Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Thể chế chính trị singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.38 KB, 64 trang )

Lời nói đầu
Singapore là một quốc gia nhỏ ở châu Á, nằm ở phía Nam bán đảo Malaysia, là
cầu nối châu Á với Châu Đại Dương, trên đường hàng hải nối Thái Bình Dương
với Ấn Độ Dương, gồm 54 đảo nhỏ và 9 bãi đá ngầm. Năm 1963, để thoát ách
thống trị của Anh và để có nền tảng kinh tế vững chắc, Singapore sáp nhập với
Liên bang Malaysia, hai năm sau đó (1965), do căng thẳng giữa người Hoa và
người Mã Lai, Singapore rút ra khỏi Malaysia, trở thành một quốc gia độc lập
trong Khối Thịnh vượng chung (ngày 22 – 12 – 1965). Ngày độc lập, Singapore
“ngoài đất đai và con người, gần như không có gì cả”, kinh tế suy thoái trầm
trọng, đời sống nhân dân khó khăn, giáo dục, y tế, văn hóa lạc hậu, xung đột tôn
giáo, dân tộc, phong trào công nhân, học sinh diễn ra không ngừng, quan hệ
quốc tế gặp nhiều trở ngại và quan hệ kinh tế bị cắt đứt. Trải qua 45 năm phấn
đầu bền bỉ, trên một mảnh đất nghèo nàn (633 km
2
), Singapore ngày nay là một
quốc gia đô thị hiện đại của Đông Á với diện tích 697 km
2
, số dân khoảng trên 5
triệu người – là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, giải trí, nghệ thuật, tri thức
của khu vực và đang tập trung phấn đấu thành nước công nghiệp phát triển
hàng đầu của châu Á. Kinh tế Singapore đã tăng trưởng gấp 189 lần kể từ khi
giành độc lập từ năm 1965, có thu nhập bình quân đầu người đạt 36, 537 USD
năm 2009 (tăng 100 lần so với 365 USD/người trong năm 1965) – trong khi thu
nhập bình quân đầu người của Malaysia năm 2009 chỉ đạt 6, 975 USD.
1
Theo
“Báo cáo phát triển Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam hiện nay tụt hậu 158 năm so với Singapore.
2
Đặc biệt,
Singapore là một nước đa dân tộc (74,5% là người Hoa, 13.5% là người gốc Mã


Lai, 9% là người Ấn, 1 – 2% là người dân tộc khác), đa tôn giáo (có 5 tôn giáo
lớn là Kito giáo gồm Tin lành và Thiên chúa giáo: 14.6%, Phật giáo: 42.5%, đạo
Lão: 8.5%, Hồi giáo 14.9%, Ấn Độ giáo: 4%, còn lại 0.6% dân số theo các tôn
giáo khác là 14.8% dân số không theo tôn giáo, ngoài ra còn có các loại hình
thức tín ngưỡng dân gian) nhưng đất nước Singapore luôn tồn tại trong một môi
trường xã hội hòa hợp, đồng thuận.
Vậy vì sao nước Singapore đạt được sự phát triển kinh tế thần kỳ như vậy?
Ngoài những kinh nghiệm để Singapore đạt được sự phát triển thần kỳ đó có thể
kể đến là: “ý thức hệ sống còn” (ideology of survival), ý thức hệ thực dụng
(pragmatism), ý thức hệ “giá trị châu Á”; là chính sách trọng dụng người tài, tiếng
1
Theo www.tamnhin.net ngày 19 – 11 - 2010
2
Theo www.vn.express.net ngày 9 – 10 - 2011
1
Anh được chọn làm quốc ngữ
1
, kiên quyết chống tham nhũng, trả lương cho
công đức xứng đáng…
2
thì những thành tựu đó có được phải kể đến vai trò tích
cực của hệ thống chính trị Singapore – Đảng nhân dân hành động trực tiếp lãnh
đạo đất nước hiệu quả; Nhà nước dân chủ, tôn trọng dân và chính phủ quản trị
tốt, các tổ chức chính trị - xã hội phát huy được sức mạnh của cộng đồng. Sau
đây là khái quát về hệ thống chính trị Singapore và vai trò của nó đối với sự phát
triển của Singapore.
1
Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Nắm vững Tiếng Anh , đó là chìa khóa để giành lấy tri thức, công nghệ cao của
phương Tây.”
2

Hiện nay tiền lương của các bộ trưởng và Thủ tướng Singapore thuộc hàng cao nhất trên thế giới. Lương của Thủ
tướng Singapore cao gấp hai lần Thủ tướng Nhật Bản và gấp khoảng 4 lần Tổng thống Mỹ - khoảng 1.7 triệu
USD/năm.
2
Phần nội dung
I. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN HÀNH ĐỘNG (PAP)
SINGAPORE
1
Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị của Singapore tồn tại cơ chế đa đảng nhưng
chỉ có một Đảng nổi trội. Mặc dù có rất nhiều đảng chính trị tồn tại ở Singapore,
nhưng chỉ có một đảng mạnh tuyệt đối liên tục nắm quyền trong suốt 50 năm
qua. Các đảng đối lập hoạt động rất yếu ớt và không đồng nhất, phần nhiều
trong số đó hiện chỉ tồn tại trên giấy tờ hoặc là công cụ cho những người đứng
đầu. Việc có nhiều đảng phái chính trị hoạt động không nói lên được sức mạnh
của phe đối lập trong hệ thống chính trị Singapore. Ngoài Đảng Nhân dân hành
động (PAP), các đảng khác không có ảnh hưởng gì đáng kể đến hệ thống chính
trị.
1. Vài nét về Đảng Nhân dân hành động (PAP)
Trong cuộc đấu tranh chống chế độ thuộc địa giành độc lập dân tộc Singapore
đã xuất hiện nhiều đảng chính trị, nhưng các đảng này đều không phát huy được
vai trò của mình trong phong trào đấu tranh giành độc lập.
Năm 1953, Chính phủ Anh giao cho George Render xem xét lại bản Hiến pháp
thuộc địa. George Render khi đó đã đề nghị thiết lập nghị viện lập pháp cho
chính thể dân chủ Singapore. Quyết định này đã thúc đẩy các đảng chính trị ở
Singapore phát triển và bước vào tranh cử.
Hơn 1, 500 người đã đổ về Hội trường Tưởng niệm chiến thắng vào sáng Chủ
nhật 21 – 11 – 1954 để chờ đón đại hội đầu tiên của Đảng Nhân dân hành động
– PAP, được bắt đầu với một nhóm các chuyên gia, những người trẻ tuổi trở về
Singapore sau khi tốt nghiệp các trường đại học ở Anh đầu thập niên 1950 và
những người cam kết xóa bỏ sự thống trị của thực dân Anh nhằm xây dựng một

Malaysia độc lập, không chủ nghĩa cộng sản, bao gồm cả Singapore, trong số
đó, trước hết phải kể đến Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew), Goh Keng Swee, Toh
Chin Chye và S. Rajaratnam).
Vào thập niên năm 1950, PAP đóng vai trò là đảng cánh tả của các nghiệp đoàn.
Đảng này bắt đầu kiểm soát chính quyền từ cuộc bầu cử quan trọng vào Hội
1
Theo TS. Tống Thức Thảo, TS. Bùi Việt Hương (Viện Chính trị học – Học viện chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh).
3
đồng Lập pháp năm 1959, cuộc bầu cử tự trị đầu tiên của Singapore. PAP đã
tranh cử tất cả các ghế, và giành được 43 trên 51 ghế. Người đứng đầu nhóm
chuyên gia – Lý Quang Diệu, được cử làm thủ tướng, sau khi các thành viên
cánh tả của PAP bị bắt vì lý do chính trị trước đó được thả ra.
Tuy nhiên, trong nội bộ đảng diễn ra một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa những
người cấp tiến được đào tạo tại Anh và những người ủng hộ chủ nghĩa cộng
sản. Nhóm cánh tả đe dọa sẽ chuyển sự ủng hộ từ Lý Quang Diệu sang David
Marshall (lãnh tụ của Đảng đối lập) nếu Lý Quang Diệu không có những cải cách
đáng kể về tình trạng đàn áp (bao gồm: thiếu quyền tự do công dân, việc tiếp tục
câu lưu và bắt giữ các nhân vật chính trị dưới Luật Nội an của Hội đồng Nội an
(Internal Security Council), hạn chế quyền công dân của các nhân vật thuộc
cánh tả, hạn chế các phong trào liên kết của các công đoàn thương mại có xu
hướng xây dựng các cơ sở chính trị, và cuối cùng là sự mất dân chủ ngày càng
lớn ngay trong PAP). Các bất đồng trong PAP không giải quyết được dẫn đến sự
ly khai và sự thành lập của Đảng Barisan Sosialis bởi các lãnh đạo nghiệp đoàn
cánh tả và thành viên ly khai (hay bị đuổi) khác của PAP. Lý Quang Diệu vẫn tiếp
tục nắm quyền với PAP còn lại.
Sau cuộc trưng cầu dân ý để sáp nhập Singapore vào Liên bang Malaysia năm
1962, PAP đã tăng cường vị trí độc tôn quyền lực bằng cách đàn áp các đảng
đối lập. Tháng 2 năm 1963, một chiến dịch mang tên Operation ColdStore bắt
giữ hơn 100 nhân vật hoạt động chính trị cánh tả quan trọng hoặc nổi tiếng được

