Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.29 KB, 59 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) có nội dung phù hợp
với nhu cầu phát triển khách quan của xã hội, nhu cầu quản lý nhà nước là vấn đề
có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả quản lý nhà nước. Có thể
thấy rằng chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật và khả năng đảm bảo tính
khả thi phụ thuộc rất nhiều vào việc tuân thủ quy trình xây dựng, ban hành văn bản
QPPL. Các chủ thể tham gia xây dựng, ban hành văn bản là nhân tố hàng đầu
quyết định đến chất lượng của một văn bản pháp luật nói chung và văn bản QPPL
nói riêng. Thực tế hiện nay, nhiều văn bản QPPL được ban hành không đảm bảo
chất lượng, tính khả thi kém. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến
tình trạng đó là do các chủ thể chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với
việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL.
Bên cạnh đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi
bổ sung 2002), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm
2004 chỉ quy định một cách chung chung về trách nhiệm của các chủ thể trong quá
trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL mà chưa đề cập một cách rõ ràng đến các
biện pháp bảo đảm khi thực hiện trách nhiệm của các chủ thể này. Ví dụ như việc
không hoàn thành tốt sẽ phải gánh chịu hậu quả là áp dụng chế tài, hoặc hoàn
thành tốt sẽ được khuyến khích, khen thưởng.
Hiện nay, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu sâu về trách nhiệm
của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL, có chăng chỉ
mới dừng lại ở những bài viết trên tạp trí chuyên ngành luật và chỉ đề cập ở mức độ
khái quát. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu làm rõ trách nhiệm của các chủ
thể đối với việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL là hết sức cần thiết. Trên cở sở
làm rõ trách nhiệm cụ thể của từng chủ thể trong từng giai đoạn của quy trình xây
dựng, ban hành văn bản QPPL, đồng thời đánh giá thực trạng của việc thực hiện
nhiệm vụ của các chủ thể này, có thể chỉ ra được nguyên nhân dẫn đến sự thiếu trách
nhiệm của các chủ thể và đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục, nâng cao
Khóa luận tốt nghiệp
hơn nữa trách nhiệm của các chủ thể đối với việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL;


đảm bảo chất lượng và đảm bảo tính khả thi của văn bản QPPL.
Vì vậy, người viết khoá luận đã quyết định chọn đề tài: “Trách nhiệm của
các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”
làm đề tài khoá luận của mình. Trách nhiệm của các chủ thể đối với việc xây dựng,
ban hành văn bản QPPL được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân
(HĐND), Ủy ban nhân dân(UBND). Thông qua các bước của quy trình xây dựng,
ban hành văn bản QPPL được quy định trong các Luật này, người viết chỉ ra trách
nhiệm của từng chủ thể chứ không nêu lại các bước của quy trình.
Từ phạm vi của đề tài, khoá luận được trình bày gồm lời nói đầu, kết luận
và hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về văn bản quy phạm pháp luật và trách
nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật.
Chương 2: Tình hình thực hiện trách nhiệm của các chủ thể và một số giải
pháp nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay.
Nghiên cứu trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề thực sự phức tạp cả về lý luận và thực tiễn.
Người viết mới chỉ là sinh viên với luợng kiến thức còn thiếu, kinh nghiệm thực tế
chưa nhiều nên mặc dù đã có sự chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn và sự cố
gắng, nỗ lực của bản thân nhưng cũng không thể tránh khỏi những thiếu xót, hạn
chế. Vì vậy, kính mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn
để khóa luận đạt kết quả cao hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Kiều Thị Mai HC30C
2
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG,
BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1.Văn bản quy phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm
Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu, có tác động trực tiếp và sâu sắc
đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong hệ thống văn bản pháp luật hiện
hành, nhóm văn bản quy phạm pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng nhà nước. “Văn bản quy phạm
pháp luật” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trên sách báo pháp lý và các
văn bản của Nhà nước.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/11/1996 (được sửa đổi, bổ sung một
số điều vào ngày 16/12/2002) đã chính thức đưa ra định nghĩa về văn bản QPPL.
Định nghĩa này ngày càng hoàn chỉnh hơn khi Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật mới ra đời ngày 12/06/2008, có hiệu lực vào ngày 01/01/2009. Theo đó,
“Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối
hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong
Luật này hoặc quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt
buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”
(Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008).
Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo hình thức, thủ tục,
trình tự được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung,
được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng có liên quan và có hiệu lực trong
phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
các biện pháp theo quy định của pháp luật.

Kiều Thị Mai HC30C
3
Khóa luận tốt nghiệp
1.1.2. Đặc điểm
Nhóm văn bản QPPL là một phần không thể thiếu trong hệ thống văn bản
pháp luật, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Do đó, văn bản quy phạm pháp luật vừa
mang những đặc điểm của văn bản pháp luật nói chung nhưng vừa có những đặc
điểm riêng biệt. Từ định nghĩa mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008 đã nêu, có thể thấy văn bản QPPL có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành.
Hiện nay, pháp luật quy định rất nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật bao gồm: Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân
dân các cấp, Uỷ ban nhân dân các cấp; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phối
hợp với nhau hoặc phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương để ban
hành văn bản QPPL liên tịch. Ngoài ra, một số cá nhân cũng có thẩm quyền ban
hành văn bản QPPL như: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước (Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2008).
Như vậy, chỉ những chủ thể do pháp luật quy định mới có quyền ban hành
văn bản QPPL. Nếu văn bản được ban hành bởi một cá nhân hay tổ chức mà pháp
luật không quy định về thẩm quyền ban hành thì văn bản đó không có hiệu lực
pháp luật. Đây là dấu hiệu đầu tiên để nhận diện một văn bản là văn bản QPPL.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục và
hình thức luật định.
Với vị thế đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
do đó việc xây dựng và ban hành văn bản QPPL cần phải đảm bảo sự chặt chẽ,
thống nhất. Trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL được quy định chi tiết trong

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004. Theo đó, một
văn bản QPPL do cơ quan nhà nước hay cá nhân có thẩm quyền ban hành phải trải
qua các bước chính sau: lập chương trình xây dựng văn bản QPPL, soạn thảo, thẩm
định, thẩm tra, trình dự thảo và thông qua ký, công bố văn bản QPPL. Ngoài ra,
Kiều Thị Mai HC30C
4
Khóa luận tốt nghiệp
các chủ thể có thẩm quyền xây dựng, ban hành văn bản QPPL phải tuân thủ các
quy định pháp luật về hình thức của văn bản. Hình thức của văn bản QPPL bao
gồm tên gọi và thể thức của văn bản. Khi soạn thảo một văn bản QPPL các chủ thể
cần lựa chọn tên gọi phù hợp cho văn bản, đồng thời không được trình bày văn bản
một cách tuỳ tiện mà phải theo đúng thể thức pháp luật quy định.
Việc tuân thủ những quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và hình thức
trong hoạt động ban hành văn bản QPPL góp phần nâng cao chất lượng của văn
bản QPPL đồng thời nhằm hạn chế những khiếm khuyết trong hoạt động của Nhà
nước.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật có nội dung là các quy tắc xử sự chung,
được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận nhà nước và pháp luật đã khẳng định rằng các quy tắc xử sự chính là
những khuôn mẫu, chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội phải
tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh [1, tr 66, 71].
Về mặt hình thức, quy phạm pháp luật chứa đựng trong các văn bản QPPL.
Trong mối liên hệ này, quy phạm pháp luật là nội dung còn văn bản QPPL là hình
thức. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của văn bản QPPL. Do chứa đựng, thể hiện
ý chí của Nhà nước với nội dung là các quy tắc xử sự cho nên văn bản QPPL có
giá trị bắt buộc chung và được triển khai thực hiện nhằm mục đích quản lý và duy
trì trật tự xã hội. Đồng thời với nội dung là các quy phạm pháp luật, văn bản QPPL
tác động lên nhiều đối tượng có đặc điểm chung hoặc là một nhóm đối tượng nhất

