Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.09 KB, 24 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
LỚP QUỐC TẾ HỌC 3B – NHÓM 5
Ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XX
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Thanh Thanh
N
25
Lời nói đầu
Để giữ vững chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nền độc lập, thống nhất nước nhà thì ở bất kỳ
quốc gia nào, chủ trương, phương pháp, chiến lược ngoại giao luôn đóng một vai trò hết
sức quan trọng. Để có được nền độc lập như hôm nay, Đảng và Nhà nước, nhân dân ta
ngoài sự chiến đấu ngoan cường, mạnh mẽ trước kẻ thù xâm lược, còn hoạch định ra
những đường hướng ngoại giao hợp lý, biết người biết ta để phân hóa, cô lập kẻ thù. Và
mặt trận ngoại giao – một mặt trận không tiếng súng đã là một phần quan trọng trong lá
chắn bảo vệ Tổ quốc.
Nền ngoại giao thế kỷ XX mang đậm dấu ấn sâu sắc của những chủ trương, phương
pháp, chiến lược ngoại giao thông minh, hợp tình, hợp lý của Đảng và Nhà nước ta được
thể hiện rõ ràng nhất trong 3 bản Hiệp định: Hiệp định Sơ bộ, Hiệp định Genève và
Paris. Những tinh hoa, nghệ thuật ngoại giao đã được nước ta kế thừa, tích lũy và phát
huy cao độ trong 3 bản Hiệp định này và chắn chắn sẽ tiếp tục được rèn giũa, đúc kết,
cải tiến cho phù hợp với thời đại hơn nữa.
Nhóm 5 được phân công nghiên cứu những chủ trương, phương pháp chiến lược ngoại
giao trong 3 bản Hiệp định quan trọng trên của nước ta vào thế kỷ XX. Chúng tôi nhận
thấy đây là một vấn đề rất thời sự, hấp dẫn và có tính thực tiễn cao trong thời đại mới
của nước ta – thời đại hội nhập quốc tế với những chuyển biến sâu sắc, quan trọng trong
sự kết nối các quốc gia với nhau và Việt Nam là một bộ phận hữu cơ trong mắt xích quan
hệ đó. Do vậy, tìm hiểu nội dung, giá trị của 3 bản Hiệp định trong việc thể hiệ chủ
trương, chiến lược cũng như phương pháp ngoại giao là tối quan trọng trong việc học
tập bộ môn Quốc tế học.
Mặc dù đã cố gắng hết sức trong việc nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, phân tích các


nguồn tài liệu để có được bài thu hoạch tốt nhất, song những sai sót là điều khó tránh
khỏi. Nhóm 5 rất mong nhận được những sự đóng góp chân tình, mang tính xây dựng từ
Cô và các bạn.
Nhóm 5 xin chân thành cảm ơn.
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Phần nội dung
I. Những nội dung cơ bản của Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định
Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973
1. Hiệp định Sơ bộ
a. Hoàn cảnh ký kết
Vừa mới giành được độc lập vào năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại đối mặt
với muôn vàn khó khăn thử thách, thù trong giặc ngoài là nguy cơ đe dọa nền độc lập vừa
mới giành được của chính quyền non trẻ này. Ngày 23/9/1945, Pháp tái chiếm Nam Bộ
và âm mưu tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền nhân dân của ta. Trước tình thế nguy nan
này, Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được ký kết là một bước đi phù hợp với sách lược của
chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa lúc bấy giờ.
1
Theo Hiệp ước Postdam năm 1945 sau khi chiến tranh thế giới II kết thúc, các nước
Đồng Minh sẽ tiến hành vào giải giáp quân đội của các nước phát xít tại các thuộc địa bị
chúng chiếm đóng. Tại Việt Nam, sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công trên cả
nước, Việt Nam đã giành lại được độc lập từ tay đế quốc Nhật. Như vậy, theo tinh thần
Hiệp ước Postdam trước đó, tại miền Bắc nước ta quân Tưởng sẽ vào giải giáp quân đội
Nhật, tương tự tại miền Nam là quân Anh.
Sau độc lập, chính quyền non trẻ của nước VNDCCH được thành lập và lập tức bắt tay
vào việc giải quyết những khó khăn trước mắt, vấn đề xây dựng và cũng cố chính quyền
nhân dân, giệt giặc đói giặc dốt được khẩn trương thực hiện; bên cạnh đó, việc từng bước
theo dõi và đối phó với âm mưu của Tưởng và Pháp cũng là một vấn đề quan trọng.
Sau khi tái chiếm được miền Nam, thực dân Pháp đã có ý định chiếm luôn miền Bắc,
nhưng trở ngại lớn nhất của chúng là vấp phải một lực lượng kháng chiến mạnh của

chính quyền VNDCCH (ở miền Nam thực dân Pháp vẫn chưa thể dập tắt được phong
trào kháng chiến của nhân dân ta), đồng thời chúng phải đối mặt với 20 vạn quân Tưởng
đang giải giáp quân đội Nhật tại đây.
Tại Trung Quốc, lực lượng quân cách mạng đang tấn công quân Tưởng trên khắp nhiều
nơi trong cả nước, tình thế buộc quân Tưởng phải rút quân tại Bắc Đông Dương về để
cũng cố lực lượng. Tại miền Bắc Việt Nam, mặc dù chình quyền mới thành lập đang gặp
phải nhiều thử thách lớn, nhưng tinh thần chiến đấu lúc nào cũng rất cao. Nhận thấy được
1
Theo trang báo sinh viên Đại học An Giang />Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
tình hình lúc này, chính phủ Pháp quyết định dùng giải pháp chính trị, thương lượng với
quân Tưởng và tìm cách điều đình với chính phủ VNDCCH để quân Pháp đưa quân ra
miền Bắc trong “hòa bình”.
Tại Việt Nam, vào tháng 2/1946, chính phủ Pháp do Jeans Sainteny làm đại diện đã xúc
tiến việc đàm phán với chính phủ ta. Cuộc gặp gỡ diễn ra giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Sainteny vào ngày 25/2/1946 vẫn chưa đạt được kết quả khi lập trường giữa ta và Pháp
chưa đồng nhất. Phía ta, Hồ Chủ tịch luôn nêu cao tinh thần độc lập và hợp tác với Pháp,
nhưng ngược lại chúng chỉ muốn biến nước ta thành lãnh thổ tự trị lệ thuộc Pháp.
Trong khi đó, sau cuộc gặp gỡ tại Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng đã đi đến kết quả
cuối cùng. Sự kiện này hoàn toàn đúng với nhận định ban đầu của Ban thường vụ Trung
ương Đảng khi Pháp muốn đưa quân ra miền Bắc thông qua giải Pháp chính trị: “Trước
sau Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp miễn là Pháp nhượng
cho tưởng nhiều quyền lợi quan trọng”
Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Trùng Khánh giữa Pháp và Trung Hoa đã được ký kết với
những điểm chính sau:
- Quân đội Tưởng rút về nước, vấn đề giải giáp quân Nhật tại Đông Dương sẽ do Pháp
đảm nhận.
- Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Hoa.
- Pháp sẽ nhượng cho Tưởng một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như cho Tưởng
khai thác một đặc khu tại cảng Hải Phòng, miễn thuế cho hàng hóa của Tưởng vận