Hội đồng Nội an tiến hành. Ngay sau vụ bắt giữ và đàn áp, PAP tổ chức một
cuộc bầu cử đột xuất. Kết quả là Barisan được 33.3% phiếu bầu và giành được
13 ghế, PAP giành được 46.9% phiếu bầu và giành được 37 ghế. Khi Quốc hội
mới tuyên thệ, ba dân biểu của Barisan đã bị bắt và hai người phải bỏ trốn ra
nước ngoài. Tổng Thư ký Đảng Barisan đã tẩy chay vị trí đại biểu quốc hội của
mình. Sau đó, việc 7 dân biểu Barisan còn lại lần lượt từ chức đã cho phép PAP
nắm giữ hoàn toàn số ghế trong quốc hội và từ đó không còn tiếng nói chính trị
đối lập nào.
Hiện nay, có khoảng 20 đảng chính trị đăng ký hoạt động ở Singapore.
1
Song
PAP vẫn giữ vững địa vị cầm quyền của mình với những chiến thắng liên tiếp
trong các cuộc bầu cử phổ thông. PAP có hơn 3 vạn đảng viên (chiếm khoảng
1
Singapore còn có các đảng phái chính trị khác như: Đảng Dân chủ Singapore (Singapore Democratic Party –
SDP); Đảng Lao động (Workers’ Party – WP); Đảng Cải cách (Reform Party); Đảng Liên minh Dân chủ Singapore
(Singapore Democratic Allinance – SDA)….
4
1% dân số), được tổ chức chặt chẽ và không ngừng nâng cao uy tín trong việc
lãnh đạo đất nước Singapore.
2. Mô hình tổ chức của PAP
a. Hệ tư tưởng của PAP
PAP, trong Cương lĩnh của mình, tự cho mình là phong trào toàn quốc để phục
vụ đất nước và thúc đẩy sự thịnh vượng của người dân.
Dựa theo khuôn mẫu Gramsci cổ điển và kinh nghiệm của các nhóm hoạt động
chính trị trong việc chuyển đổi đường hướng và cách thức hoạt động chính trị,
nhóm chuyên gia được đào tạo ở Anh đã chủ động rời bỏ tầng lớp và giai cấp
thống trị để tham gia vào khuynh hướng xã hội chung của thời đại đang được
nhiều người ủng hộ. Liên minh này hoạt động dưới ngọn cờ chung là chống thực
dân. Về cơ bản, PAP đã nắm bắt được nguyện vọng sâu xa của các tầng lớp

nhân dân lúc bấy giờ.
Việc tập hợp lại với một khẩu hiệu như vậy và việc tạo nên một mối quan tâm
lớn và sự đồng thuận của xã hội, về mặt cảm tính, đã biến họ thành một tổ chức
chính trị dành được vai trò lãnh đạo về ý thức hệ. Tuy nhiên, để thu hút được sự
ủng hộ rộng rãi của quần chúng, nhóm chuyên gia phải hình thành một liên minh
với các nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị, xã hội cánh tả khác. Liên minh này
cũng tìm kiếm sự ủng hộ và quan tâm từ giới công nhân cũng như tầng lớp dân
chúng chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Trung Hoa. Ngay từ ngày đầu thành
lập, Singapore phải đối diện với nhiều mối nguy sinh tử. Cho nên ngay từ những
năm đầu cầm quyền của PAP, tư tưởng về sự tồn vong là trung tâm trong chính
trị Singapore. Theo Diane Mauzy và R.S. Milne, các nhà nghiên cứu Singapore
đã đưa ra bốn điểm chính trong “hệ tư tưởng” của PAP gồm:
- Chủ nghĩa thực dụng;
- Chế độ nhân tài;
- Chủ nghĩa đa sắc tộc;
- Các giá trị châu Á hay chủ nghĩa cộng đồng;
Đối diện với một nền kinh tế kém phát triển và một xã hội phức tạp với nhiều sắc
tộc và nhiều ngôn ngữ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Singapore là mối
quan tâm hàng đầu của PAP. Từ đó, “ý thức hệ sống còn” đã được khai sinh. Với
5
năng lực và lòng nhiệt tình đặc trưng, các nhà lãnh đạo PAP đã đặt ra mục tiêu
đưa đất nước ra khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập.
b. Mô hình tổ chức của PAP
PAP áp dụng hình thức tập trung quyền lực cao độ. Nó được đặc trưng bởi tác
phong từ trên xuống, các chức vụ được chỉ định hơn là bầu cử, thiếu sự kiểm
soát mang tính thể chế đối với quyền lực của thủ tướng và nội các, mất nhiều nỗ
lực để tuyên truyền các quyết định và chính sách của chính phủ đến người dân
hơn là tập trung ý kiến của công chúng. Mức độ tập trung cao này tương đối
thuận tiện ở một đất nước tương đối nhỏ và ít dân. Điều này có ảnh hưởng lớn
đến mô hình tổ chức và hoạt động của PAP.

PAP không phải là một chính đảng mang tính chất quần chúng mà là đảng của
tầng lớp tinh hoa trong xã hội của Singapore. PAP được tổ chức chặt chẽ theo
ba cấp trung ương, quận, chi bộ và gồm hai loại đảng viên: đảng viên thường và
đảng viên cốt cán.
Đảng viên của PAP phải là người Singapore, từ 17 tuổi trở lên, không tham gia
bất cứ đảng phái chính trị nào, chấp hành tốt cương lĩnh của Đảng và phải trải
qua một cuộc phỏng vấn của PAP. Số lượng đảng viên cốt cán của đảng này hạn
chế, chỉ bao gồm những người ưu tú nhất trong Đảng.
Về mặt tổ chức, đứng đầu PAP là Ủy ban Chấp hành Trung ương (Central
Executive Committee – CEC). Năm 1954, Điều lệ của PAP quy định CEC gồm 12
thành viên được bầu trực tiếp bởi các đảng viên trong hội nghị phổ thông hằng
năm. CEC sẽ bầu ra chủ tịch, phó chủ tịch, bí thư, trợ lý bí thư, thủ quỹ, trợ lý thủ
quỹ. Cách làm này kéo dài đến tháng 8 năm 1957, khi 6 thành viên ủng hộ chủ
nghĩa cộng sản trong Đảng trúng cử. Năm 1958, Đảng sửa đổi Điều lệ để tránh
những việc như vậy diễn ra. Sự sửa đổi này yêu cầu tổng số thành viên của
CEC lên tới 18 người do Tổng bí thư đứng đầu, 2/3 số đó sẽ do các đảng viên
cốt cán bầu ra trong Hội nghị của Đảng được tổ chức hai năm một lần và 1/3 do
chỉ định (những người được chỉ định do các đảng viên cốt cán giới thiệu); những
đảng viên cốt cán này sẽ được lựa chọn bởi đa số phiếu trong Ủy ban. Hiện nay
PAP có trên 3 vạn đảng viên nhưng chỉ có khoảng 1000 ngàn viên cốt cán. Đây
là những nhân vật được xếp vào tầng lớp tinh hoa chính trị, là những người bầu
ra lãnh đạo cao nhất của Đảng và vạch ra chủ trương, chính sách của Đảng. Hệ
thống đảng viên cốt cán của Đảng là chìa khóa để duy trì kỷ luật và quyền lực
6
trong Đảng. Những nhân vật nòng cốt không được công khai, danh sách những
nhân vật cốt cán không bao giờ được công bố.
Quyền lực chính trị được tập trung vào CEC do Tổng bí thư lãnh đạo. Hầu hết
thành viên của CEC đồng thời là thành viên nội các. Từ năm 1957 trở đi, luật quy
định rằng CEC mãn nhiệm sẽ đưa danh sách giới thiệu các ứng cử viên để các
đảng viên cốt cán bầu ra CEC nhiệm kỳ tiếp theo. Điều này gần đây đã thay đổi,

CEC giới thiệu 8 thành viên và Đảng sẽ họp kín lựa chọn 10 thành viên còn lại.
Ở cấp tiếp theo là Ủy ban Điều hành (Headquarter Executive Committee – HQ
exco) thực hiện các công tác hành chính của Đảng và giám sát 12 tiểu ban gồm
các tiểu ban:
- Bổ nhiệm và quan hệ nhánh (Branch Appointments and Relations)
- Quan hệ cử tri (Constituency Relations)
- Thông tin và phản hồi (Information and Feedback)
- Truyền thông (New Media)
- Các vấn đề người Malay (Malay Affairs)
- Tuyển đảng viên và lựa chọn cán bộ (Membership Recruitment and Cadre
Selection)
- Khen thưởng PAP (PAP Awards)
- Giáo dục Chính trị (Political Education)
- In ấn và xuất bản (Publicity and Publication)
- Xã hội và giải trí (Social and Recreational)
- Phong trào phụ nữ (Women’s Wing)
- Phát triển đảng viên mới (Young PAP)
Nhân sự của CEC cũng chính là những người sẽ tham gia nội các. CEC và nội
các chính phủ thực tế không có sự phân biệt rõ ràng. Chủ tịch CEC chỉ tồn tại
trên danh nghĩa còn quyền lực thực sự lại nằm trong tay Tổng bí thư của Đảng,
7
vị trí do Lý Quang Diệu nắm giữ từ ngày thành lập đảng, sau đó là Goh Chok
Tong) và hiện nay là Lý Hiển Long.
1
Bổ sung cho CEC là các nhánh, các đơn vị cơ sở của Đảng ở tất cả các đơn vị
bầu cử. Các nhánh này do các ủy ban chuyên trách riêng điều hành, đứng đầu
thường là đại biểu quốc hội của khu vực đó. Để tránh việc cánh tả tham gia vào
nội các, CEC phê chuẩn tất cả các thành viên ủy ban trước khi đặt họ vào một
chức vụ nào đó. Một nửa số ủy viên hội đồng được bầu ra; nửa còn lại do chủ
tịch ở các khu vực đề nghị. Hoạt động của các nhánh do các cơ quan đầu não