định nằm trong điều kiện, hoàn cảnh mà quy phạm pháp luật quy định.
Bên cạnh đó, để bảo đảm thực hiện các văn bản QPPL trên thực tế, nhà nước
sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục và đặc biệt là biện
pháp cưỡng chế. Tuỳ từng đặc điểm của văn bản QPPL và mức độ văn bản đó tác
động đến các đối tượng khác nhau trong xã hội mà nhà nước sẽ có những biện
pháp phù hợp để triển khai đưa văn bản QPPL vào đời sống.
Như vậy, chỉ những văn bản nào hội đủ các đặc điểm nêu trên mới được coi
là văn bản quy phạm pháp luật. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt văn bản
QPPL với các loại văn bản pháp luật khác.
Kiều Thị Mai HC30C
5
Khóa luận tốt nghiệp
1.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
1.2.1. Khái niệm
Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội, mà xã hội luôn vận động
và biến đổi không ngừng. Do đó, để dung hòa lợi ích của tất cả các giai cấp và đảm
bảo sự ổn định bền vững của xã hội, pháp luật ra đời và trở thành một công cụ
quan trọng, điều chỉnh hầu hết các mối quan hệ xã hội. Trong các mối quan hệ xã
hội đó, bất kỳ chủ thể nào cũng bị chi phối bởi nhiều loại quy phạm và đều phải
gánh chịu những trách nhiệm nhất định. Trong quá trình xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật yếu tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu không
thể thiếu để văn bản ra đời đúng tiến độ, đúng tiêu chuẩn, đảm bảo chất lượng và
nhất là bảo đảm được tính khả thi trong thực tế áp dụng. Điều này đặt ra yêu cầu
các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL phải thể hiện được
hết trách nhiệm của mình. Vậy, trách nhiệm được hiểu như thế nào?
Trong từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “ trách nhiệm” là “ điều phải làm, phải
gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”[4, tr.1678]. Trách nhiệm còn được hiểu là
“phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu
kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả” [5, tr.1020]. Một người làm

tròn bổn phận của mình, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình trong các mối liên hệ
với người khác và xã hội thì đuợc coi là người có trách nhiệm. Như vậy, theo nghĩa
chung có thể hiểu “trách nhiệm là sự ràng buộc trong các mối liên kết của con
người, trong đó cá nhân hoặc tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ vì người khác
hoặc vì cộng đồng” [28, tr.10]. Có rất nhiều dạng trách nhiệm xã hội khác nhau
như trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị… Xem xét
trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL là
xem xét trách nhiệm của các chủ thể trên phương diện pháp lý.
Về phương diện pháp lý, trách nhiệm của các chủ thể là tổ chức, cá nhân
phát sinh trên cơ sở pháp luật và được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật được gọi
là trách nhiệm pháp lý.
Trong lý luận và thực tiễn có rất nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau
về khái niệm trách nhiệm pháp lý. Dựa vào tính chất đề tài, căn cứ vào mục đích
và cơ sở phát sinh nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể, thì trách nhiệm pháp lý
Kiều Thị Mai HC30C
6
Khóa luận tốt nghiệp
được nhìn nhận theo hai nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, trách nhiệm pháp lý được hiểu là sự gánh chịu hậu quả bất
lợi, phát sinh trên cơ sở có vi phạm pháp luật, đồng thời có hoạt động áp dụng các
biện pháp cưỡng chế được xác định trong chế tài pháp luật, thể hiện sự phản ứng
của nhà nước đối với những đối tượng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Theo nghĩa này, trách nhiệm pháp lý cũng là nghĩa vụ của các chủ thể nhưng chỉ
giới hạn là nghĩa vụ buộc phải thực hiện những điểm hạn chế nhất định về vật chất
hoặc tinh thần do pháp luật xác định khi chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm pháp luật, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Với cách hiểu này, trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng,
ban hành văn bản QPPL là hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất hoặc tinh thần mà
chủ thể phải gánh chịu trước các chủ thể khác do không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và
các văn bản hướng dẫn trong khi thực hiện công việc của mình, gây thiệt hại về tài
sản của Nhà nước hoặc của người khác.
Theo nghĩa rộng: trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ thực hiện tất cả các yêu
cầu của pháp luật, bao gồm các nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu gắn liền với bổn
phận tích cực thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhằm duy trì sự tồn tại,
phát triển của xã hội và nghĩa vụ gánh chịu hậu quả bất lợi, khi cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ. Như vậy, trách nhiệm pháp lý được xác định trong cả hai trường hợp: có vi
phạm pháp luật và không có vi phạm pháp luật. Mọi cá nhân, tổ chức đều có trách
nhiệm tích cực thực hiện những hành vi được pháp luật cho phép thực hiện,
khuyến khích thực hiện hoặc buộc phải thực hiện, tránh không thực hiện những
hành vi bị pháp luật ngăn cấm, đồng thời phải gánh chịu hậu quả bất lợi, nếu vi
phạm pháp luật.
Theo nghĩa rộng này, trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng,
ban hành văn bản QPPL được hiểu là: nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình xây
dựng, ban hành văn bản QPPL phải hành động phù hợp với quy định của pháp luật
(Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 2004 và các văn bản có
Kiều Thị Mai HC30C
7
Khóa luận tốt nghiệp
liên quan), lựa chọn phương án hành động tối ưu và hợp lý nhất, báo cáo về kết quả
hoạt động và gánh chịu những hậu quả bất lợi của việc không thực hiện hay thực
hiện không đúng các nghĩa vụ của mình.
Cách hiểu này cũng chính là quan điểm mà người viết khóa luận muốn đề
cập về vấn đề trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành mới chỉ xác định trách nhiệm của các chủ thể
trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL với ý nghĩa là nghĩa vụ phải

