Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.05 KB, 11 trang )

Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa Lịch Sử
  
Môn Học: Công Pháp Quốc Tế
Chủ Đề 3: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUỐC GIA
GVHD: Thạc sĩ Nguyễn Thị Nhật Linh
Lớp: Quốc tế học K38B – Nhóm 1
Trưởng nhóm: Phạm Huyền Linh K38.608.010
Thành viên : Hoàng Việt Anh K38.608.002
Hoàng Thị Thúy Dịu K38.608.004
Thạch Thị Hoa K38.608.006
Nguyễn Ngọc Linh K38.608.008
Nguyễn Hữu Quỳnh Anh K38.608.001
1
TP. Hồ Chí Minh. 25-10- 2014
Chủ đề 3: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUỐC GIA.
MỤC LỤC
2
STT Nội Dung Trang
I Các yếu tố cấu thành quốc gia 3
II. Vantican, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao
có được gọi là quốc gia hay không? Tại sao?
4
1. Vantican 4
2. Hồng Kông 5
3. Ma Cao 6
4. Đài Loan 7
Tài liệu tham khảo 11
Chủ đề 3: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUỐC GIA.
I. Các yếu tố cấu thành quốc gia
• Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành


quốc gia. Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc
gia được xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất
cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để
xác định chủ quyền quốc gia đối với dân cư của mình. Vấn đề kích thước
lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa
quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia.
• Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một
quốc gia là tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất
định và tuân theo pháp luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng
để chỉ tất cả những người có quốc tịch của quốc gia đó.Mối quan hệ pháp
lý ràng buộc giữa nhà nước với cộng đồng dân cư của quốc gia chủ yếu
thông qua chế định quốc tịch.
• Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong
quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có
hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia
một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác.
• Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế:
“khả năng” này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện
chức năng đối ngoại của mình.
II. Vantican, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao có được gọi là quốc
gia hay không? Tại sao?
A. VANTICAN.
3
Bản đồ Vatican
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế
giới. Tuy nhiên, trên thực tế Vatican không phải là một quốc gia độc lập theo đúng
nghĩa.
Nhìn dưới góc độ các yếu tố cấu thành ta thấy: Tòa thánh Vatican có lãnh
thổ xác định với diện tích rất nhỏ khoảng 0,4km
2

và nằm trọn trong lãnh thổ của
Italia, có dân cư sinh sống khoảng 1000 người, có bộ máy điều hành, có khả năng
tham gia một cách độc lập vào các quan hệ pháp luật quốc tế nhất định (Tòa thánh
Vatican đã tham gia một số công ước quốc tế như: Công ước Viên 1961 về thiết
lập quan hệ ngoại giao, tòa thánh còn tham gia với tư cách quan sát viên của một số
tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc…). Nhìn vào hình thức bên ngoài, Tòa thánh
giống như một quốc gia tồn tại độc lập, nhưng nếu xem xét sâu xa các yếu tố này,
Vatican lại không phải một quốc gia, vì:
+ Về lãnh thổ mà Vatican đặt trụ sở thực chất thuộc về Italia, Vatican có
được lãnh thổ này là do một điều ước quốc tế được ký kết giữa Italia và Vatican.
+ Về dân cư, thực chất những người dân sống tại Vatican đều là công dân
của rất nhiều quốc gia khác nhau: Thụy Sỹ, Italia…họ chỉ được coi là dân cư của
Vatican khi họ phục vụ cho Giáo hoàng. Yếu tố dân cư không mang tính ổn định,
họ xuất hiện chủ yếu mang tính thực hiện công vụ với Vatican.
4
+ Về Chính phủ: Giáo hoàng của Vatican không phải là một thiết chế quyền
lực và Vatican không có các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, khi cần
để duy trì quyền lực nhà nước Vatican cần phải có sự trợ giúp của Italia. Chính phủ
này không giống trật tự của các Chính phủ khác trên thế giới.
 Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Vatican chỉ là một thiết chế mang
tính tôn giáo. Sở dĩ nó đựợc cho là chủ thể của Luật quốc tế vì trong các giai
đoạn lịch sử phát triển của Luật quốc tế, Vatican đóng vai trò quan trọng khi
trở thành trung gian hòa giải một số tranh chấp, bất hoà trong quan hệ quốc
tế. Do đó, họ được phép tham gia vào một số điều ước quốc tế nhất định.
B. HỒNG KÔNG
Để kết luận Hồng Kông có phải là một quốc gia hay không ta phải xét các yếu tố
cấu thành một quốc gia như phần I đã nêu:
+ Về lãnh thổ: gồm hơn 260 hòn đảo, nằm về phía Đông của Đồng bằng
châu thổ Châu Giang, giáp với tỉnh Quảng Đông về phía Bắc và nhìn ra Biển Đông
ở phía Đông, Tây và Nam.