của Đảng điều hành thông qua các cuộc họp hằng tháng giữa các thành viên cốt
cán của Đảng với Hội đồng Chấp hành Khu vực. Những cuộc họp hằng tháng là
nơi những người đứng đầu của Đảng thông báo các chính sách của Đảng đến
thành viên các nhánh và là một cách để duy trì sự giám sát đối với các hoạt
động ở địa phương.
Ở đỉnh cao nhất trong hệ thống thứ bậc là các bộ trưởng của nội các, những
người đồng thời là thành viên của Quốc hội và CEC, cơ quan hoạch định chính
sách cao nhất của PAP. Trong số các bộ trưởng này, hạt nhân cốt lõi là 5 thành
viê. Bên dưới nhóm này là tầng lớp các công chức cao cấp, những người ngoài
nhiệm vụ chính thức của họ còn đóng các vai trò quản lý và tư vấn với tư cách là
những người điều hành hội đồng thành phố và các cơ quan pháp luật. Các thành
viên PAP trong quốc hội không phải là các bộ trưởng trong nội các hay chính phủ
cũng có xu hướng đóng các vai trò ở mức độ này trong thứ bậc quyền lực, làm
cầu nối giữa chính phủ và quần chúng nhân dân.
PAP không thực hiện nguyên tắc bầu cử các cơ quan đảng từ cơ sở đến trung
ương. Chỉ những người là đảng viên cao cấp, những người ưu tú nhất của đảng,
nắm giữ những trọng trách trong bộ máy nhà nước và chủ kinh doanh lớn mới
có quyền bầu cử Ủy ban Chấp hành của Đảng. Việc thảo ra những quan điểm và
đường lối chính trị của Đảng là do tầng lớp trên của ban lãnh đạo đảng tiến
hành.
c. Các cơ sở chính trị nhánh
Mặc dù tính chính danh trong quyền lãnh đạo của PAP được xác định và thể
hiện ở sự thành công về mặt kinh tế của Singapore, nhưng để có được một vị trí
thống lĩnh và chi phối chính trường một cách tuyệt đối, PAP - từ những ngày đầu
tham gia chính trường Singapore, đã dựa vào những cơ sở chính trị nhánh
1
Lee Hsien Loong, Thủ tướng thứ ba và đương nhiệm của Singapore, đồng thời là Tổng bí thư của PAP, con trai cả
của ông Lý Quang Diệu – Lee Kuan Yew
8
(parapolitical institutions) để củng cố vị trí. Bằng cách áp dụng chính sách “huy

động và tham gia có điều khiển” (controlled mobilization and participation),
những cơ sở chính trị nhánh này vừa có mục đích hướng dẫn những nhân tài và
thu dụng họ cho các lĩnh vực khác nhau của chính phủ. Ngoài ra, nó còn đóng
vai trò như một môi trường truyền thông kiến tạo một hệ thống thông tin giữa
người dân và chính quyền. Một khi điều khiển được những kênh thông tin hiệu
quả như vậy và ngăn không cho các lực lượng đối lập tiếp cận với các cơ sở
chính trị này, PAP đã thành công trong việc góp phần cô lập các đảng đối lập. Ba
loại hình “cơ sở chính trị nhánh” chính là: Trung tâm cộng đồng (community
Center – CC), Ủy ban tư vấn công dân (Citizen’s Consultative Committees –
CCCs) và Ủy ban địa phương (Town Council – TC).
Trung tâm cộng đồng (CC): trong những năm đầu thập niên 1960, sau khi bị tách
ra trong PAP giữa hai phe: phe cộng sản (Barisan Sosialis) và phe Tây học thân
phương Tây (PAP), trong tình thế khó có thể củng cố được lực lượng trong một
khoản thời gian ngắn ở một giai đoạn lịch sử quan trọng, các lãnh đạo PAP đã
dựa vào các CCC để tuyên truyền và củng cố những ảnh hưởng tới những cơ
sở ở các khu vực dân cư. Kinh nghiệm nhận được và sự thành công trong chiến
lược này là một nguyên nhân để PAP thúc đẩy việc mở rộng một cách có kiểm
soát các cơ sở “chính trị nhánh” tương tự sau này.
Các trung tâm này có một vai trò tích cực trong việc truyền bá các chủ trương,
chính sách của nhà nước và hỗ trợ trong nỗ lực hình thành một số quốc gia.
Ngoài ra, nó còn đóng vai trò trong việc củng cố quyền lực của PAP bằng cách
tăng cường ảnh hưởng và sự hiện diện của PAP xuống tới các khu vực dân cư
nghèo khó.
Ủy ban tư vấn công dân (CCCs): các CCCs được thành lập vào năm 1965 và là
một phần trong cơ chế tìm kiếm và nuôi dưỡng những lãnh đạo không chính
thức (informal leader). Tổ chức này còn được nhìn nhận như là một cơ chế
nhằm tăng cường việc xử lý những bất đồng nhỏ, và được làm theo mô hình
trước đây khi quân đội Nhật Bản chiếm đóng Singapre. Trong thời kỳ Nhật Bản
chiếm đóng, các Hội đồng làng (village council) đã được dựng nên để ổn định
trật tự và làm nhiệm vụ thông tin cho quân đội Nhật về các tổ chức chống đối cơ

sở. Sự khẩn cấp hình thành một cơ chế xử lý như vậy bắt nguồn từ kinh nghiệm
cuộc xung đột sắc tộc diễn ra vào năm 1964; trong các cuộc xung đột đó, các
lãnh đạo phải viện đến các lãnh đạo không chính thức ở địa phương để hòa giải.
Các CCCs truyền đạt thông tin hai chiều: các nguyện vọng và đề đạt từ nhân
9
dân đến chính quyền và các chính sách từ chính quyền ngược trở lại. Mỗi đơn vị
bầu cử có một CCCs và thành viên của CCCs do nghị sĩ khu vực đề cử.
Ủy ban địa phương (TC): mô hình các TC được đề xướng vào năm 1985 và
được thí điểm lần đầu tiên vào năm 1986. Đây là một nỗ lực của chính quyền
trong việc duy trì cơ chế thông tin và ảnh hưởng tới các cơ sở địa phương. Mục
tiêu ban đầu của các TC là tạo một cơ chế để các cư dân và các nghị sĩ cùng
nhau hợp tác nhằm quản lý các khu nhà chung cư (vốn hiện nay chiếm tới 90%
nhà ở của người Singapore) và giữ gìn môi trường xung quanh. Sự thành công
của các TC được đánh giá không chỉ ở khả năng quản lý các khu chung cư mà
còn ở khả năng thúc đẩy sự hợp tác của người dân đóng góp những đề xuất
trong việc quản lý. Các viên quản lý các khu TC thường là các vị lãnh đạo trong
cộng đồng qua sự chọn lựa của các nghị sĩ. Chính vì vậy, khả năng của các nghị
sĩ được đánh giá một phần qua khả năng điều hành các khu TC và khả năng
quản lý các quỹ được phân bổ về.
3. Sức hấp dẫn của PAP
PAP, trong quá trình lãnh đạo đất nước đã tỏ ra là một chính đảng được lòng
dân. Nhưng đằng sau sự thể hiện đó là hàng loạt những nỗ lực để duy trì sự tin
tưởng của dân chúng.
a. PAP lấy phát triển kinh tế làm tiền đề cho sự ổn định chính trị và xã hội, xây
dựng tính chính đáng.
Ngay từ đầu, PAP quyết định rằng cách tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ đưa đất
nước ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện, đó là thiết lập tính ưu việt trong việc
phát triển kinh tế và kết hợp nó với an ninh chính trị để tạo ra sự cân bằng vững
chắc và rõ ràng cho sự tồn tại của đất nước. Lý Quang Diệu cho rằng, để đất
nước Singapore có thể tồn tại, xã hội Singapore cần được tổ chức lại chặt chẽ