thực hiện mà chưa quy định về các biện pháp chế tài mà các chủ thể phải gánh chịu
với ý nghĩa là hậu quả bất lợi. Đây chính là vấn đề người viết muốn đề cập đến như
một trong những giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao tinh thần trách nhiệm
của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL.
Đồng thời với việc sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm”, trong một số văn bản
thường sử dụng thuật ngữ “nhiệm vụ” với ý nghĩa tương đương. Từ điển tiếng Việt
giải thích thuật ngữ “nhiệm vụ” là “công việc phải làm, phải gánh vác” [4,
tr.1251]. Chính vì vậy, trong quá trình viết khoá luận người viết đôi khi sử dụng
thuật ngữ “nhiệm vụ” mang ý nghĩa như “trách nhiệm” để hàm chỉ hoạt động của
các chủ thể mang tính chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình xây dựng, ban hành
văn bản QPPL.
1.2.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật.
Qua phân tích ở mục 1.2.1, cho ta cách hiểu chung nhất về khái niệm trách
nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL. Nhưng
để hiểu rõ hơn trách nhiệm của từng chủ thể trong quá trình này, người viết sẽ làm
sáng tỏ vấn đề thông qua các giai đoạn của quy trình xây dựng, ban hành văn bản
QPPL dưới đây.
1.2.2.1. Trách nhiệm của chủ thể lập chương trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật.
Lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản QPPL là giai đoạn đầu tiên của
quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL. Mục đích của công đoạn này là nhằm
bảo đảm cho các chủ thể có thẩm quyền xây dựng, ban hành văn bản QPPL hoạt
động có kế hoạch, chủ động trong việc soạn thảo, xem xét, thông qua các dự thảo
Kiều Thị Mai HC30C
8
Khóa luận tốt nghiệp
văn bản QPPL đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Các chủ thể tham gia vào giai đoạn này bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường

vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các bộ cơ quan
ngang bộ và các ban ngành có liên quan.
Ở trung ương chủ thể đầu tiên tham gia vào giai đoạn này phải kể đến là
Quốc hội. Với vai trò là đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Do đó, Quốc hội có trách nhiệm
quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội tại kỳ họp
thứ hai của mỗi khoá Quốc hội; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
hằng năm tại kỳ họp thứ nhất của năm trước.
Bên cạnh hoạt động của đội ngũ chuyên trách trong quá trình xây dựng
chương trình luật, pháp lệnh, còn có sự tham gia đóng góp ý kiến của các chủ thể
có quyền đề nghị, kiến nghị luật, pháp lệnh. Các đề nghị, kiến nghị này trước khi
được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải được tiến hành thẩm tra
bởi Ủy ban pháp luật, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Uỷ ban pháp
luật là cơ quan có trách nhiệm tập hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội và kiến nghị về luật, pháp lệnh
của đại biểu Quốc hội. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có trách
nhiệm phối hợp với Uỷ ban pháp luật trong việc thẩm tra đề nghị, kiến nghị về
luật, pháp lệnh và phát biểu ý kiến về sự cần thiết ban hành. Sau khi Uỷ ban
thường vụ Quốc hội xem xét đề nghị, kiến nghị luật, pháp lệnh, căn cứ vào đề
nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội, ý kiến
thẩm tra của Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội lập dự kiến chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội xem xét, quyết định. Uỷ ban pháp
luật chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội
lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Bên cạnh quá trình lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội,
Chính phủ - cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nhà
nước ta, cũng đóng một vai trò quan trọng đối với quá trình này. Chính phủ là chủ
thể có quyền lập đề nghị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề
thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trình Ủy ban thường vụ
Kiều Thị Mai HC30C

9
Khóa luận tốt nghiệp
Quốc hội. Chính phủ không trực tiếp tiến hành việc lập dự kiến mà giao cho cơ
quan chuyên môn là Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ lập
đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và trình Chính phủ chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ. Việc lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh sẽ được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng tư vấn giúp Bộ trưởng xem xét các đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh và chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của Hội
đồng tư vấn. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết hạn gửi đề nghị, kiến nghị xây
dựng văn bản pháp quy, Bộ Tư pháp phải hoàn thành việc lập dự thảo dự kiến của
Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Khi dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Hội đồng tư vấn
hoàn thành, Văn phòng Chính phủ là một cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm
thẩm tra đối với dự thảo dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh do Bộ Tư pháp trình [14], gửi dự thảo dự kiến cùng báo cáo thẩm tra đến
thành viên Chính phủ để lấy ý kiến, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định đưa ra phiên họp Chính phủ. Như vậy, trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ
trong giai đoạn này là tập hợp đầy đủ các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ
quan, tổ chức và đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị luật, pháp lệnh của
đại biểu Quốc hội gửi Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan để lấy ý kiến, tập
hợp các ý kiến trong thời gian là 10 ngày từ ngày nhận được các ý kiến.
Bên cạnh việc quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc lập dự
kiến và trình Chính phủ chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, pháp luật còn quy
định trách nhiệm của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ trong việc bảo đảm thực
hiện Chương trình xây dựng văn bản QPPL và việc điều chỉnh Chương trình
[13,14].
Sau khi Dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội
xem xét, thông qua và được đưa vào Chương trình chính thức thì trong việc triển
khai thực hiện, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm chỉ đạo và triển khai

thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thông qua các hoạt động quy định
tại Điều 28 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Ủy ban pháp luật,
Hội đồng dân tộc và Bộ Tư pháp có trách nhiệm phối hợp giúp Ủy ban thường vụ
Quốc hội trong việc triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Kiều Thị Mai HC30C
10
Khóa luận tốt nghiệp
Đối với địa phương, việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm là
bắt buộc ở cấp tỉnh, nhưng chỉ mang tính khuyến khích đối với các cấp khác. Đây
cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa quá trình lập chương trình xây dựng văn bản
QPPL ở trung ương và địa phương.
Chủ thể chịu trách nhiệm lập chương trình xây dựng văn bản QPPL của
HĐND cấp tỉnh là Thường trực hội đồng nhân dân cùng phối hợp với Ủy ban nhân
dân. Ngoài ra, hai cơ quan này còn có trách nhiệm trong việc điều chỉnh, tổ chức
thực hiện chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Việc lập
chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh thuộc trách
nhiệm của hai chủ thể là Văn phòng Ủy ban nhân dân và cơ quan tư pháp cùng
phối hợp thực hiện. Khi lập chương trình xây dựng văn bản QPPL của HĐND,
UBND tỉnh, các chủ thể cần căn cứ vào các tiêu chí mà pháp luật quy định như căn
cứ vào đường lối chính sách của Đảng, yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương,
các văn bản của cơ quan cấp trên, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương. Trong chương trình cũng
cần xác định được tên văn bản, thời điểm ban hành, cơ quan soạn thảo.
Như vậy, giai đoạn Lập chương trình đóng vai trò quan trọng trong quy trình
xây dựng, ban hành văn bản QPPL không chỉ ở trung ương mà còn ở cả địa
phương. Mặc dù có sự khác nhau trong quá trình thực hiện nhưng tựu chung lại
các chủ thể thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong việc lập chương trình xây
dựng văn bản QPPL sẽ hạn chế mức thấp nhất việc xây dựng, ban hành văn bản
một cách tùy tiện, ngẫu hứng, duy ý chí; hướng tới việc bảo đảm cho các văn bản
ra đời nằm trong một tầm nhìn chiến lược lâu dài, mang tính quy hoạch tổng thể

trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện tốt giai đoạn
này là tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện các bước tiếp theo của quy trình xây
dựng, ban hành văn bản QPPL.
1.2.2.2. Trách nhiệm của chủ thể soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Soạn thảo văn bản QPPL là giai đoạn tiếp theo công đoạn Lập chương trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Giai đoạn này đóng vai trò quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến tính khả thi, chất lượng của văn bản quy phạm. Với ý nghĩa
đó, quá trình này đỏi hỏi các chủ thể phải nâng cao tinh thần trách nhiệm thực hiện
tốt nhiệm vụ. Trách nhiệm của chủ thể soạn thảo là phải xây dựng được bản thuyết
Kiều Thị Mai HC30C
11
Khóa luận tốt nghiệp
minh về dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết; xây dựng báo cáo tác động của văn
bản; lập bản tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đối tượng chịu tác
động trực tiếp của văn bản...
Cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết được xác định như
sau: trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì cơ
quan chủ trì soạn thảo do Chính phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan ngang bộ;
trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác, tổ chức
trình thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chủ trì soạn thảo. Riêng trường hợp dự án
luật, pháp lệnh; dự thảo nghị quyết có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực; dự thảo
luật, nghị quyết của Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội trình và dự thảo luật,
pháp lệnh, nghị quyết do đại biểu Quốc hội trình thì Ủy Ban thường vụ Quốc hội
phân công cơ quan chủ trì soạn thảo và thành lập Ban soạn thảo. Nhiệm vụ của cơ
quan chủ trì soạn thảo được quy định tại Điều 33 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 2008. Ngoài ra cơ quan này còn có trách nhiệm: đánh giá tác động trước
và trong quá trình soạn thảo văn bản; phối hợp và bảo đảm các điều kiện hoạt động
của Ban soạn thảo, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nội
dung, chất lượng và tiến độ soạn thảo của dự án, dự thảo; thông báo với Văn phòng
Chính phủ về tiến độ soạn thảo theo định kỳ ba tháng một lần.

Theo Điều 33 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 thì nhiệm vụ
của cơ quan soạn thảo là khá nhiều. Tuy nhiên, chủ thể chịu “trách nhiệm chính”
trong việc soạn thảo văn bản QPPL là “Ban soạn thảo” được cơ quan chủ trì soạn
thảo thành lập theo Điều 30 và Điều 31 của Luật này.
Cũng theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 32 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật 2008 và Điều 5 Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban soạn thảo
(Quy chế Ban soạn thảo) ban hành kèm theo Quyết định số 03/2007/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ngày 10/01/2007 thì trách nhiệm của Ban soạn thảo trong
quá trình xây dựng ban hành văn bản QPPL là tổng kết tình hình thi hành pháp
luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dự án,
dự thảo; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính;
nghiên cứu điều ước quốc tế; nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên quan; thảo luận
về chính sách, các vấn đề lớn của dự án, dự thảo; chuẩn bị đề cương biên soạn và
chỉnh lý dự án, dự thảo; tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và
Kiều Thị Mai HC30C
12
Khóa luận tốt nghiệp
các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình
thức thích hợp tuỳ theo tính chất và nội dung của từng dự án, dự thảo; chuẩn bị dự
thảo Tờ trình và tài liệu liên quan đến dự án, dự thảo; xây dựng Báo cáo dự báo tác
động kinh tế - xã hội và dự kiến nguồn lực tài chính; xác định danh mục các điều,
khoản, điểm và các văn bản phải huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung; đề xuất hướng sửa đổi,
bổ sung. Ban soạn thảo có trách nhiệm gửi toàn bộ hồ sơ dự án, dự thảo theo đúng
thời gian đã được quy định tới các cơ quan có thẩm quyền để tiến hành thẩm tra,
thẩm định, lấy ý kiến, trình dự thảo, thảo luận, thông qua.
Đối với các văn bản QPPL do Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành thì các
chủ thể này sẽ quyết định thành lập cơ quan soạn thảo và chỉ đạo việc soạn thảo.
Cơ quan soạn thảo bao gồm các chủ thể có chuyên môn đảm nhiệm và chịu trách

nhiệm về việc soạn thảo đảm bảo đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng của văn bản
QPPL.
Riêng nhóm văn bản QPPL luật liên tịch thì chủ thể chịu trách nhiệm soạn
thảo là do các cơ quan có thẩm quyền phối hợp xây dựng, ban hành văn bản đó
thành lập ra. Các chủ thể này cũng có trách nhiệm thực hiện công việc soạn thảo
như các chủ thể nêu trên.
Việc soạn thảo văn bản QPPL do HĐND,UBND ban hành sẽ do các cơ quan
chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm. Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhan dân quy định cụ thể về trách nhiệm
của các chủ thể này.
Chủ thể giữ vai trò quan trọng nhất, người trực tiếp chắp bút cho ra đời các
văn bản QPPL là thành viên Ban soạn thảo. Điều 7 Quy chế Ban soạn thảo quy
định thành viên Ban soạn thảo có trách nhiệm: “phải thường xuyên báo cáo và xin
ý kiến lãnh đạo bộ, ngành mình về nội dung của dự án, dự thảo”; đồng thời “đề
nghị thủ trưởng cơ quan tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý; khảo sát đánh giá
thực trạng quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực do Bộ ngành mình quản lý có liên quan
đến dự án, dự thảo”. Ngoài ra, Điều 7 Quy chế này và Điều 23 Nghị định số
24/2009/NĐ-CP cũng đã quy định rõ trách nhiệm của thành viên Ban soạn thảo
Kiều Thị Mai HC30C
13
Khóa luận tốt nghiệp
phải: “tham gia đầy đủ các cuộc họp của Ban soạn thảo, trường hợp vắng mặt phải
báo cáo với Trưởng Ban soạn thảo và có trách nhiệm gửi ý kiến tham gia bằng văn
bản, đồng thời cử người có trình độ chuyên môn phù hợp tham gia cuộc họp”.
Trưởng Ban soạn thảo là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc điều
hành, chỉ đạo hoạt động của Ban soạn thảo sao cho có hiệu quả nhất. Với vai trò
như vậy, Trưởng Ban soạn thảo có trách nhiệm quyết định kế hoạch hoạt động của
Ban soạn thảo, tổ chức và chủ trì các cuộc họp, kết luận ý kiến thảo luận tại cuộc
họp của Ban soạn thảo; thành lập Tổ biên tập và chỉ đạo Tổ biên tập lập kế hoạch