chuyển sang miền Bắc Việt Nam.
Như vậy, Hiệp ước Trùng Khánh là một sự chà đạp, xúc phạm đối với quyền độc lập dân
tộc của nước ta lúc bây giờ, đi ngược lại tinh thần của công ước Liên Hiệp Quốc đã được
hơn 50 quốc gia ký kết trước đó.
Đứng trước tình thế do Pháp đặt ra vào lúc này, Việt Nam phải chọn một trong hai
phương án: đánh hoặc hòa hoãn với chúng.
Nếu chọn phương án chiến đấu với Pháp, ta sẽ gặp nhiều bất lợi lớn như bọn phản động
trong nước vẫn còn nguyên âm mưu chia rẽ chính quyền cách mạng của ta, chênh lệch về
lực lượng giữa ta và địch, vấn đề thiếu thốn lương thực, các lực lượng dân chủ trên thế
giới chưa thể giúp chúng ta… Nếu hòa hoãn, nhân nhượng cho Pháp, ta sẽ đứng trước
nguy cơ bị chúng bội ước khi chúng có đủ thời gian để cũng cố lại lực lượng…. Nhưng
đây là phương án khả thi nhất đối với hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ.
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Cuối cùng, sau cuộc họp của Ban thường vụ Trung ương Đảng do Hồ Chủ tịch chủ trì đã
thống nhất chọn giải pháp “hòa để tiến”. Đây là một sách lược ngoại giao khôn khéo,
đúng đắn của Đảng ta, phù hợp với xu thế thời đại lúc bấy giờ. Hòa với Pháp, ta sẽ thoát
khỏi tình cảnh cùng một lúc đối phó với hai kẻ thù; hòa với Pháp, ta sẽ tranh thủ được
thời gian để chuẩn bị lượng, xây dựng vững chắc chính quyền, chờ đợi thời cơ để tiến lên
giành thắng lợi cuối cùng.
Tuy chọn hòa hoàn với Pháp, nhưng phía ta phải kiên quyết giữ vững lập trường của
mình là độc lập, nhưng đồng thời phải khéo léo để “Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự
quyết của dân ta: chính phủ, quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao… và sự thống nhất
quốc gia của ta.”
Cuộc đàm phán giữa ta và Pháp diễn ra gay go và căng thẳng, để đạt thống nhất giữa hai
bên về các điều khoản trong Hiệp định là sự cố gắng và quyết tâm rất lớn của ta. Pháp
buộc nước ta phải nằm trong Liên hiệp Pháp với “thân phận” là một quốc gia tự trị,
nhưng phía ta kiên quyết đưa hai chữ “tự trị” ra khỏi Hiệp định vì điều này vi phạm đến
“quyền được hưởng tự do độc lập” của dân tộc ta.
Trong thời gian và tình thế rất khẩn trương, cuối cùng thì giữa hai bên đã thống nhất

được những điều khoản quan trọng và đi đến ký kết. Vào lúc 16 giờ ngày 6/3/1946, tại
ngôi nhà số 38 Lý Thái Tổ, đại diện của chính phủ ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ
Hồng Khanh đã ký với chính phủ Pháp do Jeans Sainteny bản Hiệp định sơ bộ dưới sự
chứng kiến của nhiều quốc gia khác như Mĩ, Anh, Trung Hoa…
2
b. Nội dung
16 giờ 30 phút chiều ngày 6-3-1946, Lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ Pháp - Việt đã diễn ra tại
nhà số 38 phố Lý Thái Tổ, Hà Nội. Nội dung Hiệp định Sơ bộ có những điểm đáng chú ý
như sau:
- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do
trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện,
quân đội và tài chính riêng.
- Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc
thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân
Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân.
- Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc thống nhất với Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
2
Lê Mậu Hãn, Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục 2010
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
- Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời để đàm phán về
chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
3
c. Ý nghĩa của Hiệp định Sơ bộ
- Làm thất bại âm mưu thâm độc của bọn Tưởng và tay sai, tránh được tình thế bất lợi
cùng một lúc chống lại nhiều kẻ thù.
- Ta mượn bàn tay quân Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng về nước mà không phí một viên
đạn nào.

