa và tăng năng suất ngũ cốc. Đã có nghiên cứu ứng dụng phương pháp
bổ sung nguyên tố vi lượng qua đất và phun qua lá trên cây lúa mì kết quả là
có sự tương quan thuận giữa năng suất lúa mì với hàm lượng nguyên tố vi
lượng được sử dụng [25]. Việc phun qua lá các nguyên tố vi lượng cho thấy
có hiệu quả với so với việc cung cấp nguyên tố vi lượng qua đất trồng. Phun
qua lá bằng nguyên tố Bo vào giai đoạn ra hoa ở cây lúa mì làm tăng năng
suất của chúng, trong khi đó sự thiếu hụt nguyên tố này sẽ ảnh hưởng đến sự
hình thành hạt phấn dẫn đến ảnh hưởng tới năng suất lúa mì [27]. Nhóm tác
giả Khan, M.B (2010) nghiên cứu cũng trên đối tượng lúa mì về hiệu quả của
nguyên tố vi lượng được cung cấp qua chế phẩm Shelter bằng phương pháp
phun qua lá cho thấy có sự gia tăng lên về số hạt trên bông, trọng lượng 1000
hạt, năng suất kinh tế, năng suất sinh học… [28].
Theo nghiên cứu của tác giả Khosa S.S và cộng sự (2011) [29], trên đối
tượng cây hoa cúc đồng tiền Gerbera jamesonii L. khi phun qua lá nguyên tố
đa lượng NPK và nguyên tố vi lượng (Zn, B, Fe và Mn) cho thấy khi phun bổ
sung dinh dưỡng qua lá làm cây ra hoa sớm hơn (khoảng 81,88 ngày) so với
đối chứng không phun bổ sung chất dinh dưỡng qua lá (105,55 ngày), chiều
cao cây, số cành/cây, chiều dài cành/cây, số lá/cây, diện tích lá đều tăng ở các

công thức thí nghiệm so với công thức đối chứng không phun bổ sung nguyên
tố đa lượng và vi lượng qua lá.
13

Như đã đề cập, phun qua lá là phương pháp tin cậy cho phép bổ sung
dinh dưỡng cho thực vật, ngoài việc thực vật lấy dinh dưỡng chủ yếu từ đất.
Đối với một số yếu tố khoáng ở một vài loại cây trồng thì phun qua lá là cách
tốt nhất để cung cấp dinh dưỡng cho chúng ví dụ như nguyên tố canxi với cây
trồng ăn quả. Tuy nhiên, lá và quả có thể bị cháy nếu nồng độ các chất phun
qua lá quá cao. Ngược lại, nếu nồng độ dung dịch phun quá thấp, thực vật sẽ
không có đủ dinh dưỡng. Thông thường, cây trồng cần các nguyên tố vi lượng
(đây là các nguyên tố được hấp thụ bởi thực vật với một lượng nhỏ) được
cung cấp nhờ phương pháp phun qua lá. Tuy nhiên, đối với các nguyên tố đa
lượng chẳng hạn như nitơ, kali, thì việc phun qua lá không thể cung cấp đủ
cho cây vì đối với những chất này cây cần một lượng lớn. Nguyên tắc là, các
chất vi lượng được dùng ở dạng dung dịch 1% (1 kg/100 lít) và đối với cây
trồng ngoài đồng ruộng nồng độ dùng thường thấp hơn 1%, còn đối với cây
trồng vườn nhà thường dùng ở nồng độ 0,1%. Đối với các nguyên tố đa lượng
thì thường sử dụng nồng độ cao hơn, dao động từ 5-10% (khối lượng/thể tích)
đối với cây ngoài đồng ruộng, còn rau là 1-2% (1-2 kg/100 lít) và 0,5% dùng
cho cây ăn quả. Khi phun hai hay nhiều dung dịch dinh dưỡng qua lá để kích
thích, có thể sẽ làm giảm hiệu quả mong muốn và nên phun nhắc lại nếu cần
thiết.
Chế phẩm Pix (mepiquat chloride) là một chất điều hòa sinh trưởng thực
vật được sử dụng rộng rãi giúp làm tăng năng suất ở cây bông nhưng không
làm ảnh hưởng đến chất lượng sợi. Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật
như Atonik, Recine và Cytozmye làm tăng năng suất cây bông. Theo tác giả
Abro và cộng sự (2004) [22] thông báo rằng naphthalene làm chậm quá trình
thành thục và tăng chiều cao, số chồi và năng suất ở cây bông.
14