hoạt động của Ban soạn thảo, chuẩn bị đề cương, xây dựng và chỉnh lý dự án, dự
thảo văn bản. Tổ chức các cuộc họp, thảo luận với sự tham gia của các nhà khoa
học, chuyên gia để thảo luận về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau trong dự án,
dự thảo. Báo cáo với Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề lớn phát sinh trong
quá trình soạn thảo.
Ngoài các chủ thể kể trên, pháp luật còn quy định nhóm chủ thể nữa “giúp
Ban soạn thảo thực hiện nhiệm vụ của mình” đó là Tổ biên tập. Đây chính là chủ
thể chịu trách nhiệm trực tiếp trong quá trình soạn thảo văn bản QPPL. Năng lực
mọi mặt của các thành viên Tổ biên tập ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tiến
độ của dự thảo văn bản QPPL. Để có thể soạn thảo được văn bản QPPL, trước hết
Ban soạn thảo, đặc biệt là Tổ biên tập phải khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn có
liên quan đến chủ đề văn bản. Đối tượng của hoạt động khảo sát, đánh giá là hệ
thống các quan hệ xã hội và những điều kiện trong đời sống, là cơ sở làm phát sinh
các quan hệ xã hội, đó là đường lối của Đảng, hệ thống pháp luật hiện hành và việc
thực thi trên thực tiễn những văn bản đó; là những quan điểm khoa học, những dư
luận xã hội về các vấn đề có liên quan đến nội dung của dự thảo. Sau đó, Tổ biên
tập có trách nhiệm chính là chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo văn
bản. Thành viên Tổ biên tập có trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của Tổ
biên tập và chịu sự phân công của Tổ trưởng Tổ biên tập. Tổ trưởng Tổ biên tập
chịu trách nhiệm báo cáo trước Trưởng Ban soạn thảo về tiến độ công việc được
giao.
Trong số các hoạt động của quá trình soạn thảo thì lấy ý kiến đối với dự thảo
văn bản là một công việc vô cùng quan trọng và không thể thiếu, điều này thể hiện
rõ nguyên tắc dân chủ, công khai trong việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL,
Kiều Thị Mai HC30C
14
Khóa luận tốt nghiệp
đảm bảo tính thực tiễn của văn bản khi được áp dụng trên thực tế đời sống. Trong
quá trình soạn thảo văn bản QPPL việc lấy ý kiến nhân dân (cơ quan, tổ chức hữu
quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản) thuộc về trách nhiệm của

cơ quan chủ trì soạn thảo, hay chính là Ban soạn thảo, mà cụ thể hơn nữa là trách
nhiệm của Trưởng Ban soạn thảo. Với tư cách là bộ phận giúp việc của Ban soạn
thảo, Tổ biên tập cũng là chủ thể của hành vi này. Khi các cơ quan, tổ chức hữu
quan đóng góp ý kiến bằng văn bản về dự án, dự thảo (Bộ Tài chính có trách
nhiệm đóng góp ý kiến về nguồn tài chính, Bộ Nội vụ có trách nhiệm đóng góp ý
kiến về nguồn nhân lực, Bộ Tài nguyên và môi trường có trách nhiệm góp ý kiến
về tác động với môi trường, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm góp ý kiến về sự tương
thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên), cơ quan, tổ
chức chủ trì soạn thảo (Ban soạn thảo) có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp
thu các ý kiến đóng góp để hoàn chỉnh dự thảo.
Ngoài ra, cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự thảo văn bản QPPL đến
cơ quan thẩm định, thẩm tra đúng thời gian pháp luật quy định. Khoản 4 Điều 41,
Khoản 4 Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 cũng quy định
trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc cung cấp thông tin, tài liệu có liên
quan đến nội dung dự án, dự thảo nếu cơ quan thẩm tra, thẩm định yêu cầu. Hoặc
có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thẩm tra, thẩm định tổ chức hội thảo, khảo sát
thực tế về những vấn đề thuộc nội dung dự án, dự thảo văn bản QPPL.
Đối với việc trình dự thảo văn bản QPPL, sau khi cơ quan soạn thảo gửi văn
bản QPPL để tiến hành thẩm tra, thẩm định thì chủ thể này có trách nhiệm tiếp thu
chỉnh lý văn bản theo ý kiến thẩm tra, thẩm định. Tiếp theo đó, dự thảo văn bản
QPPL sẽ được cơ quan soạn thảo “trình” cơ quan có thẩm quyền thông qua và ký
ban hành. Hầu hết, các văn bản QPPL đều được cơ quan soạn thảo trình cơ quan có
thẩm quyền thông qua và ký ban hành bằng Tờ trình. Tuy nhiên, có những trường
hợp chủ thể soạn thảo phải trình chủ thể có thẩm quyền trình, sau đó chủ thể này
trình dự thảo văn bản QPPL đến cơ quan có thẩm quyền thông qua và ký ban hành.
Như trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì
Chính phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo. Như vậy,
trường hợp này cơ quan soạn thảo là bộ hoặc cơ quan ngang bộ không có thẩm
quyền trình văn bản QPPL . Do đó, chủ thể này phải trình văn bản lên Chính phủ,
Kiều Thị Mai HC30C

15
Khóa luận tốt nghiệp
sau đó Chính phủ là chủ thể trình Quốc hội xem xét, thảo luận thông qua dự thảo
văn bản QPPL.
Từ các phân tích ở trên, có thể nhận thấy soạn thảo là khâu đặc biệt quan
trọng trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL. Việc các chủ thể thực
hiện tốt trách nhiệm của mình trong khâu soạn thảo sẽ đảm bảo cho văn bản QPPL
được ban hành có chất lượng cao và là bước đệm quan trọng cho các giai đoạn tiếp
theo của quy trình được diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi.
1.2.2.3. Trách nhiệm của chủ thể thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật.
Thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản QPPL là việc cơ quan có thẩm quyền
của nhà nước xem xét toàn diện dự thảo trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban
hành văn bản.
Một trong những chủ thể quan trọng của khâu thẩm định dự thảo văn bản
QPPL là Bộ Tư pháp. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc thẩm định dự án, dự
thảo văn bản QPPL được quy định cụ thể tại Điều 41 Nghị định số 24/2009/NĐ-
CP. Bộ Tư pháp tiến hành thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, dự
thảo nghị định trước khi trình Chính phủ. Trên thực tế, Vụ pháp luật Dân sự - Kinh
tế, Vụ pháp luật Hình sự - Hành chính, Vụ pháp luật Quốc tế là ba đơn vị thuộc Bộ
Tư pháp chịu trách nhiệm chính về công tác thẩm định. Trong đó việc thẩm định
các dự thảo Điều ước Quốc tế do Vụ pháp luật Quốc tế chịu trách nhiệm. Đối với
dự án, dự thảo có nội dung phức tạp, có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc
do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng
thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học.
Tổ chức pháp chế bộ, ngành là chủ thể chịu trách nhiệm thẩm tra dự thảo
thông tư của bộ, cơ quan ngang bộ trước khi trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ký ban hành. Đối với một số bộ, ngành, tổ chức pháp chế còn thẩm định
cả dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ mà bộ,
cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo trước khi các dự thảo văn bản này