hơn và người dân cần có kỹ luật hơn. Việc đầu tiên và quan trọng nhất là phát
triển kinh tế trên bình diện quốc gia và nâng cao mức sống của người dân.
Sự hợp pháp của cả hai – ý thức hệ thực dụng và vai trò lãnh đạo của PAP –
được nâng lên nhờ những thành công trong những chính sách của chính quyền
nhằm đem lại cuộc sống sung túc hơn về vật chất – điều quan trọng nhất mà
người dân Sinpapore (những di dân về kinh tế) mong mỏi (Singapore là một
quốc gia đa dân tộc, đa sắc tộc, đa tôn giáo. Do có vị trí địa lý thuận lợi, quốc gia
này là bến cảng kiếm sống của rất nhiều dân tị nạn.
10
Điểm thứ hai là việc xây dựng tính chính đáng. Sau năm 1963, về mặt chính trị
chỉ còn duy nhất Đảng Nhân dân hành động. Vấn đề từ thời điểm này trở đi, đối
với PAP, là việc xây dựng tính chính đáng trong vai trò một đảng cầm quyền. Tuy
nhiên, tính chính đáng đó chỉ tồn tại trong chừng mực. PAP có thể tạo dựng một
tương lai tốt hơn cho người dân trên đảo Singapore, cũng như tạo ra một tương
lai mới cho đất nước này. Nói cách khác, đối với PAP, vấn đề lúc này chỉ còn đơn
thuần là kinh tế, và chừng nào PAP còn có khả năng phát triển kinh tế và không
ngừng nâng cao mức sống của người dân và vị trí của Singapore thì PAP còn
đứng vững. Điều này khá phù hợp với lý thuyết của Gramci khi ông cho rằng sự
đồng thuận không thể được duy trì chỉ duy nhất bằng các ý kiến hay lý tưởng,
mà bắt buộc phải có các yếu tố mang tính kinh tế. Tính chính danh của một đảng
cầm quyền chỉ có được khi nó có khả năng cải thiện đời sống vật chất của tầng
lớp bị trị. Và một xã hội được cải thiện về mặt vật chất theo những quy chuẩn giá
trị mới là một xã hội mà ở đó giới cầm quyền lãnh đạo bằng khả năng lãnh đạo
về mặt tinh thần (moral leadership) với sự hỗ trợ bằng các hình thức bắt buộc
cần thiết khác.
Và đa số người dân không có nhiều thì giờ để tìm hiểu một cách tường tận một
hệ thống ý thức hệ, thì sự nhìn nhận một ý thức hệ được gắn liền với sự thành
công về mặt kinh tế là điều dễ hiểu. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với một đảng
cầm quyền trước hết là có hay không một giải pháp phát triển kinh tế quốc gia.
Điều này được nhìn thấy rõ hơn khi các chế độ chính trị sau một thời gian dài ổn

định đã sụp đổ do mất khả năng kiểm soát hay phát triển nền kinh tế.
Có thể nói, xuất phát từ mục tiêu và định hướng ban đầu, cùng với thực tiễn quá
trình phát triển của đất nước Singapore, một mặt PAP đã nắm quyền lãnh đạo
tuyệt đối cả về tư tưởng, kinh tế và chính trị với sự đồng thuận của đại đa số
người dân. Mặt khác, PAP có đủ các điều kiện để áp dụng lý thuyết của Gramsci
và trên thực tế đã áp dụng lý thuyết này để xây dựng một vị trí lãnh đạo về tinh
thần (moral leaddership) thông qua quyền lãnh đạo và ý thức hệ.
Nhưng quan trọng hơn, các đảng viên của PAP hầu hết là những người thuộc
tầng lớp trên của xã hội, có tài và giàu có. PAP hoàn toàn có thể huy động được
nguồn tài chính khổng lồ khi cần thiết để củng cố vị trí và ảnh hưởng của mình
cũng như để thực hiện những mục tiêu Đảng đề ra. Đây cũng là hậu thuẫn cực
mạnh về kinh tế để đảm bảo uy tín của PAP và bảo đảm sự ủng hộ đối với các
chính sách phát triển đất nước của PAP.
11
Di có những ưu thế rõ rệt và có một chỗ đứng vững chắc trong xã hội, PAP
không bị bất cứ giáo điều tư tưởng nào ngăn trở. Công tác tư tưởng được PAP
thực hiện triệt để kết hợp với việc tuyên truyền và mở rộng hệ giá trị mới mà giai
cấp cầm quyền đặt ra. Tháng 1 – 1991, PAP đã giới thiệu “Sách trắng về các giá
trị chung” (White Paper on Shared Values), cố gắng tạo ra hệ tư tưởng quốc gia
và thể chế hóa các giá trị châu Á. Người dân Singapore nói chung đã chấp nhận
sự lãnh đạo tuyệt đối của PAP và cùng với nó là sự không dân chủ và can thiệp
trên mức trung bình của PAP vào mọi mặt của đời sống.
b. PAP tập trung quyền lực thông qua bộ máy nhà nước
Khi nói về quyền lực của PAP, cần phải nói về quan hệ giữa PAP và chính phủ.
Sau khi giành được quyền lực, thành lập chính phủ , PAP nắm tất cả các quyền
và chỉ bị giới hạn bởi hiến pháp và pháp luật. Nhà nước, về lý thuyết, có quyền
cao hơn tất cả các cơ quan chính trị khác. Tuy nhiên, càng cầm quyền lâu, sự
phân biệt giữa PAP và chính phủ càng mờ nhạt. Vì vậy, về chính trị, PAP nắm cả
lập pháp, hành pháp và tư pháp và có sự hậu thuẫn chắc chắn từ tất cả các thể
chế này để lãnh đạo đất nước.

Theo Hiến pháp của Singapore, nước này là một nước cộng hòa, đứng đầu là
tổng thống do Nghị viện bầu ra với nhiệm kỳ 4 năm (từ năm 1991 là 6 năm).
Tổng thống bổ nhiệm lãnh tụ của đảng chiếm đa số trong Quốc hội làm Thủ
tướng. Thủ tướng thành lập nội các và phải được tổng thống thông qua. Thủ
tướng và nội các chịu trách nhiệm trước tập thể Nghị viện. Tất cả các quyền đều
được thực hiện qua chính phủ do thủ tướng đứng đầu. Tuy lần sửa đổi Hiến
pháp năm 1991 đã tăng thêm quyền lực cho tổng thống như: Tổng thống đứng
đầu cơ quan hành pháp, có quyền phủ quyết đối với việc chi tiêu của chính phủ,
xem xét, phê phán việc thực thi quyền lực của chính phủ… Nhưng thực tế, tất cả
hoạt động của Quốc hội và tổng thống vẫn phải được sự đồng ý của người đứng
đầu Chính phủ. Toàn bộ quyền lực nằm trong tay thủ tướng chính phủ và nội các
của người đó.
Trong hệ thống chính trị Singapore, Ban lãnh đạo của PAP nắm giữ những
cương vị chính trong bộ máy nhà nước như: tổng bí thư trở thành thủ tướng,
hầu hết các ủy viên trung ương đều là thành viên của nội các. Trên thực tế, công
tác của Đảng và công tác của chính phủ là một. Việc thực hiện chương trình
công tác của Chính phủ cũng là thực hiện cương lĩnh tranh cử của Đảng.
Singapore không có tổ chức đảng và chính phủ song trùng. Đảng và Ủy ban
Trung ương do các bí thư ăn lương chuyên nghiệp lãnh đạo. Thông qua các bí
12
thư đó, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước được thực hiện thường xuyên
trong mọi điều kiện. Với tư cách là đảng cầm quyền, các nhà lãnh đạo của PAP
đã thể chế hóa hoạt động của mình vào bộ máy nhà nước và Quốc hội. Thông
qua ảnh hưởng và sự lãnh đạo của mình đối với các thể chế này, PAP tuyên
truyền tư tưởng của đảng mình, làm công tác quần chúng, xây dựng cơ sở chính
trị, tài chính, vận động bầu cử và thực hiện các đường lối, chính sách của mình.
Một đảng cầm quyền mạnh được thể hiện thông qua một nhà nước mạnh. PAP
nắm chính quyền trong thời gian dài chủ yếu là do họ giành được sự ủng hộ của
nhân dân nhờ vào sự liêm khiết và khả năng điều khiển chính quyền của họ.
PAP là đảng cầm quyền của Singapore, chủ trương và ý chí của đảng được thể

hiện và thực thi thông qua chính phủ. Để được nhân dân tín nhiệm, đối phó với
các lực lượng chống đối, giữ cho đảng và chính phủ được liêm khiết, hoạt động
hiệu quả cao, Singapore công khai kêu gọi, giáo dục nhân viên công vụ nhà
nước và cán bộ đảng các cấp giữ liêm khiết và có một tinh thần quên mình.
Mặc dù các thành viên của Quốc hội được nhân dân bầu ra, nhưng họ được lựa
chọn bởi các nhà lãnh đạo cốt cán, thường không có đối thủ và coi vị trí mà họ
có được là do sự ưu ái của thủ tướng chứ không phải nhờ ý chí của cử tri ở
những cấp cao nhất; sự phân biệt giữa bộ máy hành chính và cơ quan chính trị
chỉ mang tính tượng trưng, và nhiều thành viên của Quốc hội được lựa chọn từ
hàng ngũ những công chức cao cấp và các doanh nghiệp công. Nhiều công
chức cấp cao có thể gặp trực tiếp thủ tướng để được tư vấn, góp ý mà không
cần qua bộ trưởng nội các cấp cao theo đúng trình tự.
Các nhà lãnh đạo cấp thứ hai được tuyển lựa thông qua chỉ định, kết nạp và
được rút ra khỏi bộ máy hành chính, nghề nghiệp và các doanh nghiệp tư nhân,
chỉ gia nhập vào PAP khi được bổ nhiệm vào một ghế ở Quốc hội. Chính phủ đã
rất thành công trong việc kết kết nạp những nhà lãnh đạo cộng đồng truyền
thống vào hệ thống ban cố vấn, ủy ban, hội đồng… và cảm thấy không cần thiết
phải xây dựng một tổ chức riêng của những nhà hoạt động của đảng để tước
bớt quyền lực của những nhà lãnh đạo cộng đồng.
c. PAP đã xây dựng hình ảnh của mình là một đảng thống nhất, đoàn kết, trong
sạch, thân dân
Để tạo lập và duy trì niềm tin của dân chúng vào sự lãnh đạo của mình, PAP đã
cố gắng xây dựng hình ảnh của mình là một chính đảng đoàn kết, thống nhất.
Sự rạn nứt trong lãnh đạo PAP hiếm khi xảy ra (hay ít nhất là hiếm khi biểu hiện
13
ra bên ngoài). Mặc dù vẫn tồn tại những khác biệt nhỏ trong chính sách, các nhà
lãnh đạo cấp cao đóng vai trò là bức bình phong thống nhất một khi các quyết
định đã được đưa ra. Phương thức ra quyết định là đồng thuận và phong cách
lãnh đạo là tập thể. Nhưng năm 1969, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã cân đối hai
vấn đề này. Các nhà lãnh đạo đồng nhất bản thân họ với quốc gia và coi phe đối