- Buộc Chính phủ Pháp phải công nhận trên pháp lý Việt Nam là một quốc gia tự do.
- Kéo dài thêm một thời gian hòa bình quý báu để xây dựng lực lượng, chuẩn bị cuộc
kháng chiến mà ta biết rằng sẽ không tránh khỏi.
- Thể hiện thiện chí hòa bình của ta, tranh thủ thêm sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến
bộ trên thế giới.
4
2. Hiệp định Genève
a. Hoàn cảnh ký kết
Đông Xuân 1953 - 1954 ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao.
Tháng 1/1954 Ngoại trưởng trưởng 4 nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp đã quyết định triệu
tập Hội nghị Giơnevơ để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Hiệp định Genèva về đình chiến sự ở Việt Nam được ký tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày
20/7/1954. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên, với sự tham dự của 5 cường quốc thế giới,
tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam
cùng hai nước Lào và Cambodia.
b. Nội dung của Hiệp định
Hội nghị Geneva trải qua 75 ngày với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24
phiên họp cấp Trưởng đoàn. Hội nghị thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (từ 8/5/1954 đến 19/6/1954)
3
Theo trang web của Quốc hội Việt Nam />4
Theo www.vietbao.vn
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Ngoài việc trao đổi chương trình nghị sự, các Đoàn trình bày lập trường của mình về giải
pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu yêu cầu
phải có đại diện kháng chiến Lào và Campuchia tham dự. Ngày 10/5/1954, ông Phạm
Văn Đồng phát biểu, đưa ra lập trường 8 điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là giải
quyết đồng thời cả hai vấn đề quân sự và chính trị, giải quyết đồng thời cả ba vấn đề Việt

Nam, Lào, Campuchia. Ông Phạm Văn Đồng nhấn mạnh, Pháp phải thừa nhận quyền dân
tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Campuchia, Lào. Quân đội nước ngoài phải rút khỏi
ba nước Đông Dương là cơ sở quan trọng nhất cho chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Đông Dương. Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam.
Ngày 25/5/1954, trong phiên họp hẹp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra 2 nguyên tắc
cho vấn đề đình chiến: (1) Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn cõi Đông Dương, (2) Điều
chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở đất đổi đất để mỗi bên có
những vùng hoàn chỉnh tương đối rộng lớn thuận lợi cho quản lý hành chính và hoạt
động kinh tế. Đại diện các bộ tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại chỗ những biện pháp
ngừng bắn để chuyển tới Hội nghị xem xét và thông qua.
Ngày 27/5/1954, Đoàn Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm cơ
sở thảo luận về đề nghị đại diện của hai Bộ Tư lệnh gặp nhau ở Geneva để nghiên cứu
việc chia ranh giới những khu vực tập trung quân ở Đông Dương. Cùng ngày, Đoàn
Trung Quốc đưa ra 6 điểm về vấn đề quân sự như ngừng bắn hoàn toàn và cùng một lúc ở
ba nước Đông Dương, thành lập Ủy ban kiểm soát quốc tế gồm các nước trung lập nhưng
chưa đề cập tới mặt chính trị của giải pháp.
Ngày 29/5/1954, sau 4 phiên họp toàn thể và 8 phiên họp cấp Trưởng đoàn, Hội nghị
Geneva ra quyết định: (1) Ngừng bắn toàn diện và đồng thời, (2) Đại diện hai Bộ Tư lệnh
gặp nhau ở Geneva để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến bắt đầu bằng
phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.
Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 đến 10/7/1954)
Trong giai đoạn này, hầu hết Trưởng đoàn các nước về báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng ở lại. Các quyền Trưởng đoàn tổ chức các cuộc
họp hẹp và họp tiểu ban quân sự Việt – Pháp. Các cuộc họp chủ yếu bàn các vấn đề tập
kết, chuyển quân, thả tù binh, đi lại giữa hai miền.
5
5
Theo bài báo Hiệp định Geneva, văn kiện ngoại giao lịch sử, />Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Tuy nhiên, các cuộc họp hẹp ở Geneva trong giai đoạn này không có tiến triển gì đáng

kể.
Giai đoạn 3 (từ 11 đến 21/7/1954): Nối lại các cuộc đàm phán cấp Bộ trưởng.
Trong 10 ngày cuối của Hội nghị Geneva đã diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi tay đôi,
tay ba hoặc nhiều bên giữa các Trưởng đoàn. Các phiên họp chủ yếu thông qua các văn
kiện, kể các điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội
nghị.
Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn Pháp đàm phán rất gay go về phân chia vĩ
tuyến (Đoàn ta nêu vĩ tuyến 16 vì ta muốn làm chủ đường 9 về Savanakhet đi Quảng Trị
là con đường duy nhất cho Lào đi ra biển, Đoàn Pháp nêu vĩ tuyến 18); về thời hạn tổ
chức tổng tuyển cử và các điều khác của Hiệp định, đặc biệt là Hiệp định về Campuchia
phải ký vào sáng 21/7/1954.
Ngày 21/7/1954, Hội nghị Geneva về hòa bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia kết thúc.
Hội nghị thông qua các văn kiện.
* Các văn bản được ký kết tại Hội nghị
- Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia;
- Một bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị;
- Hai bản tuyên bố riêng của Đoàn Mỹ và Đoàn Pháp ngày 21/7/1954;
- Các công hàm trao đổi giữa Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tướng
Pháp Mendes France.
* Những thỏa thuận đạt được tại Hội nghị
Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:
- Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn viện lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc
nội bộ của mỗi nước.
- Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.
- Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và
Campuchia.
- Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài.
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25

- Tổng tuyển cử ở mỗi nước.
- Không trả thù những người hợp tác với đối phương.
- Trao trả tù binh và người bị giam giữ.
- Thành lập Ủy ban liên hợp kiểm soát và giám sát quốc tế.
· Thỏa thuận riêng với mỗi nước, trong đó, các Hiệp định liên quan đến Việt Nam
Gồm 4 nội dung chính:
- Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển
quân được hai bên thực hiện trong thời gian 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù
binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.
- Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự
tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân
sự tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân
sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân
sự mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi
miền để phục vụ một chính sách quân sự nào.
- Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, Hiệp thương
hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử tháng 7/1956, tự do chọn vùng sinh sống trong
khi chờ đợi, không khủng bổ, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác
với đối phương trong thời gian chiến tranh.
- Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên
hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.
Việc ký Hiệp định này là một dấu mốc quan trọng, một thắng lợi trong công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, mở ra giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam
tiến tới hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
6
6
Theo bài báo Hiệp định Geneva: Thắng lợi to lớn của ngoại giao Việt Nam />Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
c. Ý nghĩa của Hiệp định Genève
Hiệp định là văn bản pháp lí quốc tế, ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của 3 nước Đông