được trình lên Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ xem xét, quyết định trình
dự thảo lên cơ quan có thẩm quyền.
Trách nhiệm của các chủ thể khi tiến hành thẩm định phải tập trung vào các
nội dung như sự cần thiết ban hành văn bản QPPL, đối tượng, phạm vi điều chỉnh
Kiều Thị Mai HC30C
16
Khóa luận tốt nghiệp
của dự thảo văn bản; sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự
thảo văn bản với hệ thống pháp luật, không trái với điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên; tính khả thi của văn bản; việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;
ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.
Văn bản QPPL dù được ban hành ở cấp nào cũng tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích của phạm vi tương đối rộng các tầng lớp nhân dân. Do đó, cơ chế
“kiểm tra trước văn bản” không chỉ được áp dụng ở trung ương mà còn được áp
dụng đối với cả cơ quan chính quyền địa phương trong việc xây dựng, ban hành
văn bản QPPL. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 quy định thẩm định là một khâu bắt buộc trong
việc soạn thảo, ban hành nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, quyết định, chỉ thị của
UBND tỉnh và quyết định, chỉ thị của UBND huyện nhằm bảo đảm và nâng cao
chất lượng văn bản QPPL của chính quyền địa phương. Trách nhiệm thẩm định
văn bản được giao cho cơ quan tư pháp, đây là cơ quan tham mưu giúp việc cho
UBND trong lĩnh vực tư pháp (cấp tỉnh là Sở Tư pháp, cấp huyện là Phòng Tư
pháp). Hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp ở địa phương cũng tương tự như
hoạt động thẩm định ở trung ương.
Thẩm tra và thẩm định là những hoạt động tương tự nhau về mặt chuyên
môn nhưng có một số điểm khác biệt. Hầu hết các dự thảo văn bản QPPL đều được
thẩm định (trừ dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện và dự thảo văn bản QPPL
của cấp xã), riêng đối với các dự án, dự thảo văn bản QPPL của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và HĐND cấp tỉnh, cấp huyện còn được thẩm tra bởi các cơ

quan chuyên trách của Quốc hội và các Ban của HĐND cùng cấp.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật không quy định việc thẩm tra
văn bản QPPL của Văn phòng Chính phủ như một công đoạn bắt buộc và chính
thức mà được coi như một công việc có tính nội bộ của Chính phủ. Tuy nhiên,
Nghị định số 18/2003/NĐ-CP ngày 20/02/2003 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Chính phủ, quy định
thẩm tra như là nhiệm vụ thường xuyên của Văn phòng Chính phủ. Điều 32 Nghị
định số 161/2005/NĐ-CP và Điều 16 Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành
kèm theo Nghị định số 23/2003/NĐ/CP ngày 12/03/2003 cũng đề cập đến việc
Kiều Thị Mai HC30C
17
Khóa luận tốt nghiệp
thẩm tra của Văn phòng Chính phủ như một công việc có tính nội bộ. Theo đó,
Văn phòng Chính phủ chịu trách nhiệm thẩm tra về quy trình, hồ sơ, thủ tục hành
chính, tính hợp pháp, sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
và sự phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; phân tích, tổng hợp có ý kiến
đánh giá độc lập về nội dung của đề án, dự án và tham gia chỉnh lý lần cuối các dự
thảo văn bản QPPL kèm theo đề án, dự thảo để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định.
Đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến phải được Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra (gọi chung là cơ quan thẩm tra). Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh
vực do mình phụ trách và dự án, dự thảo khác do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội giao; tham gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ
trì thẩm tra theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Cơ quan chủ trì thẩm tra có trách nhiệm mời đại diện cơ quan được phân
công tham gia thẩm tra tham dự phiên họp thẩm tra để phát biểu ý kiến về những
nội dung của dự án, dự thảo liên quan đến lĩnh vực do cơ quan đó phụ trách và
những vấn đề khác thuộc nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan thẩm tra tiến hành

thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
nhưng tập trung vào những vấn đề chủ yếu quy định tại Điều 43 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2008 như: đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
sự phù hợp nội dung của dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản. Cơ quan chủ trì thẩm tra phải
tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm tra; đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của
Quốc hội trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến thì có thể tổ chức phiên họp
Thường trực Hội đồng, Thường trực Uỷ ban để thẩm tra sơ bộ. Cơ quan thẩm tra
có trách nhiệm xây dựng báo cáo thẩm tra theo đúng yêu cầu tại Điều 45 Luật Ban
hành văn bản QPPL 2008.
Ngoài ra, còn phải kể đến quy trình Uỷ ban pháp luật của Quốc hội thẩm tra
vì cơ quan này có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất
của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do các cơ quan khác của Quốc
Kiều Thị Mai HC30C
18
Khóa luận tốt nghiệp
hội chủ trì thẩm tra với hệ thống pháp luật trước khi trình Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội xem xét, thông qua.
Các dự thảo văn bản QPPL do HĐND cấp tỉnh, cấp huyện xây dựng, ban
hành phải được Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình
HĐND. Ban của Hội đồng nhân dân thực hiện trách nhiệm thẩm tra theo quy trình,
hoạt động và thời gian do pháp luật quy định. Sau khi hoàn thành báo cáo thẩm tra,
Ban thẩm tra có trách nhiệm gửi bản báo cáo này đến Thường trực Hội đồng nhân
dân trong thời hạn bảy ngày trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND.
Một trách nhiệm mà cả chủ thể thẩm định, thẩm tra văn bản QPPL đều phải
thực hiện đó là các chủ thể này phải viết báo cáo thẩm định, thẩm tra và gửi các
báo cáo đó đến cơ quan chủ trì soạn thảo đúng thời gian do pháp luật quy định, tạo
điều kiện cho cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc chỉnh lý hoàn thiện dự thảo văn
bản theo ý kiến thẩm tra, thẩm định.

Tóm lại, như đã nói ở trên việc thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản
QPPL là một khâu không thể thiếu. Chất lượng của văn bản QPPL và khả năng
đảm bảo tính thực thi phụ thuộc rất nhiều vào việc tuân thủ chặt chẽ quy trình xây
dựng, ban hành văn bản QPPL mà một trong những khâu cơ bản đó là hoạt động
thẩm định, thẩm tra các dự án, dự thảo văn bản QPPL.
1.2.2.4. Trách nhiệm của chủ thể thảo luận, thông qua, ký ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
Thảo luận, thông qua văn bản là một khâu không thể thiếu trong quy trình
xây dựng, ban hành văn bản QPPL. Đây cũng là giai đoạn thể hiện rõ nguyên tắc
công khai, minh bạch trong việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL. Thảo luận
giúp các chủ thể đóng góp ý kiến xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đối
với văn băn QPPL mà cơ quan ban hành theo chế độ thủ trưởng tập thể thì việc
xem xét, thông qua văn bản phải được tiến hành bởi tập thể. Chẳng hạn như đối
với các dự án, dự thảo văn bản QPPL do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
xây dựng, ban hành thì tùy theo tính chất và nội dung của dự án luật, pháp lệnh, dự
thảo nghị quyết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét thông qua
dự thảo tại một hoặc hai kỳ họp của các cơ quan này. Nếu như dự án, dự thảo có
nội dung phức tạp mà Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa thể thông qua
tại kỳ họp thứ hai thì có thể được xem xét, thông qua tại nhiều kỳ họp.
Kiều Thị Mai HC30C
19
Khóa luận tốt nghiệp
Dự thảo văn bản QPPL do Chính phủ trình (luật, pháp lệnh) trước khi đưa ra
Quốc hội thảo luận, thông qua còn phải trải qua giai đoạn Chính phủ xem xét,
thông qua sau đó được tổng hợp trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chính phủ là cơ quan hoạt động tập thể và quyết định công việc theo đa số, do đó,
việc xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh sẽ được Chính phủ thảo luận và
biểu quyết. Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm chủ trì cuộc họp thảo luận, thông
qua các dự thảo. Văn phòng Chính phủ chuẩn bị những nội dung cơ bản, những
vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo để báo cáo Chính phủ thảo luận.

