Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đề cương ôn tập môn thương mại quốc tế: Phần các tổ chức quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.53 KB, 20 trang )

I/T ổ ch ứ c th ươ ng m ạ i th ế gi ớ i WTO: quá trình thành l ậ p, nguyên t ắ c
ho ạ t đ ộ ng, m ụ c tiêu c ủ a t ổ ch ứ c
 Quá trình thành lập :
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại
giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và
đang được các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương
mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định chung về Thuế quan
Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu
hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc
tế đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển,
thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ
Quốc tế (IMF) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc
tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa, khắc
phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng
lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc
làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc
tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước
này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những
biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ
đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho
kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời
sống của nhân dân các nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thỏa
thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ
11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê
1
chuẩn, nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không
thực hiện được.


Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được
ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các
bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23
nước sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay(1986-1994) do thương
mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm
phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình
thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương
mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương
mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh
chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự thỏa
thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích hợp.
Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định
thành lập
Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp
GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và
đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
 Nguyên tắc hoạt động :
Được tổng hợp từ 29 văn bản pháp luật riêng biệt và 25 tuyên bố bổ sung
khác, thành 5 nguyên tắc cơ bản định hướng hoạt động cho WTO gồm:
a) Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xữ (non discrimination): được
thực hiện dưới 2 hình thức:
- Hình thức tối huệ quốc(MFN): Được diễn dịch là mỗi nước thành viên sẽ
dành sự ưu đãi của mình đối với sản phẩm của các nước thành viên khác,
không có nước nào dành lợi thế thương mại đặc biệt cho bất cứ một nước
nào khác hay phân biệt đối xữ chống lại nước đó (trên cơ sở bình đẳng và
2

phân chia lợi ích mậu dịch ở mọi lĩnh vực). Riêng các nước đang phát triển
và các nước có nền kinh tế thấp kém có thể hưởng lợi ích từ điều kiện
thương mại thuận lợi nhất ở bất cứ nơi nào mỗi khi các điều kiện thương mại
được đưa ra đàm phán.
Ngày nay, qui chế “tối huệ quốc” được hiểu như là sự bình thường hóa quan
hệ thương mại bình thường vĩnh viễn.
- Hình thức đối xữ quốc gia (National treatment): Đối xữ quốc gia(NT) được
hiểu là: “khi hàng hóa thâm nhập vào một thị trường, sẽ phải được đối xữ
không kém ưu đãi về thuế, điều kiện vệ sinh, v.v… so với hàng hóa tương tự
được sản xuất trong nước đó”. Sự đối xử quốc gia thường chỉ là kết quả của
cuộc đàm phán, thương lượng giữa các nước thành viên với nhau.
b) Nguyên tắc tạo điều kiện hoạt động thương mại ngày càng thuận lợi và tự do
hơn thông qua đàm phán. Tức là mỗi nước phải thiết lập được lộ trình cắt
giảm thuế và các biện pháp phi thuế quan thông qua các vòng đàm phán
song phương và đa phương để tạo thuận lợi cho việc thực hiện tiến trình tự
do hóa thương mại. Các nước thành viên phải có nghĩa vụ tạo môi trường
lành mạnh , công khai , bình đẳng giữa các sản phẩm sản xuất trong nước
mình và sản phẩm, hàng hóa nhập khẩu.
c) Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh có thể dự đoán trước: Được thể
hiện qua việc các nước thành viên không được thay đổi các chính sách , pháp
luật về kinh tế một cách tuỳ tiện, đặc biệt là hàng rào thương mại, gây trở ngại
cho các nhà doanh nghiệp và nhà nhập khẩu khi thực hiện các kế hoạch, các
chính sách thương mại của mình.
d) Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh công bằng: Các nước thành viên phải cam
kết giảm dần đi đến cắt bỏ các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng (như trợ
giá, tài trợ xuất khẩu), phải chống bán phá giá, từ bỏ các biện pháp ưu đãi, đặc
quyền đặc lợi trong hoạt động thương mại, kể cả ưu đãi cho các doanh nghiệp
nhà nước.
e) Nguyên tắc chấp nhận dành một số ưu đãi thương mại cho các nước đang phát
3