Dương. Hiệp định đã đánh dấu thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân ta, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Hiệp định cũng buộc Pháp chấm dứt chiến tranh,
rút quân về nước. Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng quốc tế hóa chiến tranh
xâm lược Đông Dương.
3. Hiệp định Paris
a. Hoàn cảnh
Đầu năm 1967, sau thắng lợi trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, ta chủ
trương mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao. Mục tiêu ngoại giao trước mắt là đòi Mĩ
chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, coi đó là điều kiện để đi đến
thương lượng ở bàn hội nghị.
Năm 1968, sau Mậu Thân 1968 và thắng lợi của ta trong chiến tranh phá hoại II, Mỹ phải
thương lượng với tatừ 13/5/1968 (Từ 25/1/1969, giữa 4 bên gồm Mỹ + Việt Nam Cộng
hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa + Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam).
Sau nhiều cuộc tiếp xúc, lập trường hai bên quá xa nhau: Việt Nam đòi Mỹ và đồng minh
rút quân, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam.
Ngược lại, Mỹ đòi miền Bắc rút quân và từ chối ký dự thảo Hiệp định dù đã thỏa thuận
(10/1972). Tháng 12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà
Nội và Hải Phòng trong 12 ngày đêm. Việt Nam đập tan cuộc tập kích bằng không quân
của Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải trở lại ký Hiệp định
Pari. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết
giữa 4 Bộ trưởng đại diện các Chính phủ tham dự hội nghị.
Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành nghiêm chỉnh ở những điều khoản rút quân
Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực sự muốn rút
khỏi cuộc chiến và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.
7
b. Nội dung chính
Nội dung hiệp định được chia thành chín "chương", nói về các chủ đề về cơ bản giống
như trong bản dự thảo 9 điểm mà Hoa Kỳ và Việt nam Dân chủ Cộng hoà đã thống nhất
với nhau vào tháng 10 năm 1972. Đó là
7

Theo www.dantri.com.vn
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
- Hoa Kỳ tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như được công
nhận bởi hiệp định Geneva.
- Ngừng bắn trên toàn Việt Nam sẽ bắt đầu từ 27 tháng 1 năm 1973: với tất cả các đơn vị
quân sự ở nguyên vị trí. Mọi tranh chấp về quyền kiểm soát lãnh thổ sẽ được giải quyết
bởi uỷ ban quân sự liên hợp giữa hai lực lượng của Việt Nam Cộng hòa và Việt Cộng.
Trong vòng 60 ngày, sẽ có cuộc rút lui hoàn toàn của quân đội Mỹ và đồng minh cùng
các nhân viên quân sự Mỹ ra khỏi Việt Nam Cộng hòa. Các bên không được tăng cường
binh lính, nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược hoặc vật liệu chiến tranh vào Nam Việt
Nam, trong trường hợp để thay thế thì phải theo nguyên tắc một-đổi-một. Hoa Kỳ sẽ
không tiếp tục can thiệp quân sự vào "các vấn đề nội bộ" của Nam Việt Nam.
- Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Các bên tạo
điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai vùng. Nhân dân Nam Việt Nam sẽ
quyết định tương lai chính trị của mình qua "tổng tuyển cử tự do và dân chủ dưới sự giám
sát quốc tế".
- Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
- Để giám sát việc thực hiện hiệp định, một uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế và phái
đoàn quân sự liên hợp bốn bên (gồm Bắc Việt, Hoa Kỳ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà) sẽ được thành lập.
- Lào và Campuchia giữ vị trí trung lập và tự chủ, không cho nước ngoài được phép giữ
các căn cứ quân sự trong lãnh thổ của hai nước này.
- Hoa Kỳ có nghĩa vụ sẽ giúp đỡ việc tái thiết sau chiến tranh, đặc biệt là ở Bắc Việt Nam
và trên toàn Đông Dương, để hàn gắn các thiệt hại do chiến tranh.
- Tất cả các bên đồng ý thi hành hiệp định. Và hiệp định được sự bảo trợ của quốc tế
thông qua việc các quốc gia ký nghị định thư quốc tế về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà
bình ở Việt nam.
c. Ý nghĩa hiệp định Paris
Hiệp định Paris là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao,

là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta trên cả 2 miền đất
nước. Hiệp định đã mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt Nam, tạo thời cơ thuận lợi
để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
II. Những nghệ thuật ngoại giao được sử dụng trong các Hiệp định Sơ bộ, Hiệp định
Geneva, Hiệp định Paris
1. Chủ trương ngoại giao trọng hòa hiếu, tránh xung đột
Trọng hòa hiếu, tránh xung đột là tôn trọng các mối quan hệ hòa bình hữu nghị giữa nước
ta và các nước khác trên thế giới, hạn chế tính trạng xung đột ngoại giao và quân sự, đặt
việc giữ gìn chủ quyền lãnh thổ lên trên hết.
Trong Hiệp định Genève
Thiện chí, tư tưởng yêu chuộng hòa bình, phương châm hoà hiếu trong xử lý các mối
quan hệ quốc tế vốn đã trở thành truyền thống và bản sắc của dân tộc Việt Nam đã được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh biến thành nền tảng cơ sở, tạo thành con đường đưa
đến Hội nghị và Hiệp định Genève năm 1954.
Những chuyển biến trong tình hình thế giới đầu những năm 50, đặc biệt là trong quan hệ
giữa các nước lớn, cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và ý đồ của Mỹ lợi dụng sự suy yếu của
Pháp để tăng cường dính líu và can thiệp vào Đông Dương đã tác động mạnh mẽ đến
chiều hướng diễn biến của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Năm 1953, Liên Xô đưa ra
sáng kiến triệu tập Hội nghị 5 nước lớn (Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ và Pháp) để tìm
giải pháp giảm căng thẳng ở Đông Dương. Tháng 2/1954, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
các nước: Liên Xô, Anh, Pháp và Mỹ họp tại Béc-lin đã quyết định triệu tập Hội nghị
Genève với sự tham gia của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào tháng 4/1954 để giải
quyết hòa bình ở Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ý tưởng triệu tập Hội nghị Genève về lập lại hòa bình ở Đông Dương được Liên Xô đưa
ra còn trước cả thời điểm thực dân Pháp tiến hành xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ.
Nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ lại là nhân tố quyết định đối với diễn biến và kết quả
của Hội nghị Genève năm 1954. Với Hội nghị Gienève năm 1954, ngoại giao Việt Nam
với điểm tựa là thắng lợi quân sự trên chiến trường, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên

Phủ, để tìm cách chấm dứt cuộc chiến tranh một cách có lợi nhất và vào thời điểm thuận
lợi nhất cho đất nước, đồng thời phát huy tác động và ý nghĩa quốc tế của thắng lợi trên
chiến trường. Hội nghị Genève là một cuộc đấu tranh ngoại giao gay go và phức tạp,
cuộc đấu trí ngoại giao đầu tiên của chúng ta với đồng thời nhiều nền ngoại giao lớn trên
thế giới.
Đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị đã tỏ rõ bản lĩnh của những người có chính nghĩa,
đã luôn kiên trì và tỉnh táo, tự chủ và linh hoạt, chủ động tấn công và đề cao thiện chí,
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
chính nghĩa để bảo vệ lợi ích của đất nước. Với Hội nghị Genève, ngoại giao Việt Nam
đã chính thức bước ra với thế giới ngoại giao đa phương và ngoại giao Việt Nam như
được chắp thêm cánh, tiếp thêm lực để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân tin tưởng giao phó. Hội nghị Genève đã làm cho vai trò của Việt Nam
nổi bật trên diễn đàn quốc tế và xác lập vị thế quốc tế của Việt Nam.
Kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh ngoại giao ấy là Hiệp định Genève về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam,
Lào và Cambodia ký ngày 21/7/1954 và Tuyên bố của Hội nghị tạo thành khung pháp lý
của Hiệp định Genève về Đông Dương, đồng thời cũng là những văn kiện pháp lý quốc tế
đa phương đầu tiên của nước ta. Những văn kiện pháp lý tạo thành Hiệp định Genève là
sự công nhận của các nước, trong đó có các nước lớn, các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; trở thành cơ sở chính
trị - pháp lý quốc tế rất quan trọng đối với nhân dân Việt Nam trong việc tiếp tục giương
cao ngọn cờ hòa bình, chính nghĩa và độc lập dân tộc, tranh thủ sự đồng tình và hậu thuẫn
của nhân dân tiến bộ trên khắp thế giới cho cuộc đấu tranh chống sự can thiệp và xâm
lược của đế quốc Mỹ suốt hơn hai mươi năm sau.
8
2. Phương pháp ngoại giao "dĩ bất biến ứng vạn biến"
Mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản
thể và hiện tượng, giữa cái nhất (cái một) và cái đa (cái nhiều), là vấn đề trung tâm của
triết học xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy

cái bất biến (không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Ý nghĩa
triết lý trên là ở chỗ dù mọi sự vật hiện tượng thiên sai vạn biệt, phong phú, đa dạng, thay
đổi khôn lường nhưng đều xoay quanh trục của nó, đó là bản thể. Trong chủ nghĩa duy
vật biện chứng, bản thể là vật chất, nhưng nó luôn vận động biến đổi, luôn chuyển hóa từ
dạng này sang dạng khác; nó bất sinh bất diệt. Trong thế giới không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang vận động, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân, kết quả của nhau.
9
Triết lý này mang tính nhân sinh sâu sắc, nó hướng con người
tới việc dung hòa, quân bình vạn vật. Con người hay bậc thánh nhân đều nên biết dùng
cái bất biến ứng phó với cái vạn biến, nhận thức cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, cái
tuyệt đối trong cái tương đối, để đạt tới sự ung dung, tự tại.
10
Trong Hiệp định Sơ bộ
8
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam />9
Theo Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia />10
Nguyễn Thị Mai Hoa, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” – triết lý hành động của ngoại giao Việt Nam
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Trong những năm 1945-1946, trên nguyên tắc "dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có những bước đi sách lược khôn khéo, phân
hoá cao độ kẻ thù, tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền, tạo điều
kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm mưu “diệt Cộng, cầm
Hồ”, “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch, tích cực đấu tranh bảo tồn nền độc
lập, tự do quý báu vừa mới giành được. Để cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống
phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa, Pháp – Tưởng đã ký kết Hiệp
ước Trùng Khánh (28-2-1946), mua bán, trao đổi lợi ích, "bắt nhân dân Việt Nam nhắm
mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa – Pháp. Điều này đặt nhân dân Việt Nam trước những thử
thách mới, đòi hỏi phải có quyết định tỉnh táo. Sau những cuộc thương lượng và nhân

nhượng có nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp được ký kết, thể hiện sự mềm dẻo về
sách lược, linh hoạt trong đấu tranh, nhưng hướng đích, kiên định độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia. Đây là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến
thời gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ
thù chính là thực dân Pháp. Đó cũng là cái cách mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nhìn nhận thấu đáo quan hệ biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn biến", đã cân
nhắc lợi hại gần xa của dân tộc một cách cẩn trọng, trong hai con đường đi đến độc lập,
“đã chọn con đường đỡ hao tổn mà cũng chắc chắn hơn.”
11
Trong Hiệp định Genève
Tháng 7-1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu“,
Việt Nam đi tới bàn đàm phán của Hội nghị Genève với tư thế của một dân tộc chiến
thắng. Tuy nhiên, trước việc các nước lớn tìm cách tác động đến tiến trình giải quyết
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đồng thời, thế và lực của cách mạng Việt
Nam còn có những hạn chế nhất định, Việt Nam đã có những nhân nhượng cần thiết để
Hội nghị đạt được các thoả thuận, lập lại hoà bình trên bán đảo Đông Dương, góp phần
làm dịu tình hình châu Á. Với thắng lợi của Hiệp định Genève, nửa nước được giải
phóng, buộc đối phương phải thừa nhận cái bất biến là quyền độc lập cơ bản, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ. Điều quan trọng hơn là phần chìm của việc ký kết Hiệp định – nửa
nước có hòa bình tạo tiền đề quan trọng cho dân tộc Việt Nam bước tiếp những bước dài
vững chắc trên chặng đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng,“đánh cho Mỹ cút”,“đánh cho
nguỵ nhào”. Hiệp định Geneve là một điển hình sống động của triết lý ngoại giao “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, mang
đậm dấu ấn và bản sắc Việt Nam.
12
Trong hiệp định Paris
11
Theo TS. Nguyễn Thị Mai Hoa, ĐHQG Hà Nội, />12
Theo TS. Nguyễn Thị Mai Hoa, ĐHQG Hà Nội,
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B