Khi dự thảo được đưa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc hội thì các chủ thể tham
gia thảo luận gồm các đại biểu Quốc hội, thành viên Thường trực Hội đồng dân
tộc, Thường trực Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức xem xét dự thảo về
mọi khía cạnh và đóng góp ý kiến về sự cần thiết ban hành, phạm vi, đối tượng
điều chỉnh, bố cục, nội dung, tính hợp pháp, tính khả thi… Các chủ thể có trách
nhiệm thảo luận, đóng góp ý kiến bằng văn bản theo quy định của pháp luật thì
phải gửi ý kiến đó về Văn phòng Quốc hội chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày
khai mạc kỳ họp Quốc hội. Thường trực Ủy ban pháp luật là chủ thể trực tiếp, tiếp
thu các ý kiến đóng góp, chỉnh lý dự thảo và báo cáo Quốc hội về việc giải trình
tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Các chủ thể tham gia thảo luận có trách nhiệm biểu
quyết thông qua một phần hoặc toàn bộ dự thảo. Đối với pháp lệnh, nghị quyết đã
được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua nhưng Chủ tịch nước không đồng ý và
đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại. Nếu sau khi xem xét lại, pháp
lệnh, nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành
nhưng Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết
định tại kỳ họp gần nhất.
Đối với văn bản QPPL ở địa phương trình tự xem xét, thông qua văn bản
được diễn ra tại kỳ họp của HĐND (nghị quyết) và phiên họp của UBND các cấp
(quyết định và chỉ thị) theo trình tự giống như cấp trung ương nhưng đơn giản hơn.
Ví dụ: Điều 29 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 quy định về việc xem xét, thông qua dự thảo nghị
quyết tại kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành theo trình tự sau: Đại diện cơ
quan trình dự thảo trình bày dự thảo nghị quyết; đại diện Ban của Hội đồng nhân
dân được phân công thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra; Hội đồng nhân dân thảo
Kiều Thị Mai HC30C
20
Khóa luận tốt nghiệp
luận và biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết.
Văn bản QPPL được ban hành bởi cơ quan tổ chức hoạt động theo chế độ
thủ trưởng cá nhân thì Thủ trưởng có trách nhiệm xem xét, thông qua dự thảo văn

bản đó. Ví dụ như đối với Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ sẽ do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ xem xét, thông qua và ký ban hành.
Sau khi dự thảo văn bản đã được thảo luận thông qua, để dự thảo văn bản
QPPL chính thức có hiệu lực pháp lý phải trải qua giai đoạn ký ban hành. Việc ký
ban hành văn bản QPPL là thẩm quyền nhưng cũng chính là trách nhiệm của các
chủ thể. Các chủ thể có thẩm quyền bao gồm:
Chủ tịch Quốc hội với trách nhiệm ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc
hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị quyết liên
tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị
- xã hội.
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành nghị định của Chính phủ, nghị quyết liên
tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội và
văn bản QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của Thủ tướng. Trường hợp vắng mặt,
Thủ tướng có thể ủy quyền cho một Phó Thủ tướng ký ban hành văn bản QPPL
thuộc thẩm quyền của mình [13].
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ký ban hành thông tư của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thông tư liên tịch mà Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ là một bên ban hành. Trường vắng mặt, Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ có thể ủy quyền cho cấp phó ký ban hành văn bản QPPL thuộc
thẩm quyền của mình [13].
Đối với các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước sẽ do chính các chủ thể này ký ban
hành văn bản.
Với loại văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương thì người đứng đầu cơ
quan ban hành có trách nhiệm ký ban hành văn bản đó dưới thể thức đề ký thay
mặt (TM) cơ quan.
Sau khi các văn bản QPPL được các chủ thể có thẩm quyền ban hành thông
Kiều Thị Mai HC30C

21
Khóa luận tốt nghiệp
qua và ký, các chủ thể này còn có trách nhiệm gửi văn bản QPPL tới cơ quan có
trách nhiệm công bố trong thời hạn pháp luật quy định. Với những loại văn bản
QPPL bắt buộc phải đăng Công báo thì cơ quan ban hành phải gửi văn bản tới cơ
quan đăng Công báo trong thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành văn bản. Các văn bản QPPL được công bố dưới hình
thức niêm yết tại trụ sở cơ quan ban hành hoặc địa điểm khác thì cơ quan ban hành
trực tiếp thực hiện công việc này (đối với văn bản QPPL do cấp huyện, cấp xã ban
hành). Cơ quan ban hành văn bản QPPL còn có trách nhiệm gửi văn bản đến cơ
quan báo chí, phương tiện truyền thông đúng thời hạn do pháp luật quy định để
văn bản được công bố một cách nhanh nhất.
Ngoài ra, Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ban hành ngày 14/11/2003 về vấn
đề Kiểm tra và Xử lý văn bản quy phạm pháp luật có quy định trách nhiệm của chủ
thể ban hành văn bản QPPL phải gửi văn bản đến cơ quan, người có thẩm quyền
kiểm tra văn bản tại Điều 18 Nghị định này trong thời hạn chậm nhất là 3 ngày kể
từ ngày ký ban hành.
Như vậy, việc thảo luận, thông qua và ký ban hành văn bản có ý nghĩa quan
trọng đưa văn bản từ dự thảo trở thành văn bản chính thức, mang tính khả thi cao,
có thể áp dụng trên thực tế. Giai đoạn này, đánh dấu bước hoàn thiện văn bản
QPPL, góp phần mang lại hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2.5. Trách nhiệm của chủ thể công bố văn bản quy phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật đã được thông qua cần được ban hành bằng
cách công bố rộng rãi với những hình thức khác nhau để nhân dân và các đối tượng
có liên quan biết và thực hiện. Việc công bố văn bản QPPL là cơ chế hữu hiệu bảo
đảm tính công khai, minh bạch.
Đối với các văn bản QPPL do Quốc hội và Ủy ban thường vụ quốc hội
thông qua thì Chủ tịch nước có trách nhiệm ban hành lệnh để công bố những văn
bản này trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày luật, pháp lệnh,
nghị quyết được thông qua.