lập với họ hay chính sách của họ là mối đe dọa cho sự tồn tại của đất nước.
PAP lấy tính liêm khiết đặt lên hàng đầu đối với đội ngũ công chức và đảng viên.
Đây là yếu tố quan trọng để có một chính đảng mạnh và một chính phủ trong
sạch, tạo và duy trì được uy tín của đảng và niềm tin của người dân đối với
Đảng. “Chính phủ phải liêm khiết” là xuất phát điểm để giáo dục cán bộ của PAP
và giáo dục các quan chức của chính phủ, cả đạo đức công chức lẫn kỹ luật
công vụ.
Lợi ích, uy tín, danh dự của đảng được đặt lên hàng đầu. Mọi đảng viên phải
thừa nhận và thực hiện các chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Đảng. PAP
kiên quyết không bảo vệ đảng viên vi phạm pháp luật và đạo đức. Các đảng viên
đều phải tự chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Các nhà lãnh đạo
Singapore hết sức nhấn mạnh: các quan chức cao cấp của PAP, các quan chức
của chính phủ, bất luận chức vụ cao thấp, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật và kẻ nào phá hoại danh dự của Đảng sẽ bị xử phạt thích đáng. Lý Quang
Diệu khẳng định rằng: nếu những kẻ cơ hội và bất tài nắm quyền thì nhân dân
sẽ phải trả giá đắt.
PAP kiên quyết chống tham nhũng. Trong những năm đầu lãnh đạo, vì không có
khả năng để nâng lương cho các nhân viên công vụ, nhằm chống tệ nạn tham
nhũng, PAP đã bắt đầu xiết chặt các luật vốn đã có để làm giảm cơ hội tham
nhũng, đồng thời tăng mức hình phạt các hành vi tham nhũng. Các luật về chống
tham nhũng lần lượt ra đời và điều chỉnh theo thời gian (1963, 1966, 1981,
1989). Thành tích chống tham nhũng của Singapore có được trước hết là nhờ
một ý chí chính trị mạnh mẽ và người cầm quyền đủ quyền lực và trong sạch để
thực thi việc chống tham nhũng. Một cơ quan chống tham nhũng độc lập, không
trực thuộc lực lượng cảnh sát (vốn thường rất tham nhũng), và có đủ quyền lực
để thực thi những biện pháp dựa trên một bộ luật hợp lý mang tính răn đe là một
điều kiện cần cho việc chống tham nhũng thành công. Cơ quan điều tra tham
nhũng (CPIB)
1
được thành lập và được trao một quyền hành lớn, chịu trách

nhiệm theo dõi, điều tra các hành vi liên quan đến tham nhũng của bất cứ cá
1
Cơ quan điều tra tham nhũng: Cơ quan này trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có quyền độc lập điều tra và ngăn
chặn tham nhũng.
14
nhân hay tổ chức nào và sẵn sàng bắt giữ nếu thấy cần thiết. Các cơ quan khác
có nghĩa vụ phải hợp tác và giúp đỡ CPIB vô điều kiện. Những năm sau này, khi
nền kinh tế khởi sắc và quốc gia có một ngân khoản dồi dào hơn, chính phủ bắt
đầu từng bước nâng lương công chức, một phần để thu hút nhân tài nhằm tăng
hiệu quả hoạt động của chính quyền, một phần giảm thiểu tham vọng tìm cơ hội
tham nhũng của các công chức nhà nước.
1
Một chính đảng trong sạch, một
chính phủ trong sạch luôn tạo dựng được lòng tin cho người dân, và người dân
nhìn chung thường tin tưởng vào một chính đảng hay một chính phủ như vậy.
Một kinh nghiệm quan trọng của PAP là việc lựa chọn những nhà lãnh đạo có
đầy đủ các phẩm chất và năng lực cần thiết để phát triển đất nước. Những tiêu
chuẩn của đảng viên PAP cũng chính là những tố chất cần thiết của một thành
viên chính phủ, và những nguyên tắc dẫn dắt hoạt động của PAP cũng chính là
nguyên tắc làm việc của chính phủ. Nhờ những nguyên tắc ấy, nhân dân đặt
lòng tin vào chính phủ, trung thành với chính phủ mà thực chất là với PAP: kinh
nghiệm đầu tiên có thể thấy được là Đảng Nhân dân hành động do ông Lý
Quang Diệu đứng đầu tập hợp rất nhiều người tài, người có học vấn cao. Là
người lãnh đạo, thì cần phải là người tài. Không có tài thì không thể lãnh đạo
được. Đó là ý kiến của ông Lý Quang Diệu. Bản thân Tổng bí thư Lý Quang Diệu
đã tốt nghiệp ngành luật ở Đại học Cambridge của Anh vào năm 1949 khi ông 26
tuổi. Vị Tổng bí thư thứ hai của PAP, và cũng là vị thủ tướng thứ hai của
Singapore, từ năm 1990 đến năm 2004, là ông Goh Chok Tong, tốt nghiệp Đại
học Williams College – Mỹ với chuyên ngành phát triển kinh tế. Vị Tổng bí thư
thứ ba của PAP, tức là thủ tướng thứ ba hiện nay của Singapore – Lý Hiển Long,

con trai cả của Lý Quang Diệu, sinh năm 1952, cũng đã tốt nghiệp Đại học
Cambridge của Anh về ngành kế toán và công nghệ thông tin. Sau đó, ông Lý
Hiển Long còn học về Hành chính công tại Đại học Harvard – Mỹ. Các đại biểu
Quốc hội của Singapore và các bộ trưởng là người của PAP, đều tốt nghiệp các
trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ví dụ: Phó Thủ tướng Jayakumar, đảng
viên của PAP, phụ trách về an ninh quốc gia tốt nghiệp ngành Luật, Đại học Yale
Law của Mỹ, đây cũng là trường đại học mà vợ chồng Tổng thống Mỹ Bill Clinton
đã học; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao George Yong-Boon Yeo, đảng viên thuộc PAP,
sinh năm 1954, tốt nghiệp Đại học Cambridge – Anh; Bộ trưởng Chánh văn
phòng Nội các Lim Swee Say, sinh năm 1954, đảng viên thuộc PAP, tốt nghiệp
Đại học Loughborough – Anh; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Teo Chee Hean, sinh
1
Singapore là quốc gia trả lương cho nội các chính phủ cao nhất thế giới. Lương của các chính trị gia Singapore
được tính dựa trên mức lương của các giám đốc điều hành và những người có thu nhập cao nhất trong sáu lĩnh vực
bao gồm ngân hàng, kế toán, kỹ sư, luật, sản xuất và đa quốc gia, theo Báo tuổi trẻ, số 5/2012 ngày 5 – 1 - 2012
15
năm 1954, tốt nghiệp Đại học Hoàng gia Imperial College, London – Anh. Quan
điểm của Tổng bí thư Đảng kiêm Thủ tướng Lý Quang Diệu về việc trọng dụng,
thu hút nhân tài đã được những người lãnh đạo PAP thực hiện triệt để và rất có
hiệu quả. “Lãnh đạo xấu sẽ đuổi người tốt, người giỏi, không cho họ giữ những
chức vụ quan trọng”, ông Lý Quang Diệu đã có lần nói như vậy. Nước Singapore
không những tìm và sử dụng người tài trong nước, mà còn thu hút nhân tài từ
nước khác đến. Người tài đến Singapore làm việc, được định cư lâu dài, và
được gia nhập quốc tịch Singapore dễ dàng.
1
Đại đa số trong giới lãnh đạo không phải là một bộ phận của tầng lớp thương
nhân. Họ không bị thúc đẩy bởi lợi nhuận chính đáng, hay thông qua tham
nhũng, hay bổng lộc từ vị trí của họ. Thay vào đó, phần thưởng của họ xuất phát
từ chính việc được tiếp cận quyền lực và niềm tin rằng họ đang làm việc vì đất
nước và vì sự tồn tại lâu dài của nó.