25
Cuộc trường chinh 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, nửa nước không còn bóng ngoại
xâm, song cả dân tộc vẫn chịu chung nỗi đau chia cắt. Trước nỗi đau cắt chia t đất nước,
với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, kết thành một khối thống nhất, nhân dân
Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến tự vệ chính nghĩa, phấn đấu vì một "ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà”.
Đương đầu với đế quốc Mỹ - một đối phương mạnh hơn gấp nhiều lần về tiềm lực kinh
tế, quân sự, trong lịch sử 200 năm lập nước chưa hề nếm mùi bại trận, trên tinh thần “tự
lực cánh sinh là chính”, Việt Nam ra sức tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, nhất là sự giúp đỡ
của Liên Xô và Trung Quốc. Trong điều kiện hai nước có những bất đồng sâu sắc và Mỹ
triệt để lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn, hòng cô lập và làm suy yếu cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, vận dụng triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Việt Nam chèo lái con
thuyền kháng chiến đi giữa hai ngọn sóng Xô – Trung, tranh thủ tối đa sự giúp đỡ quốc
tế, tăng cường nội lực, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong quá trình ấy, Việt
Nam kết hợp đánh – đàm, kéo địch đến bàn đàm phán, buộc Mỹ ký kết Hiệp định Paris -
kết quả của cuộc đàm phán lâu dài nhất, khó khăn, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao
Việt Nam. Hiệp định Paris đạt tới đỉnh cao triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi Mỹ
buộc phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất của dân tộc, buộc phải cam
kết rút quân và không can thiệp trở lại, còn Việt Nam giữ nguyên lực lượng chính trị, vũ
trang ở miền Nam, tạo cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để đi tới thắng lợi cuối
cùng. Nắm vững quy luật khách quan, nắm vững thời và thế, biết cách tạo thời và thế,
nắm vững nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thắng lợi của Hiệp định Paris là thắng
lợi của nền ngoại giao nhân văn Việt Nam trước nền ngoại giao trên thế mạnh của Mỹ,
khi Việt Nam biến nghịch thành thuận, biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực
có lợi.
3. Phương pháp ngoại giao "nhân nhượng có nguyên tắc"
Nhân nhượng có nguyên tắc là sự nhân nhượng khéo léo và hợp lý nhằm đạt được những
lợi ích thiết thực dựa trên nguyên tắc nhất định và không phương hại đến lợi ích quốc gia,
giữ vững được chủ quyền lãnh thổ.
Trong Hiệp định sơ bộ

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ những ngày đầu tiên đã xác định: "Cuộc cách mạng
Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy
đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập"; nhận diện
một cách chính xác kẻ thù nguy hại nhất lúc này vẫn "là thực dân Pháp xâm lược, phải
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc "nội xâm" tiếp
tục hoành hành, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", trên nguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc lập
dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những bước đi sách lược khôn khéo,
phân hoá cao độ kẻ thù, tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền, tạo
điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm mưu “diệt Cộng
cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch; đồng thời, không ngừng củng cố
khối đoàn kết toàn dân, làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, trừng trị
bọn phản cách mạng và động viên toàn thể nhân dân đoàn kết một lòng, dốc sức xây
dựng thực lực đất nước.
Sau hơn 6 tháng tích cực đấu tranh bảo tồn nền độc lập, tự do quý báu vừa mới giành
được, đất nước lại đứng trước những thử thách và sự lựa chọn mới. Ngày 28-2-1946,
Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết tại Trùng Khánh. Hai nước lớn đã mua bán, trao đổi lợi
ích, tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương; cho quân Tưởng Giới
Thạch vơ vét thêm một ít quyền lợi, "bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp
ước Hoa - Pháp". Và đứng trước thời khắc gay go, quyết liệt, đòi hỏi những hành động
tỉnh táo, đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử, sáng suốt:
Hòa để tiến.
Phương pháp ngoại giao “nhân nhượng có nguyên tắc” được thể hiện rõ nhất trong Hiệp
định Sơ bộ
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể làm được để vãn hồi hòa
bình, ngăn chặn chiến tranh. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong việc ký Hiệp định sơ
bộ ngày 6/3/1946.

Mặc dù phía Pháp chưa công nhận nền độc lập của Việt Nam, song bản Hiệp định Sơ bộ
lại mang tính chất văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ký với
nước ngoài, có sự chứng kiến của đại diện các nước Mỹ, Anh và Trung Hoa. Điều này
chứng tỏ rằng: Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, "đối với nước Việt Nam ta, sự
ký kết đó có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nước Việt Nam là một nước tự
chủ”. Đánh giá về ý nghĩa quốc tế của bản Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Bản Hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngŕy cŕng vững vŕng, vŕ đó lŕ một
thắng lợi chính trị lớn lao”.
Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp
đã biến thoả thuận tay đôi Hoa - Pháp thành thoả thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết thúc
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
vai trò của lực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của các nước lớn
Đồng minh tại Hội nghị Potsdam. Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm
thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng nước ta. Khi kháng chiến toàn quốc
nổ ra, thay vì phải đối đầu với hơn 300,000 vạn quân của các lực lượng thù địch, 20 triệu
đồng bào Việt Nam chỉ còn phải chiến đấu chống 100,000 vạn quân Pháp. Bên cạnh đó,
chúng ta có hai điều lợi lớn: a) Phá được mưu mô bọn Tàu trắng, của bọn phát xít, và của
bọn Việt gian, bảo toàn được thực lực; b) Dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn
cuộc chiến đấu mới phối hợp với các cuộc chiến đấu của nhân dân Pháp, tiến tới giành
độc lập hoàn toàn".
Có thể nói rằng, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là
bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến thời gian thành lực
lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực
dân Pháp khi chúng không còn có lực lượng đồng minh hỗ trợ tại chỗ; đồng thời, việc
chấp nhận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc cũng chính là một hình thức san đỡ gánh
nặng, chia lửa với đồng bào miền Nam ruột thịt.
Trên thực tế, khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết, trong Đảng và trong nhân dân cũng có rất
nhiều thắc mắc, "cho đó là chính sách quá hữu", song thực tiễn đã chứng minh rằng,