Tuỳ thuộc vào mỗi loại văn bản, vào tính chất nội dung của từng văn bản cụ
thể, các văn bản QPPL có thể được công bố bằng những hình thức khác nhau do
pháp luật quy định như:
Văn bản QPPL ở cấp trung ương và cấp tỉnh ban hành phải được đăng Công
Kiều Thị Mai HC30C
22
Khóa luận tốt nghiệp
báo, nếu các văn bản trên không được đăng Công báo thì sẽ không có hiệu lực thi
hành, trừ các trường hợp khác do pháp luật quy định. Cơ quan Công báo chịu trách
nhiệm về việc không đăng, đăng không đúng, không đầy đủ, đăng chậm những văn
bản đã được gửi tới chậm nhất sau mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản.
Trách nhiệm cụ thể của cơ quan đăng Công báo được quy định tại Nghị định số
104/2004/NĐ-CP ngày 23 tháng 3 năm 2004 quy định về Công báo nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân 2004 và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP quy định văn bản QPPL cấp tỉnh
phải đăng Công báo mới có hiệu lực mà không đề cập đến văn bản QPPL cấp
huyện phải đăng Công báo. Nhưng Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 104/2004/NĐ-CP
của Chính phủ về đăng Công báo và trên thực tế một số địa phương có quy định
văn bản QPPL do HĐND, UBND cấp huyện ban hành cũng phải được đăng Công
báos.
Các văn bản QPPL ở cấp huyện và cấp xã được công bố dưới hình thức
niêm yết tại trụ sở cơ quan ban hành hoặc địa điểm khác do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân quy định. Trong một số trường hợp văn bản QPPL được công bố, ban hành
dưới hình thức gửi trực tiếp hoặc qua mạng internet tới đối tượng có nghĩa vụ thực
hiện hoặc đăng toàn văn bản trên báo. Chủ thể ban hành văn bản QPPL có trách
nhiệm niêm yết văn bản đúng địa điểm hoặc gửi văn bản tới đối tượng có nghĩa vụ
thực hiện theo đúng thời gian do pháp luật quy định. Tất cả các văn bản QPPL ở
các cấp đều phải được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Qua phân tích ở trên, có thể thấy chất lượng của một văn bản QPPL không

chỉ phụ thuộc vào quá trình ban hành mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
trong đó phải kể đến trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban
hành. Các chủ thể thực hiện tốt trách nhiệm của mình sẽ đảm bảo cho văn bản ra
đời có tính khả thi, tránh việc phải sửa đổi, bổ sung hay thay thế nhiều lần, mang
lại hiệu quả cao trong việc điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc nâng
cao hơn nữa trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban hành văn
bản QPPL là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2:
Kiều Thị Mai HC30C
23
Khóa luận tốt nghiệp
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ THỂ VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HƠN NỮA TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
CHỦ THỂ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT HIỆN NAY.
2.1. Tình hình thực hiện trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay.
2.1.1. Ưu điểm của các chủ thể trong quá trình thực hiện trách nhiệm xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Sau một thời gian dài thực hiện các quy định của Luật Ban hành văn bản
QPPL, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân năm 2004, việc nêu cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể tham gia
vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL đã góp phần không nhỏ vào công
tác xây dựng văn bản QPPL đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, nhất là sau khi ban hành Hiến pháp
năm 1992, số lượng các văn bản pháp luật nói chung, văn bản QPPL nói riêng
được ban hành tăng lên gấp nhiều lần so với số lượng từ năm 1945 - 1992. Trước
đây, việc xây dựng pháp luật được lên kế hoạch hàng năm, vì vậy không tránh khỏi
tình trạng bị động từ phía cả Quốc hội và các chủ thể trong quá trình xây dựng, ban
hành văn bản QPPL. Có những quan hệ xã hội phát sinh cần pháp luật điều chỉnh

ngay thì chưa có văn bản QPPL ban hành kịp thời. Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 1996 ra đời có ý nghĩa to lớn trong công tác xây dựng, ban
hành văn bản QPPL góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Đây cũng
là cơ sở quan trọng quy định trách nhiệm của các chủ thể giúp các chủ thể nhận
thức rõ vai trò, trách nhiệm tạo tiền đề cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ. Sự cố gắng
của các chủ thể đã thu được những thành tựu quan trọng:
Một số lượng lớn các văn bản QPPL đã được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước như: Quốc hội khóa XI ban
hành 84 luật, 15 nghị quyết quy phạm; Ủy ban thường vụ Quốc hội: 31 pháp lệnh.
Tính riêng số lượng Luật do Quốc hội ban hành trong năm 2003 là 17 luật, năm
2004 là 13 luật, 2005 là 29 luật, 2006 là 21 luật. Bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ
Quốc hội còn ban hành một số lượng lớn pháp lệnh như Pháp lệnh Cán bộ công
Kiều Thị Mai HC30C
24
Khóa luận tốt nghiệp
chức 1998, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002... Trong năm 2004, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 481 văn bản QPPL gồm 14 nghị quyết, 210
nghị định, 45 chỉ thị, 212 quyết định [23]. Nhìn chung các văn bản được ban hành
từng bước góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL (đặc biệt là luật ngày càng
tăng, đã lấp các khoảng trống thiếu luật) trong nền kinh tế thị trường; các luật ngày
càng chú ý và bảo đảm quyền tự do cơ bản của công dân…
Chất lượng văn bản QPPL ngày càng được nâng cao, nội dung các vấn đề
được quy định trong các văn bản ngày càng phong phú đa dạng, đã cơ bản bao quát
các lĩnh vực của đời sống từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công
nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại cho đến tổ chức bộ máy nhà nước…, bảo
đảm phù hợp với điều kiện, mục tiêu phát triển của đất nước. Do tinh thần trách
nhiệm của các chủ thể được nêu cao nên các dự thảo văn bản QPPL được chuẩn bị
kỹ hơn, bám sát yêu cầu và nhu cầu cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm,
phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội.
Các chủ thể tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm

pháp luật ngày càng chủ động, tích cực hơn. Ví dụ: các chủ thể chủ động trong
việc đề xuất các đạo luật đáp ứng yêu cầu quản lý và xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, thúc đẩy cải cách hành
chính và cải thiện hoạt động của bộ máy các cơ quan công quyền. Bên cạnh đó, kỹ
thuật lập pháp, kỹ thuật soạn thảo, thẩm tra, thẩm định văn bản QPPL của các chủ
thể ban hành văn bản ngày càng được nâng cao.
Việc ban hành các văn bản QPPL đã tuân thủ đúng quy trình luật định; quy
trình lập pháp, lập quy được cải tiến hợp lý, chặt chẽ hơn; chất lượng thực hiện các
khâu trong quy trình được nâng lên. Kể từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2002 ra đời đã có những đổi mới quan
trọng về quy trình lập pháp như trình tự xem xét, thông qua luật tại kỳ họp, tăng
cường vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc tiếp thu,
chỉnh lý và chỉ đạo nghiên cứu tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, các cơ quan,
tổ chức và nhân dân… góp phần tạo nên những chuyển biến quan trọng trong công
tác xây dựng pháp luật.
Từ việc nhận thức rõ nhiệm vụ cùng với việc nêu cao tinh thần trách nhiệm
của từng chủ thể trong công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL các chủ thể đã
Kiều Thị Mai HC30C
25

×