Những người lãnh đạo PAP tỏ ra là những người trong sạch, biết hy sinh đã tạo
nên những tấm gương tốt cho cán bộ, công chức. Đây cũng là những người có
tài năng, bản lĩnh và làm việc rất hiệu quả. Các nhà lãnh đạo Singapore có khả
năng đối ngoại lưu loát, họ thể hiện các nguyên tắc và mục tiêu của họ thông
qua các bài phát biểu, sách xuất bản và các cuộc phỏng vấn. Họ coi chính phủ là
công cụ để thúc đẩy những mục tiêu quốc gia và thừa nhận không có một giới
hạn cố hữu nào trong các mối quan tâm và hành động của chính phủ. Các nhà
lãnh đạo cấp cao thường có khả năng đưa ra những quan điểm dài hạn và ra
các quyết định khó khăn, không được nhiều người ủng hộ để giải quyết những
quan điểm trước mắt hoặc để tránh những vấn đề có thể nảy sinh trong một hai
thập niên tiếp theo. Hạt nhân chính trị lãnh đạo thế hệ thứ hai là những người có
thiên hướng kỹ trị, điều hành và quản lý hơn là các chính trị gia hay những người
môi giới quyền lực.
Một trong những bí quyết thành công của Singapore là biết thu hút và sử dụng
nhân tài không chỉ ở trong nước mà cả người từ nước ngoài. Ở Singapore, mọi
nhân tài đều có cơ hội được bổ nhiệm vào các chức vụ cao thông qua tuyển
chọn công khai và cạnh tranh tự do, trung thực. Singapore lập ra một ủy ban phụ
trách việc chiêu mộ nhân tài để tiến tới thành lập Ủy ban dịch vụ tư vấn chuyên
gia và tuyển dụng chuyên nghiệp thuộc Cục phục vụ công cộng. Đặc biệt còn có
Ủy ban chiêu mộ nhân tài ngoại quốc, chủ yếu nhằm vào những nhân tài người
châu Á, đồng thời đưa ra những chính sách đãi ngộ nhân tài. Các tài năng trẻ
1
Theo www.vietbao.vn ngày 24 – 1 - 2007
16
Singapore được đảm nhiệm những công việc phù hợp với chuyên môn và sở
trường của họ, được hưởng mức lương cao, được cấp nhà ở… Singapore cũng
giáo dục các tài năng trẻ phải ý thức được bổn phận và nghĩa vụ của mình với
người thân, đồng bào và xã hội. Việc thu hút nhân tài như vậy có hai ưu điểm:
thứ nhất, nó làm cho những người có thực tài tham gia vào PAP để khẳng định
mình. Thứ hai, nó là cơ sở để những người dân tin rằng PAP đang được những

người có tài năng lãnh đạo (mà những người có tài thì hẳn phải sáng suốt hơn
và có tầm nhìn hơn những người bình thường).
Lãnh đạo của PAP không cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng
gia nhập Đảng hay các tổ chức do Đảng lãnh đạo, hoặc thay thế các tổ chức
cộng đồng bằng các tổ chức của Đảng. Tuy nhiên, công tác quần chúng luôn
được PAP rất chú ý. Công tác này của PAP được thực hiện thông qua đảng viên,
hệ thống tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội.
PAP thành lập các tổ chức chính trị - xã hội như: Công đoàn Quốc gia Singapore
(National Trade Union Congress – thành lập tháng 9 – 1961), Hiệp hội Nhân dân
Singapore (People’s Association – PA – thành lập tháng 7 – 1960) và đặc biệt là
Ủy ban tư vấn công dân nhằm mở rộng cơ sở quần chúng. Từ năm 1965 đến
nay đã phát triển được 79 khu vực bầu cử của Ủy ban này, đây là kênh quan
trọng của quan hệ song phương giữa trung ương và địa phương, là phương tiện
để liên lạc và kiểm soát chính trị. Các khu vực bầu cử này có nhiệm vụ cung cấp
thông tin, tham gia đóng góp ý kiến vào đường lối chính sách của Đảng.
Các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối giữa đảng cầm quyền và nhân dân trong
việc hậu thuẫn cho chính phủ, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức
của nhân dân. Chính phủ có những hành động thiết thực thường xuyên có thể
thuyết phục được người dân tin vào chính phủ, coi chính phủ là lực lượng quyết
định trong những biến đổi xã hội. Chính phủ liên hệ với các ủy ban dân cư. Các
nghị sĩ Quốc hội cũng liên lạc với cử tri của mình thông qua phòng liên lạc dân
cư. Các nghị sĩ Quốc hội mỗi kỳ hai năm phải đi thăm hết lượt các gia đình trong
khu vực cử tri của mình.
Chủ tịch PAP, Phó Thủ tướng Chính phủ được lựa chọn làm tổng thư ký Công
đoàn. Hàng loạt cán bộ của PAP cũng được lựa chọn vào các cơ quan của Đại
Công đoàn toàn quốc và các công đoàn trực thuộc. Trong số các nhân sĩ chuyên
nghiệp giữ chức ở công đoàn các cấp, nhiều người là nghị sĩ của PAP. Điều này
làm tăng khả năng lãnh đạo công đoàn của PAP. Nhiều nghị sĩ Quốc hội Đảng
Nhân dân hành động, trong đó bao gồm nhiều bộ trưởng nội các đã tham giữ
17

chức cố vấn của công đoàn các cấp. Đại Công đoàn toàn quốc không phải là
công đoàn do PAP lãnh đạo. Nhưng trong các cơ quan, Đại Công đoàn toàn
quốc và các công đoàn trực thuộc không có chỗ nào không có PAP. Công đoàn
trở thành lực lượng ủng hộ chính phủ, đồng nghĩa với chính phủ được đông đảo
công nhân ủng hộ. Nắm được lực lượng công nhân, viên chức là một điều kiện
quan trọng để PAP ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế. Khi đó, uy tín của
PAP ngày càng được nâng cao.
Trong công tác quần chúng, PAP đặc biệt coi trọng xây dựng và giữ gìn quan hệ
hữu nghị giữa các dân tộc, xử lý mối quan hệ dân tộc, sắc tộc để xây dựng môi
trường chính trị ổn định. Chính phủ Singapore nêu cao khẩu hiệu: người
Singapore chân chính, không phân biệt chủng tộc, đều phải đứng dưới là cờ
trung hiếu với Tổ quốc. Lý Quang Diệu đã nêu lên khẩu hiệu: “Chúng ta không
phải là người Mã Lai, không phải người Trung Quốc, không phải là người Ấn Độ,
cũng không phải người châu Âu. Chúng ta không phân biệt ngôn ngữ, dân tộc,
văn hóa, tôn giáo. Mọi người phải đoàn kết lại trở thành người Singapore”. PAP
thực hiện chính sách này bằng việc xây dựng và cung cấp nhà ở cho người dân
với giá rẻ, chăm sóc y tế cộng đồng, tăng chi phí cho giáo dục, đào tạo, các dân
tộc cư trú xen kẽ (theo tỷ lệ tương đối), ưu đãi đối với người Mã Lai, khống chế
nghiêm ngặt các tôn giáo…
d. PAP duy trì phản biện xã hội nhưng kiên quyết ngăn chặn các lực lượng đối
lập
PAP và nhà nước phối hợp đồng bộ, luôn thống trị về tư tưởng, có lúc phải thực
hiện sự đàn áp nhằm giữ vững quyền lãnh đạo trong hệ thống chính trị
Singapore. Giới cầm quyền Singapore luôn quan tâm đến việc tổ chức chính
đảng làm công cụ chính trị bảo đảm việc duy trì và thực hiện quyền lực chính trị,
bên cạnh công cụ bạo lực là quân đội và cảnh sát.
Trên thực tế, kể từ khi hệ thống chính trị của Singapore được thành lập từ năm
1959 đến nay, PAP luôn nắm quyền chi phối chủ yếu. Điều đó được biểu hiện
tập trung nhất trong các cuộc bầu cử Quốc hội từ năm 1968 đến năm 1980, PAP
luôn chiếm tuyệt đối số ghế trong Quốc hội. Do áp lực của xã hội cho rằng cần

có một lực lượng đối lập song song có trách nhiệm và trung thành tồn tại trong
Quốc hội để chế độ chính trị phát triển thành công, nên trong các cuộc bầu cử ở
Singapore, có các đảng đối lập và các ứng cử viên độc lập tham gia. Sau những
năm đầu thập niên 1960, không có đảng nào hay ứng cử viên độc lập nào có cơ
hội để thay thế PAP. Những người ủng hộ các đảng đối lập không trông chờ
18
những đảng này chiến thắng hay thay chỗ trong Chính phủ của PAP. Họ sử dụng
lá phiếu của họ chỉ để thể hiện sự không hài lòng với một số hoặc tất cả các
chính sách của PAP.
Các đảng đối lập trong hệ thống chính trị của Singapore đóng một vai trò khá
quan trọng. Mặc dù chỉ dừng lại ở mục tiêu phá vỡ thế độc quyền của PAP và
nhắc nhở PAP về trách nhiệm phục vụ đất nước của mình, song sự tồn tại của
các đảng đối lập đã góp tiếng nói phản biện chân thực về chính sách phát triển
đất nước của PAP. Thông qua hoạt động của các đảng này, PAP có dịp xem xét
lại , nhận ra những hạn chế trong chính sách của mình, kịp thời điều chỉnh các
chính sách cho phù hợp hơn với sự phát triển của đất nước và nguyện vọng của
người dân. Các đảng đối lập đã giữ cho PAP hoạt động hiệu quả hơn, phù hợp
hơn với xã hội Singapore, tránh được sự chuyên quyền, độc đoán. Đây có thể
coi là một động lực để PAP phải luôn tự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động
của mình.
Tuy nhiên, PAP kiên quyết ngăn chặn các lực lượng đối lập theo nhiều cách thức
khác nhau.
Chính phủ PAP nắm các phương tiện thông tin đại chúng. Theo quy định, Hội
đồng quản trị của các công ty cổ phần báo chí đều phải được chính phủ phê
chuẩn. Tổng biên tập của các báo do chính phủ bổ nhiệm. Các đảng đối lập
muốn lập một tờ báo không dễ vì chính phủ sáp nhập tất cả các xưởng in báo
của toàn quốc làm một với kỹ thuật rất tiên tiến và kiểm soát nội dung đồng thời
quản lý cả việc bán các loại báo.
PAP ngăn chặn việc tuyên truyền có hại cho chính phủ và ổn định chính trị. Các
lãnh tụ của các đảng đối lập, nếu chống đối PAP, sẽ nhanh chóng kết thúc con