+ Về dân cư: Dân số Hồng Kông đạt 6,99 triệu vào năm 2006. Khoảng 95%
dân Hồng Kông là gốc Trung Hoa, đa số dân của Hồng Kông là Quảng Đông hoặc
từ các nhóm dân tộc như Người Khách gia và Triều Châu. Tiếng Quảng Đông, một
5
ngôn ngữ Trung Quốc được sử dụng phổ biến ở phía Nam Trung Quốc là phương
ngữ chính thức của Hồng Kông. Tiếng Anh cũng là một ngôn ngữ chính thức được
sử dụng rộng rãi bởi hơn 1⁄3 dân số.
+ Về chính phủ: Hồng Kông từng là một lãnh thổ phụ thuộc của Vương
quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland từ năm 1842 đến khi chuyển giao chủ quyền
cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997. Tuyên bố chung Trung-Anh và Luật
Cơ bản của Hồng Kông quy định rằng Hồng Kông được hưởng một quy chế tự trị
cao cho đến ít nhất là năm 2047, 50 năm sau khi chuyển giao chủ quyền.
+ Về khả năng độc lập tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế: Dưới chính
sách một quốc gia, hai chế độ, Chính quyền Trung ương chịu trách nhiệm về mặt
quốc phòng và ngoại giao của lãnh thổ này còn Hồng Kông thì duy trì hệ thống
pháp luật, lực lượng cảnh sát, chế độ tiền tệ, chính sách hải quan, chính sách nhập
cư của Anh, và các đại biểu trong các tổ chức và sự kiện quốc tế.
Tuy Hồng Kông có thể tham gia vào một số quan hệ quốc tế nhưng nó không thể có
tư cách độc lập do nó chịu sự chi phối bởi Trung Quốc.
 Hồng Kông không phải là một quốc gia do nó không đáp ứng được các yêu
cầu Thứ ba và thứ tư của các yếu tố cấu thành quốc gia.
Hồng Kông là một Đặc khu hành chính thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa.
C, MA CAO
Ma Cao nằm ở mặt tây của đồng bằng châu thổ Châu Giang, giáp với tỉnh
Quảng Đông ở phía bắc và nhìn ra biển Đông ở phía đông và phía nam.
6
+ Về lãnh thổ: Ma Cao là một vùng lãnh thổ nhỏ bé với diện tích mặt đất
tổng cộng chỉ khoảng 27.3 km² nằm ở vùng duyên hải phía đông – nam Trung Hoa
Đại lục, được bao bọc bởi tỉnh Quảng Đông của CHND Trung Hoa và biển nam