"chúng ta cần hoà bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân
nhượng để giữ hoà bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần
một năm tạm hoà bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng căn bản",
chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt cho cuộc kháng chiến mà chúng ta lường định là khó tránh
khỏi.
Trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, linh hoạt trong đấu tranh, chủ động kiên quyết và
khôn khéo, luôn hướng đích, việc nhân nhượng có nguyên tắc thể hiện sinh động qua
Hiệp định Sơ bộ đã cho phép chúng ta trong những thời điểm nguy nan của đất nước biến
nghịch thành thuận, biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho cách
mạng. Đó cũng là cái cách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã cân nhắc lợi hại gần
xa của dân tộc một cách cẩn trọng, trong hai con đường đi đến độc lập, “đã chọn con
đường đỡ hao tổn mà cũng chắc chắn hơn.”
Hiệp định Sơ bộ thể hiện bản lĩnh vững vàng của bộ não lãnh đạo cách mạng Việt Nam -
nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững thời và thế, biết cách tạo thời và thế, từ đó phấn
đấu giành thắng lợi từng bước, từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao, biết tiến, biết thoái, thoái
một bước để tiến hai bước, giải quyết hài hòa giữa cương và nhu, lấy nhu thắng cương.
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
4. Chiến lược ngoại giao “vừa đánh vừa đàm”
Vừa đánh, vừa đàm” là một phương pháp cách mạng, một biện pháp chiến lược đầy sáng
tạo, vừa “quyết đánh”, vừa “biết đánh”, kết hợp chặt chẽ đấu tranh, quân sự, chính trị,
ngoại giao, vừa kiên quyết, vừa khôn khéo nhằm đánh thắng một kẻ địch có tiềm lực
quân sự mạnh hơn ta gấp bội.
Trong Hiệp định Paris
Ngoại giao là một mặt trận quan trọng, gắn liền với vận mệnh dân tộc và luôn có mối
quan hệ hữu cơ với mặt trận quân sự, chính trị nhằm thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng thực
hiện mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Mối quan hệ đó được thể
hiện đậm nét: trên bàn đàm phán không thể giành thắng lợi nếu không có chiến thắng trên
chiến trường và những chiến thắng trên chiến trường sẽ không được khẳng định nếu
không có nghệ thuật giành thắng lợi trên bàn đàm phán. Thắng lợi trên bàn đàm phán sẽ

tạo ra điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi lớn hơn trên chiến trường và thắng lợi trên
chiến trường sẽ quyết định trực tiếp thắng lợi trên bàn đàm phán. Hiệp định Paris chính là
kết quả của sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao,
thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
Cuối năm 1965, với những thắng lợi liên tiếp của nhân dân ta ở hai miền đất nước, Đảng
ta đã tính đến kế hoạch đàm phán với Mỹ, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Song, ngoại giao
chỉ được mở màn và được coi là mặt trận sau Hội nghị lần thứ 13 (1-1967). Và từ đây,
Đảng ta mới thực sự triển khai kế hoạch và quyết định đẩy mạnh đấu tranh quân sự trên
cả hai miền, đồng thời đưa ngoại giao thành một mặt trận quan trọng để mở ra cục diện
“vừa đánh, vừa đàm”.
Trên tinh thần Hội nghị 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 28-1-1967, Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trả lời phỏng vấn nhà báo Australia, Winfred
Burchet: “Nếu Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam thì Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa có thể nói chuyện với Mỹ”. Cuối năm 1967, Bộ trưởng lại tuyên
bố: “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam, Việt Nam
dân chủ cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan”. Nhưng, chỉ đến khi
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 với những đòn “sấm sét” tiến
công liên tiếp đã làm thay đổi hẳn tình hình theo hướng có lợi cho ta và làm giảm uy thế,
sức mạnh quân sự và lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, Tổng thống Johnson mới tuyên bố
đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, không ra tranh cử Tổng
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
thống Mỹ nhiệm kỳ 2 và cử người đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa tại Paris. Ngày 13-5-1968, Hội nghị Paris giữa 2 bên giữa Việt Nam dân chủ
cộng hòa và Mỹ khai mạc.
13
Ngày 18-1-1969, phiên họp đầu tiên của Hội nghị Paris về Việt Nam khai mạc tại phòng
họp của trung tâm Hội nghị quốc tế ở Paris nước Pháp. Ngày 25-1-1969, Hội nghị bốn
bên chính thức khai mạc, trưởng đoàn của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Trần

Bửu Kiếm đã đưa ra lập trường năm điểm, thực chất là tuyên bố chính trị và bốn tháng
sau đưa ra giải pháp toàn bộ mười điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam. Đây là giải pháp
hoàn chỉnh đầu tiên được đưa ra tại Hội nghị bốn bên. Để đối phó lại, ngày 14-5-1969,
Tổng thống Nickson đưa ra kế hoạch tám điểm với nội dung chính là việc rút quân Mỹ
với việc rút quân miền Bắc và giữ chính quyền Sài Gòn, đồng thời tăng cường chi viện
cho chính quyền Sài Gòn.
Trước âm mưu, thủ đoạn và sức mạnh của Mỹ, trên cơ sở giải pháp mười điểm, ngày 6-6-
1969, Chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Ngày 25-8-
1969, trả lời thư của Tổng thống Mỹ Nickson, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn vậy,
Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn
trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam và của dân tộc Việt Nam, không
có sự can thiệp của nước ngoài. Đó là cách đúng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam phù
hợp với quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam, với lợi ích của nước Mỹ và nguyện vọng
hoà bình của nhân dân thế giới. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong
danh dự.”
Thực hiện chủ trương của Đảng, lời chúc Tết năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì
độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và Di chúc thiêng liêng của
Người, quân dân miền Nam cùng với miền Bắc ra sức đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ
bằng những chiến thắng oanh liệt trên chiến trường miền Nam Việt Nam và hai nước bạn
Lào, Cambodia.
Trước làn sóng biểu tình mạnh mẽ ở Mỹ, nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới cộng
với sự thất bại nặng nề trên chiến trường và những đòn tấn công ngoại giao trên bàn đàm
phán, từ tháng 7-1970, Tổng thống Nickson ra lệnh rút quân dần ra khỏi miền Nam Việt
Nam. Điều này khẳng định sự thành công trong thực hiện nghệ thuật kết hợp đánh - đàm
của Đảng ta. Đấu tranh ngoại giao không chỉ khuyếch trương thắng lợi trên chiến trường,
củng cố niềm tin cho nhân dân và bạn bè quốc tế, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ
mà còn hỗ trợ, che chắn cho chiến trường trong những thời điểm khó khăn (1969-1971).
Cuối năm 1971, ta giành thắng lợi quan trọng trên mặt trận quân sự, buộc Mỹ phải từ bỏ
13
Cổng thông tin điện tử chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam />Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B