đường chính trị của mình. Chế độ kiểm duyệt báo chí, truyền hình nghiêm ngặt,
bảo hộ nội dung thông tin được phát đi không trái với định hướng của PAP.
Các đảng chính trị của Singapore đăng ký hoạt động khá dễ dàng. Song do
nhiều nguyên nhân khác nhau, các đảng này không thể lớn mạnh và phát huy
được ảnh hưởng trong nền chính trị.
Đầu tiên phải kể đến những hạn chế về nguồn tài chính và nhân tài. Rất nhiều
đảng ở Singapore chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, tồn tại trên giấy tờ hoặc chỉ
hoạt động cầm chừng do thiếu nguồn cung cấp tài chính. Chính trị đa nguyên
thực chất là một cuộc cạnh tranh, trong đó, đảng nào nắm giữ nhiều nguồn lực
và có ảnh hưởng mạnh hơn sẽ chiến thắng. Các đảng đối lập không chỉ thiếu
19
kinh phí hoạt động mà còn thiếu cả nhân tài do những người tài đã bị PAP thu
hút hết. Chỉ có gia nhập vào PAP, những người có tham vọng và mục tiêu chính
trị mới có điều kiện phát huy khả năng của mình và thăng tiến.
Thứ hai, các đảng đối lập không có điều kiện để tuyên truyền về đảng của mình
trong điều kiện bình thường lẫn trong các cuộc bầu cử. Trong các cuộc bầu cử,
các đảng sẽ tuyên truyền thông điệp chính trị của mình trên vô tuyến truyền hình,
các cuộc tập hợp có tổ chức, đi diễn thuyết hoặc tổ chức các cuộc họp báo để
đưa thông điệp của đảng đến với người dân. Song với nguồn kinh phí hạn hẹp,
các phương tiện truyền thông nằm trong tay chính phủ (thực chất là trong tay
PAP) và chi phí để xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng quá cao,
nội dung thông tin bị chính phủ kiểm soát, các đảng chính trị đối lập rất khó gây
được ảnh hưởng lớn.
Các đảng đối lập và các nhóm lợi ích sẽ không bị tổn hại trong chừng mực
không đe dọa đến vị trí và vai trò của chế độ cầm quyền. Chính quyền PAP từ
lâu đã sử dụng luật pháp để trừng phạt về mặt kinh tế đối với các cá nhân dám
phát ngôn chống lại sự lãnh đạo chính trị của đất nước.
Có trên 20 đảng đăng ký hoạt động ở Singapore, nhưng tất cả đều bị PAP che
khuất. Trừ giai đoạn cạnh tranh ngắn từ năm 1963 đến năm 1965, thì toàn cảnh
chính trị Singapore là sự độc quyền của PAP. Thêm vào sự cách ly của các đảng

đối lập ở Singapore, là rất ít sự bất bình của công chúng đối với sự nổi trội của
PAP.
4. Một số hạn chế của mô hình PAP
Mọi người phải thừa nhận chính thức cai trị từ trước đến nay của Singapore đã
đưa Singapore vượt qua giai đoạn hiểm nghèo khi mới thành lập. Nó có khả
năng tập trung sức lực quốc gia vào một số mục tiêu nhất định và đạt tới những
mục tiêu đó khá nhanh chóng. Ngoài ra, với số lượng những dịch vụ xã hội được
chính phủ cung cấp, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội không còn ảnh hưởng
là bao. Với một guồng máy trong sạch tối thiểu, mô thức này đã chứng tỏ mức
hiệu quả không thể chối cãi, ít nhất là cho đến nay. Tuy nhiên, mô hình này cũng
có một số hạn chế không thể phủ nhận.
- Hạn chế rõ ràng nhất trong mô hình của PAP là chính trị chỉ được sử dụng
trong những phạm vi rất hẹp do PAP quyết định. PAP và chính phủ quyết định
mọi công việc thay cho dân chúng và dân chúng dần dần phó mặc mọi sự cho
PAP. Một vấn đề dễ nhận thấy đối với Singapore là sự can thiệp quá sâu vào mọi
20
sinh hoạt của đời sống người dân (theo cách này hay cách khác) và tầng lớp trí
thức trẻ nằm ngoài PAP dường như thờ ơ đối với đường hướng của đất nước.
Mối quan tâm lớn của Chính phủ Singapore hiện nay là sự xa cách của đa số
dân chúng với chính phủ và những việc chung, đặc biệt là giới trẻ - giới trẻ
Singapore chỉ tập trung vào việc kiếm tiền và tiêu thụ. Mô hình nói trên của PAP
đã hạn chế tính tích cực chính trị của công dân Singapore với tư cách là một con
người chính trị.
- Một nhược điểm nghiêm trọng nữa của mô hình này là phương thức quyết định
hầu hết những vấn đề hệ trọng của quốc gia (những quyết sách chính trị) phần
lớn nằm đằng sau hậu trường – thay vì để cho công dân cả nước bàn thảo và
quốc hội công khai bỏ thiếu lấy quyết định, thì những vấn đề đó lại được quyết
định trên cơ sở sự móc ngoặt giữa nhà nước và các đại công ty. Trên thực tế,
mô hình tổ chức và vận hành của PAP chỉ có thể góp phần biện minh và càng
làm trầm trọng hơn tình trạng tham nhũng trong bộ máy nhà nước cũng như

trong xã hội (mặc dù Singapore là quốc gia có kinh nghiệm chống tham nhũng).
Các chính phủ ngày nay trên thế giới cần vận hành một cách minh bạch, chứ
không cần ngày càng nhiều các quyết định sau hậu trường đã nêu trên.
- Hạn chế thứ ba trong mô hình PAP là năng lực phản biện xã hội rất thấp: các
thông tin chính sách và các thông tin khác cũng như những tiêu cực của hệ
thống chính trị chưa được biết đến một phần vì tại Singapore hầu như không có
đảng phái đối lập, chưa có một giới truyền thông thực sự độc lập. Trong khi đó,
chính phủ không thấy có nhu cầu cần báo cáo các sai trái “nội bộ” với nhân dân
vì những nhà lãnh đạo PAP đều tự cho rằng mình chính là Singapore và đang
hết lòng lo lắng cho nhân dân. Vì vậy, dân chúng không có quyền yêu sách nhiều
hơn.
Singapore xây dựng một hệ thống đảng đối lập lớn. Một đảng lớn là nhân tố
quan trọng đảm bảo ổn định chính trị - xã hội ở Singapore trong một thời gian
dài. Một đảng lớn ở Singapore đã làm cho những đảng nhỏ yếu không đủ sức để
có thể làm đối trọng của nó. Chế độ một đảng lớn ở nước này khác với chế độ
một đảng truyền thống ở chỗ địa vị của đảng nắm quyền quyết định trong việc họ
giành đa số ghế trong bầu cử.
Singapore sở hữu một văn hóa chính trị đặc biệt, không phù hợp với một cách
phân loại nào của các nhà chính trị học. Nó được tập trung cao độ và mang tính
thống kê. Nó thực dụng, duy lý và tuân thủ pháp luật một cách tuyệt đối. Mặc dù
các cuộc bầu cử được tổ chức thường xuyên, nhưng không bao giờ dẫn đến sự
21
thay đổi quyền lãnh đạo. Và các công dân không trông chờ các chính đảng thay
nhau nắm quyền, hay có một truyền thống tự do dân sự hoặc hạn chế quyền lực
của nhà nước.
PAP là một đảng chính trị thành công trong việc lãnh đạo đất nước. Nằm trong
hệ thống các nước có một đảng nổi trội, Singapore đã tìm ra cho mình một
hướng đi phù hợp với nền dân chủ phương Đông, đồng thời hòa nhập với sự
phát triển chung của thế giới hiện đại. Kinh nghiệm của các đảng chính trị
Singapore nói chung và đặc biệt là đảng cầm quyền PAP là những kinh nghiệm

quý báu mà chúng ta có thể nghiên cứu và tham khảo. Mặc dù những phân tích
ở trên đã chỉ ra rằng mô hình PAP có sức hấp dẫn rất lớn, chúng ta không thể áp
đặt một mô thức từ bên ngoài lên tình hình đặc thù của Việt Nam mà chỉ gạn lọc
những giá trị đúng đắn cho từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Tóm lại, hệ thống chính trị Singapore là hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng
với một đảng nổi trội có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống chính trị. Một
mảng lớn là nhân tố quan trọng bảo đảm ổn định chính trị - xã hội ở Singapore
trong một thời gian dài. Chế độ một đảng lớn ở nước này khác với chế độ một
đảng truyền thống ở chỗ địa vị của đảng nắm quyền quyết định trong việc họ
giành đa số ghế trong bầu cử. Mặc dù các đảng còn lại không có vị trí quyết định
đến quyết sách chính trị của quốc gia nhưng lại là kênh thông tin phản biện và
giám sát hoạt động của đảng cầm quyền.
PAP là một đảng chính trị thành công trong việc lãnh đạo đất nước. Mặc dù là
đảng nắm quyền điều hành đất nước trong một thời gian dài nhưng PAP vẫn
luôn lớn mạnh và luôn luôn thay đổi để đáp ứng với những sự biến chuyển của
tình hình trong nước và quốc tế. Nguyên nhân thành công của PAP nằm ở chính
năng lực tổ chức, điều hành đất nước, ở đội ngũ các nhà lãnh đạo của họ luôn
được lựa chọn một cách thực sự dân chủ, thực sự tinh hoa và là đại diện xứng
đáng của đảng và đất nước Singapore. PAP luôn xem xét nghiêm túc những
phản hồi các đảng đối lập để kịp thời điều chỉnh chiến lược và có phương pháp
lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội hợp lý và hiệu quả cao nhất. Với sự hoạt
động có hiệu quả của hệ thống chính trị mà quan trọng là của các đảng chính trị
với vai trò của một đảng nổi trội cầm quyền, Singapore đã tìm ra cho mình một
hướng đi phù hợp với nền dân chủ phương Đông, đồng thời hòa nhập với sự
phát triển chung của thế giới hiện đại. Kinh nghiệm của các đảng chính trị
Singapore nói chung và đặc biệt là đảng cầm quyền PAP là những kinh nghiệm
quý báu mà chúng ta có thể nghiên cứu và tham khảo.
22
II. HIẾN PHÁP SINGAPORE VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG
HIẾN PHÁP SINGAPORE