Trung Hoa ở phía nam. Vùng lãnh thổ Ma Cao có 3 khu vực chính là bán đảo Áo
Môn, đảo Taipa và đảo Co-lo-an.
+ Về dân cư: Khoảng 488.000 người (năm 2005), trong đó người Trung
Quốc chiếm 95%, người Bồ Đào Nha chiếm 2% và người Philippines chiếm 1%.
+ Về chính phủ: Ma Cao nguyên là một thuộc địa của Bồ Đào Nha và phải
chịu sự quản lý của đế quốc này từ giữa thế kỷ 16 cho đến năm 1999, và là thuộc
địa hay tô giới cuối cùng của người châu Âu tại Trung Quốc. Các thương nhân Bồ
Đào Nha lần đầu đến định cư tại Ma Cao trong thập niên 1550. Năm 1557, triều
đình nhà Minh đã cho Bồ Đào Nha thuê Ma Cao để làm cảng giao thương. Từ đó,
người Bồ Đào Nha đã quản lý thành phố song nó vẫn nằm trong phạm vi chủ quyền
của Trung Quốc. Đến năm 1887, Ma Cao trở thành một thuộc địa của đế quốc Bồ
Đào Nha. Bồ Đào Nha đã chuyển giao chủ quyền đối với Ma Cao cho Trung Quốc
7
vào ngày 20 tháng 12 năm 1999. Trong tuyên bố chung Trung-Bồ và Luật cơ bản
Ma Cao quy định rằng Ma Cao có quyền tự trị cao độ ít nhất là đến năm 2049, tức
50 năm sau ngày chuyển giao.
+ Về khả năng độc lập tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế: Theo chính
sách "một quốc gia, hai chế độ", chính quyền Trung ương của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa chịu trách nhiệm về các vấn đề quốc phòng và ngoại giao của lãnh thổ,
trong khi Ma Cao duy trì hệ thống riêng của mình trên các lĩnh vực luật pháp, lực
lượng cảnh sát, tiền tệ, hải quan, nhập cư.
Ma Cao tham gia nhiều tổ chức và sự kiện quốc tế không yêu cầu các thành
viên phải là các quốc gia có chủ quyền.
 Ma Cao không phải là một quốc gia đo nó không đáp ứng được đầy đủ các
yếu tố một ba và bốn để cấu thành quốc gia.
 Macao, là một trong hai khu hành chính đặc biệt của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, cùng với Hồng Kông
D. ĐÀI LOAN
Bản đồ Trung Quốc
Để khẳng định Đài Loan có phải là một quốc gia hay không ta cần phân tích

các yếu tố sau
1. Lãnh thổ.
8
Đài Loan có lãnh thổ xác định. Đài Loan là một hòn đảo cách bờ biển Đông
Nam lục địa Trung Hoa khoảng 160 km. Nó được ngăn cách với tỉnh Phúc Kiến
của Trung Quốc qua eo biển Đài Loan. Đảo Đài Loan hiện là lãnh thổ chủ yếu nằm
dưới quyền quản lý của Trung Hoa Dân Quốc. Chiều dài đường bờ biển của đảo là
1.139 km.
Đảo Đài Loan có vị trí nằm trên đường tiếp xúc giữa đại lục Á-Âu và bồn
Thái Bình Dương. Bờ tây đảo Đài Loan cách Trung Quốc đại lục qua eo biển Đài
Loan, cự ly khoảng 160 km. Phía bắc đảo Đài Loan là biển Hoa Đông, ở phía đông
bắc cách đảo Ishigaki của quần đảo Ryukyu khoảng 600 km, trong khi cách đảo
cực tây của Nhật Bản là Yonaguni khoảng 111 km; phía đông giáp Thái Bình
Dương; phía nam giáp eo biển Bashi, bán đảo Hằng Xuân cách quần đảo của
Philippines khoảng 250 km; ở phía tây nam là biển Đông. Do đảo Đài Loan nằm tại
vị trí trung tâm của cung đảo Đông Á, cộng thêm việc eo biển Đài Loan là tuyến
hàng hải quốc tế trọng yếu, do vậy Đảo Đài Loan có vị trí địa chiến lược trọng yếu.
2. Dân cư
Đài Loan có dân cư ổn định. Dân số Đài Loan năm 2011 ước tính khoảng
23,2 triệu người, hầu hết trong số đó cư trú tại đảo Đài Loan. Khoảng 98% là người
Hán. Trong số đó, 86% có nguồn gốc là những người nhập cư từ trước năm 1949.
Nhóm này thường được gọi là "người Đài Loan bản địa" tuy nhiên thổ dân Đài
Loan mới thực sự là những người định cư sớm hơn. Bản tỉnh nhân bao gồm 2 phân
nhóm: người gốc Phúc Kiến (70% dân số), những người này di cư từ vùng ven biển
phía nam Phúc Kiến từ thế kỷ 17; người Khách Gia (15% dân số) và có nguồn gốc
từ tỉnh Quảng Đông. Một số bản tỉnh nhân không thường xuyên sử dụng tiếng Phổ
thông, thay vào đó họ sử dụng tiếng Đài Loan và tiếng Khách Gia.12% dân số là
"ngoại tỉnh nhân”, nhóm này gồm có những người đã di cư từ Trung Quốc đại lục
sau Nội chiến Trung Quốc cùng với Quốc Dân Đảng và hậu duệ của họ. Hầu hết
ngoại tỉnh nhân chủ yếu nói tiếng Phổ thông. Khoảng 2% dân số Đài Loan, vào