25
yêu sách đòi ta phải rút quân khỏi miền Nam, đánh dấu sự thành công trong nguyên tắc
nhất quán trong đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Paris của ta là: “quân Mỹ rút ra, quân ta ở
lại” - điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong đàm phán đã được khai thông nên thời gian
này, ta dùng sách lược tạm thời không đòi loại bỏ chính quyền Thiệu. Cùng với những
thoả thuận đạt được trên bàn đàm phán, thắng lợi của ta trong Xuân - Hè 1972 đã tạo
bước ngoặt có tính chất quyết định về so sánh lực lượng trên chiến trường và quá trình
đàm phán tại Hội nghị Paris, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh.
Sau chiến thắng Xuân - Hè 1972, trên các mặt trận lớn, từ Trị Thiên đến đồng bằng sông
Cửu Long, ta giải phóng một vùng rộng lớn, làm thay đổi lớn so sánh lực lượng, tạo ra
khả năng kết thúc chiến tranh. Các bên bước vào một cuộc đua nước rút trên bàn đàm
phán nhằm biến kết quả quân sự trên chiến trường thành kết quả chính trị - ngoại giao
được ghi nhận bằng một hiệp định. Ngoại giao lúc này không chỉ là cuộc đàm phán thông
thường mà còn là một “cuộc chiến không tiếng súng” của các nhà ngoại giao các bên và
có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả cuối cùng của chiến cục năm 1972 cũng như đến toàn bộ
cuộc chiến tranh Việt Nam. Tháng 7-1972, Bộ Chính trị đã đưa ra quyết sách: Chuyển từ
chiến lược chiến tranh sang chiến lược hòa bình.
Ngày 8-10-1972, phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa cho phía Mỹ dự thảo “Hiệp
định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và hai bên thảo luận cụ thể
từng điều khoản, từng câu chữ của Hiệp định. 18-12-1972, Tổng thống Mỹ Nickson cho
máy bay chiến lược B.52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận, mở đầu chiến
dịch mang mật danh “Cuộc hành quân Lineblacker II”. Đồng thời, Washington gửi công
hàm cho Việt Nam đề nghị họp lại. Nhận ra thủ đoạn của Mỹ, quân và dân Thủ đô chủ
động bước vào cuộc chiến chống “Siêu pháo đài bay B.52” của Mỹ bằng tất cả lòng căm
thù, sự dũng cảm, ý chí và trí tuệ của Việt Nam và đã làm nên kỳ tích 12 ngày đêm “Điện
Biên Phủ” trên bầu trời Hà Nội. Chiến công này đã làm sụp đổ hoàn toàn thần tượng bất
khả chiến bại của “không lực Hoa Kỳ”, làm hoảng loạn tinh thần của những người cầm
quyền nước Mỹ. Thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, tổn thất nặng nề trong
trận “Điện Biên Phủ trên không” và bị dư luận quốc tế lên án, ngày 29-12-1972, Mỹ buộc
phải ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại

Hội nghị Paris, các bên ký tắt ngày 23-1-1973 và ký chính thức ngày 27-1-1973 “Hiệp
định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
14
Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973) được coi là một trong những cuộc thương
thuyết kéo dài nhất trong lịch sử thế giới. Sau 4 năm, 8 tháng và 16 ngày đấu trí, đấu lý
trên bàn Hội nghị, ngoại giao cách mạng Việt Nam, mặc dù còn non trẻ, đã phát huy cao
14
Phạm Thị Nhung, Trường sĩ quan Lục quân 2, Hiệp định Pari - Đỉnh cao nghệ thuật “vừa đánh- vừa đàm” dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trang />Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
độ truyền thống ngoại giao đầy bản lĩnh, trí tuệ và nhân nghĩa của dân tộc, giành thắng
lợi với việc ký kết Hiệp định Paris, mở ra cục diện mới, tạo tiền đề vững chắc cho đại
thắng Mùa xuân năm 1975.
15
15
Theo CTV Kim Anh/VOV online />Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách
1. Nguyễn Dy Niên, Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
2. Lê Mậu Hãn, Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục 2010
Trang web
1. Báo sinh viên Đại học An Giang www.enews.agu.edu.vn/
2. Quốc hội Việt Nam />3. www.vietbao.vn
4. www.vnexpress.net
5. www.vietnamplus.vn
6. www.dantri.com.vn
7. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam www.dangcongsan.vn
8. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia www.nxbctqg.org.vn
9. www.tutuonghochiminh.vn/

10. Cổng thông tin điện tử chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
www.chinhphu.vn
11. www.xaydungdang.org.vn
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Danh sách thành viên Nhóm 5
1. Nguyễn Minh Kha - K38.608.074
2. Hồ Hoa Mai - K38.608.082
3. Hoàng Việt Anh - K38.608.004
4. La Phúc Hải - K38.608.067
5. Dương Gia Thịnh - K38.608.124
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B
25
Mục lục
Mục lục 24
Ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX – Nhóm 5 QTH3B

×