Tác giả Singh và cộng sự (1991) [34] sử dụng hợp chất mixtalol (30
ml/10 lit) phun qua lá là tăng số lá trên cây bottlegourd. Khi sử dụng GA
3
để
tẩm ướt hạt trong 12 giờ sẽ làm tăng số lá trên cây ở muskmelon.
Tác giả Ahmed và cộng sự (1985) phun cycoccel (500ppm) ở giai đoạn
21 ngày sau khi trồng ở đối tượng khoai tây làm cho hàm lượng diệp lục a và
b tăng cao hơn so với đối chứng. Tương tự, khi sử dụng CCC và mepiquat
chloride ở khoai tây làm tăng hàm lượng diệp lục so với đối chứng [25]. Khi
phun qua lá chế phẩm mixtalol (1-2ppm) làm tăng hàm lượng đường khử,
hàm lượng đường không khử, đường tổng số và protein ở quả cà chua. Khi
phun qua lá GA
3
(10ppm) ở giai đoạn 2 và 4 lá thực trên cây dưa chuột nhận
thấy năng suất quả tăng cao hơn so với đối chứng. Phun CCC qua lá ở nồng
độ (250 và 500ppm) ở giai đoạn 4 lá thực và sau 15 ngày so với phun lần 1
trên cây mướp đắng cho năng suất cao nhất so với phun axit abxixic (25ppm)
và ethrel (250ppm) và boron (1ppm).
Ở Việt Nam, theo Trần Thị Áng (1996) khi nghiên cứu ảnh hưởng của
phân vi lượng đối với năng suất và phẩm chất một số cây trồng thì: phân vi
lượng đã làm tăng năng suất lúa từ 15 - 20% so với đối chứng, ngô tăng từ 7 -
26%. Hơn nữa phân vi lượng còn làm tăng phẩm chất nông sản, làm hàm
lượng tinh bột tăng 4 - 7%, làm tăng lượng protein tổng số trong hạt ngô VMI
14% [1].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Mã cũng cho thấy: phân vi
lượng có tác động mạnh đến sự hình thành nốt sần ở rễ đậu tương, làm tăng
hoạt tính enzim nitrogennase từ 20 - 30% làm tăng năng suất và hàm lượng
protein từ cây đậu tương. Cũng theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Văn Mã khi phun dung dịch vi lượng qua lá ở nồng độ 0,02% vào lúc ra hoa

làm tăng khả năng chịu hạn và năng suất so với đối chứng. Xử lý hạt giống
với nồng độ 0,005% và phun lên lá với nồng độ 0,02% cũng có kết quả tương
15

tự [12], [13]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Văn
Mã đã khẳng định: phun phân vi lượng dưới dạng chế phẩm Vilado có ảnh
hưởng tới khả năng chịu hạn của đậu xanh và cũng khẳng định khi phun
Vilado vào thời kỳ ra hoa và cành có thể làm tăng năng suất đậu xanh từ 10 -
13%, tăng hàm lượng protein 15 - 35% [10]. Theo nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Duy Minh (2011) về hiệu lực của molypden tẩm vào hạt và phun trên
lá cây đậu xanh cho thấy: khi sử dụng ở các nồng độ 1, 5, 10, 20 mg/l Mo tẩm
vào hạt làm tăng đáng kể tỷ lệ nảy mầm của đậu xanh, còn khi sử dụng dung
dịch bổ sung molypden phun qua lá ở các giai đoạn 7 lá, 9 lá, ra hoa và tạo
quả đều làm tăng chiều cao cây, tăng diện tích lá, giảm cường độ thoát hơi
nước, tăng khả năng giữ nước, tăng hàm lượng diệp lục, năng suất quang hợp
thuần túy ở cây đậu xanh [14], [15].
Trên đối tượng cây dâu, nghiên cứu của tác giả Trần Thị Ngọc (2011) đã
tiến hành thí nghiệm phun chế phẩm bón lá Pomior lên cây dâu với 3 ngưỡng
nồng độ 0,4%; 0,5%; 0,6% và khoảng cách giữa 2 lần phun là 10 ngày. Kết
quả thí nghiệm cho thấy: chế phẩm Pomior đã có tác dụng làm tăng khả năng
sinh trưởng của cây dâu, từ đó tăng năng suất lá dâu từ 18,73% đến 44,95% ở
vụ xuân hè và 12,41% đến 55,11% ở vụ hè thu. Chế phẩm Pomior cũng có tác
dụng làm tăng chất lượng lá dâu qua kết quả nuôi tằm, làm tăng năng suất kén
tằm từ 9,59% đến 16,67% ở vụ xuân hè và 10,51% đến 27,17% ở vụ hè thu.
Trong các nồng độ thí nghiệm thì kết quả cao nhất ở nồng độ 0,6%; tiếp là
nồng độ 0,5%; cuối cùng là nồng độ 0,4% [16].
16

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Giống lạc L14
- Là giống nhập nội từ Trung Quốc, được Trung tâm Tài nguyên thực
vật kiểm nghiệm đánh giá là giống có khả năng chịu hạn khá.
- L14 cho năng suất cao và có nhiều đặc điểm nông học tốt. Giống
thuộc dạng hình thực vật Spanish, thân đứng, tán gọn, chống đổ tốt, lá màu
xanh đậm.
- Thời gian sinh trưởng: 120-135 ngày (vụ xuân); 90-110 ngày (vụ thu
và thu đông).
- Chiều cao thân chính 30-50 cm, quả to, eo nông, có gân quả nông, vỏ
lụa màu hồng, khối lượng 100 quả 155-165 g, khối lượng 100 hạt 60-65g, tỷ
lệ nhân/quả 72-75%
- Năng suất 45-60 tạ/ha.
- Chống chịu sâu bệnh: kháng bệnh lá (Đốm nâu, đốm đen, rỉ sắt ) khá
cao, kháng bệnh chết ẻo (héo xanh vi khuẩn) khá. Chịu thâm canh cho năng
suất cao.
2.1.2. Chế phẩm Kali ABA2
- Được sản xuất từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Mỹ, Nga… đảm
bảo độ tinh khiết 99,9%, thành phần: K
2
O 58%, Bo 2%, ANA 0,4%, GA3
0,1%. Với tỉ lệ kali cao + enzyme kích thích sinh trưởng giúp cây tăng năng
suất, rút ngắn thời gian thu hoạch, nâng cao chất lượng nông sản.
- Liều lượng: 1 gói 20 g pha với 16 - 20 lít nước sạch phun cho 360m
2

(1 sào Bắc Bộ).
2.1.3. Chế phẩm Điền Mĩ
- Thành phần: (% ppm)

×