khoảng 458.000 người được liệt kê là thổ dân Đài Loan, họ được chia tiếp thành 13
nhóm chính là: Ami, Atayal, Paiwan, Bunun, Rukai, Puyuma, Tsou, Saisiyat, Tao
(Yami), Thao, Kavalan, Truku và Sakizaya.
3. Chính phủ/ Chính quyền
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng chính phủ Trung Hoa Dân
Quốc là bất hợp pháp, và gọi họ là "Chính quyền Đài Loan". Tuyên bố này bị
Trung Hoa Dân Quốc bác bỏ bởi họ tự coi mình là một quốc gia độc lập có chủ
quyền. Về phần mình, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dường như coi việc giữ lại
cái tên "Trung Hoa Dân Quốc" còn dễ chịu hơn nhiều so với việc tuyên bố một
9
nước Cộng hòa Đài Loan độc lập về pháp lý. Tuy nhiên, với sự trỗi dây của phong
trào ủng hộ độc lập tại Đài Loan, cái tên "Đài Loan" đã ngày càng được sử dụng
nhiều trên chính hòn đảo này. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố rằng bất
kỳ một nỗ lực nào tại Đài Loan nhằm chính thức xóa bỏ chế độ Trung Hoa Dân
Quốc và thay thế nó bằng một nước Cộng hòa Đài Loan sẽ dẫn tới nguy cơ đáp trả
bằng biện pháp quân sự mạnh mẽ. Quan điểm hiện tại của Hoa Kỳ là vấn đề Đài
Loan phải được giải quyết một cách hòa bình và hành động đơn phương của bất kỳ
bên nào sẽ bị lên án; cả việc vô cơ tấn công của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay
một tuyên bố độc lập từ phía Đài Loan đều không thể chấp nhập.
Vì chính sách Một Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa yêu cầu các
nước không chính thức công nhận Trung Hoa Dân Quốc như một điều kiện để duy
trì các quan hệ ngoại giao với họ. Chỉ có 25 quốc gia có quan hệ ngoại giao chính
thức với Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, đa số các nước đều có văn phòng đại
diện không chính thức tại Trung Hoa Dân Quốc. Hoa Kỳ vẫn giữ quan hệ không
chính thức với Trung Hoa Dân Quốc thông qua Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan.Trên
thực tế Trung Hoa Dân Quốc cũng giữ các đại sứ quán và lãnh sự quán ở hầu hết
các nước, được gọi là các "Văn phòng Đại diện Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc"
(TECRO), với các văn phòng chi nhánh được gọi là "Văn phòng Kinh tế và Văn
hóa Đài Bắc" (TECO). Cả TECRO và TECO đều là "các thực thể thương mại
không chính thức" của Cộng hòa Đài Loan chịu trách nhiệm duy trì quan hệ ngoại