1
1. Bối cảnh ra đời hiến pháp hiện hành
Hiến pháp là một từ xa lạ đối với Singapore cách đây ba thế kỷ. Song đến nay,
hiến pháp được xem là biểu tượng chính trị - pháp lý của Nhà nước. Hiến pháp
Singapore ra đời gắn liền với lịch sử phát triển thăng trầm của xã hội và Nhà
nước Singapore. Trước thế kỷ XIV, Singapore được biết đến dưới tên gọi là
Temasek (“Thành phố Biển”) và là một bộ phận của đế quốc hùng mạnh Sri
Vijayan. Vào thế kỷ XIV, hòn đảo nhỏ nhưng có vị trí chiến lược này được mang
cái tên mới là “Singa Pura” (“Thành phố Sư tử”). Tên Singapore xuất phát từ
Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng Mã Lai), vốn được lấy từ nguồn gốc
của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Theo truyền thuyết, vị hoàng
tử Sang Nila Utama nhìn thấy một con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn
đảo và do đó đặt tên cho hòn đảo này là Thành phố Sư tử (Singapura). Đến năm
1819, Singapore thuộc sở hữu của Quốc vương Johore. Năm 1824 theo Hiệp
định hữu nghị và hợp tác giữa Anh và Johore, Singapore được nhượng cho Anh.
Nhà cầm quyền đầu tiên của Singapore là Stamford Raffles đã thiết lập
Singapore đã thiết lập Singapore trở thành một trung tâm thương mại. Chính
sách thương mại tự do đã thu hút các thương nhân đến từ các quốc gia trong
khu vực châu Á và từ các nơi xa xôi như Hoa Kỳ và Trung Đông. Chỉ 5 năm sau
khi sáng lập đất nước Singapore hiện đại, số dân của Singapore với chỉ vài trăm
ngư dân Malay và người Hoa đã tăng lên đến 10, 000 người. Vào năm 1832,
Singapore trở thành chính quyền trung ương của những thuộc địa ở các eo biển
Penang, Malacca và Singapore. Sự kiện khánh thành kênh đào Suez vào năm
1869 cùng với sự xuất hiện của nhà máy điện báo và tàu hơi nước đã nâng tầm
quan trọng của Singapore lên như là một trung tâm phát triển thương mại giữa
các quốc gia phương Đông và phương Tây. Singapore trở thành hiện trường của
những trận chiến quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và được xem là
pháo đài bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, Singapore đã bị quân đội Nhật chiếm
đóng vào năm 1942. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore vẫn là thuộc địa
của Vương quốc Anh. Sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc đã giúp Singapore

giành được quyền tự trị vào năm 1959, trở thành một quốc gia độc lập trong
Khối thịnh vượng chung. Trong những năm 1963 – 1965, Singapore là một bang
1
Theo TS. Trương Thị Hồng Hà (Viện Nhà nước và Pháp luật – Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh).
23
trong Liên bang Malaysia. Do những khác biệt lớn về chính trị, Singapore tách ra
khỏi Liên bang từ ngày 9 tháng 8 năm 1965 trở thành một nước Cộng hòa độc
lập.
Singapore theo Hiến pháp 1963 là nước Cộng hòa nghị viện với chế độ chính trị
cực quyền. Từ lúc tuyên bố độc lập đến nay, Đảng Nhân dân hành động liên tục
cầm quyền.
Trong lịch sử, Singapore đã bị nhiều đế quốc đô hộ: Bồ Đào Nha (đầu thế kỷ XVI
đến cuối thế kỷ XVII); Hà Lan (đầu thế kỷ XVII đến năm 1819); năm 1819, Anh
giành lại quyền khai thác Singapore. Từ năm 1824, Singapore trở thành thuộc
địa của Anh. Từ đó, Anh dùng Singapore làm cửa biển buôn bán, chuyển khẩu
quan trọng ở Viễn Đông và là căn cứ quân sự chủ yếu của Anh ở Đông Nam Á.
Nhật Bản chiếm đóng Singapore từ năm 1942 đến năm 1945. Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, Anh trở lại chiếm Singapore. Trước phong trào đấu tranh của
quần chúng nhân dân Singapore, nhà đương cục Anh sau ba lần đàm phán với
đại diện của chính đảng của Singapore đã phải đồng ý cho Singapore thành lập
bang tự trị vào ngày 3 tháng 6 năm 1959. Tuy nhiên, Singapore chỉ được tự trị về
đối nội, còn Anh vẫn nắm giữ các hoạt động về quốc phòng và ngoại giao.
- Ngày 16 tháng 9 năm 1963, Singapore gia nhập Liên bang Malaysia.
- Ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore tách khỏi Malaysia và thành lập nước
Cộng hòa độc lập.
- Ngày 21 tháng 9 năm 1965, Singapore gia nhập Liên Hợp Quốc.
Hiến pháp của Singapore là đạo luật tối cao của Nhà nước Singapore. Nó có lịch
sử phát triển hết sức đặc biệt, phù hợp với lịch sử phát triển của đất nước, đồng
thời tạo cơ sở pháp lý của nhà nước, công dân và xã hội phát triển một cách

toàn diện.
Năm 1946, sau khi kết thúc sự chiếm đóng của Nhật Bản tại Singapore, các khu
định cư Straits đã được giải thể và Singapore đã trở thành một thuộc địa riêng
biệt. Bản Hiến pháp của nhà nước thuộc địa này được thông qua.
Năm 1955, Hiến pháp Rendel, được đề xuất lần đầu vào năm 1953 có hiệu lực.
Bản Hiến pháp này có quy định nhiều quyền lực cho người dân địa phương
nhằm thiết lập quyền lực của nhân dân với chính quyền trung ương. Song thực
tiễn chính quyền thuộc địa vẫn được tổ chức trong các cơ quan trên toàn lãnh
thổ.
24
Năm 1958, sau khi Lim Yew Hock đàm phán thành công với Chính phủ Anh,
Nghị viện Anh đã thông qua Đạo luật Nhà nước (Hiến pháp) và tình trạng của
Singapore. Singapore đã được thay đổi từ thuộc địa để trở thành một nhà nước
có tư cách và vị trí pháp lý tương đối độc lập.
Năm 1963, Singapore gia nhập Liên bang Malaysia. Hiến pháp năm 1963 được
ban hành.
Năm 1965, Singapore đã được tách ra từ Malaysia, thực hiện theo ba văn bản:
Hiến pháp của Malaysia (Singapore sửa đổi), Hiến pháp của Singapore (sửa đổi)
và Đạo luật Cộng hòa Singapore độc lập năm 1965 được thông qua.
Năm 1970, để bảo vệ các quyền của ngôn ngữ và tôn giáo thiểu số về chủng tộc
, Hội đồng Tổng thống được thành lập và sau đó đổi tên thành Hội đồng trực
thuộc Tổng thống về quyền thiểu số (Presidential Council for Minority Rights) từ
năm 1973.
Năm 1984, một sửa đổi hiến pháp được thông qua để quy định về thành viên
của Nghị viện có thể không do bầu cử.
Năm 1988, một sửa đổi hiến pháp được thông qua để giới thiệu bầu cử đại diện
nhóm (GRCs). Ít nhất một thành viên của GRC phải được lựa chọn từ một cuộc
đua thiểu số.
Năm 1988, hiến pháp đã được sửa đổi để quy định chế định cho các thành viên
đề cử của Quốc hội.

Năm 1991, hiến pháp đã được sửa đổi để quy định chế định cho việc công dân
bầu chủ tịch.
2. Tổng quan các chế định trong Hiến pháp Singapore
Hiến pháp của Singapore bao gồm 14 phần: từ phần sơ bộ đến phần những quy
định chuyển tiếp. Trong đó các chế định được sắp xếp theo trình tự như sau:
Chế định chế độ và chính thể; Bảo vệ chủ quyền của nước Cộng hòa Singapore;
Quyền tự do cơ bản; Chính phủ; Cơ quan lập pháp; Hội đồng trực thuộc Tổng
thống về quyền thiểu số; Cơ quan tư pháp; Dịch vụ công cộng; Quốc tịch; Quy
định tài chính; Các quyền đặc biệt chống âm mưu lật đổ và các quyền trong
trường hợp khẩn cấp; Những quy định chung, các điều khoản chuyển đổi.
25

×