giao, cung cấp các dịch vụ lãnh sự (như cấp Visa), và bảo vệ các lợi ích quốc gia
của Trung Hoa Dân Quốc tại các nước khác trên cơ sở căn bản như Đại sứ quán
hay Lãnh sự quán.
Cũng vì việc áp dụng chính sách Một Trung Quốc của Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc chỉ có thể tham gia vào các tổ chức quốc tế nơi
họ không được công nhận như một quốc gia độc lập có chủ quyền. Năm 1945,
Trung Hoa Dân Quốc có tư cách đại diện cho toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc và họ là
một trong những quốc gia sáng lập cũng như là thành viên Hội đồng Bảo an, của
Liên hiệp quốc; tuy nhiên, năm 1971, với việc thông qua Nghị quyết 2758 Đại hội
đồng Liên hiệp quốc, nó bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thay thế. Kể từ năm
1992, Trung Hoa Dân Quốc luôn lặp lại đề nghị được gia nhập Liên hiệp quốc
nhưng chưa hề thành công. Đa số quốc gia thành viên, gồm cả Hoa Kỳ, không
muốn bàn thảo vấn đề vị thế chính trị Trung Hoa Dân Quốc vì sợ gây trở ngại tới
những quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tuy nhiên, cả Hoa
Kỳ và Nhật Bản đều công khai ủng hộ việc Trung Hoa Dân Quốc xin trở thành
quan sát viên của Tổ chức Y tế Thế giới.Tuy nhiên, dù Trung Hoa Dân Quốc hàng
năm đều đệ trình hồ sơ xin làm thành viên của WHO từ năm 1997 dưới nhiều tên
gọi, những nỗ lực của họ luôn bị Trung Quốc cản trở. Tương tự, Trung Hoa Dân
Quốc chịu áp lực phải sử dụng cái tên trung lập về chính trị là "Đài Bắc Trung
10
Quốc" trong các sự kiện quốc tế như Olympics, khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
cũng tham gia. Trung Hoa Dân Quốc nói chung bị ngăn cản sử dụng quốc ca và lá
cờ của mình tại các sự kiện quốc tế vì áp lực của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và
những thành viên đoàn Trung Hoa Dân Quốc tham gia vào các sự kiện đó như
Olympics thường bị ngăn cản mang theo cờ Trung Hoa Dân Quốc vào những địa
điểm tổ chức sự kiện Olympics.Trung Hoa Dân Quốc có thể tham gia với tên gọi
"Trung Quốc" tại các tổ chức nơi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không tham dự,
như Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới.
Theo Thỏa ước Montevideo năm 1933, nguồn được trích dẫn nhiều nhất để
định nghĩa một quốc gia là: một quốc gia phải sở hữu một dân số cố định, một lãnh

thổ được xác định, một chính phủ và khả năng thiết lập quan hệ với các quốc gia
khác. Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố họ có đủ mọi tính chất đó bởi vì họ sở hữu
một chính phủ có chủ quyền với quyền tài phán trên những vùng lãnh thổ đã được
xác định rõ với hơn 23 triệu dân và một bộ ngoại giao thực sự. Tuy nhiên Đài Loan
không đáp ứng với tiêu chí thứ tư của Thỏa ước Montevideo, bởi vì họ chỉ được 25
nước (khá nhỏ và nghèo) công nhận và bị cấm tham gia vào các tổ chức quốc tế
như Liên hiệp quốc. và điều 3 "Sự hiện diện chính trị của quốc gia độc lập với sự
công nhận của các nước khác."
 Đài Loan không phải là chủ thể quốc gia.
III. Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Công pháp quốc tế (quyển 1), nxb Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam (2013)
2. Công ước Montevideo về quyền và nhiệm vụ của các Quốc gia 1933
3. Cổng thông tin điện tử chính phủ ( />4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam ( )
5. Từ điển bách khoa toàn thư mở (vi.wikipedia.org)
11

×