triển hoặc chậm phát triển: như ưu đãi về thuế nhập khẩu hàng hóa của các nước
đang phát triển (hay chậm phát triển) vào thị trường nội địa của các nước công
nghiệp phát triển (theo qui định “Hệ thống ưu đãi thuế quan tổng quát” –
Genenalized Systems of preference). Các nước đang phát triển hoặc chậm phát
triển được ưu đãi không phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của WTO như các nước
công nghiệp phát triển, được kéo dài lộ trình thời gian điều chỉnh, sửa đổi các
chính sách thương mại, kinh tế để phù hợp dần với các qui định của WTO.
 Mục tiêu :
WTO tập trung vào 4 nhóm mục tiêu lớn gồm :
- Tự do hóa thương mại cả về hàng hóa và dịch vụ thông qua các cuộc đàm
phán, loại bỏ thuế quan cùng các hạn chế về số lượng hàng hóa, các trở ngại
phi thuế quan khác.
- Không phân biệt đối xữ thông qua chế độ tối huệ quốc (MFN) và chế độ đối
xữ quốc gia (NT); vận dụng mềm dẽo các điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế theo các thoả thuận riêng và các ngoại lệ.
- Xây dựng và phát triển môi trường thuận lợi cho mở rộng thương mại quốc
tế với đảm bảo thông suốt, chắc chắn và dự báo được các diễn biến có thể
xãy ra.
- Tăng cường khả năng trao đổi, tham khảo ý kiến giữa các nước thành viên
trong giải quyết các tranh chấp thương mại để hạn chế thiệt hại, đảm bảo thể
chế hóa qui chế chung và sự tôn trọng các điều ước đã ký.
2/ASEAN
 Khái quát:
- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (Association of Southeast Asian Nations-
ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi Tuyên bố Băng-cốc, Thái Lan,
đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực.
- Khi mới thành lập ASEAN gồm 5 nước là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-
pin, Xin-ga-po và Thái Lan. Năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Bru-nây Da-ru-
xa-lam làm thành viên thứ 6. Ngày 28/7/1995Việt Nam trở thành thành viên
4

thứ 7 của Hiệp hội. Ngày 23/7/1997 kết nạp Lào và Mi-an-ma. Ngày
30/4/1999, Căm-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN.
- ASEAN có diện tích hơn 4.5 triệu km2 với dân số khoảng 575 triệu người;
GDP khoảng 1281 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu 750 tỷ USD. Các
nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang
đứng hàng đầu thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su
(90% sản lượng cao su thế giới); thiếc và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ
súc (50%), cũng như gạo, đường dầu thô, dứa Công nghiệp của các nước
thành viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển, đặc biệt trong các lĩnh vực:
dệt, hàng điện tử, hàng dầu, các loại hàng tiêu dùng. Những sản phẩm này
được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một cách nhânh chóng
vào các thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao so với các khu vực khác trên thế giới, và được coi là tổ chức khu vực thành
công nhất của các nước đang phát triển.
- Tuy nhiên mức độ phát triển kinh tế giữa các nước ASEAN không đồng đều.
Mi-an-ma hiện là nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp nhất
trong ASEAN, chỉ vào khoảng hơn 200 đôla Mỹ. In-đô-nê-xi-a là nước đứng
đầu về diện tích và dân số trong ASEAN, nhưng thu nhập quốc dân tính theo
đầu người chỉ vào khoảng trên 600 đôla Mỹ. Trong khi đó, Xin-ga-po và Bru-
nây Đa-ru-xa-lam là hai quốc gia nhỏ nhất về diện tích (Xin-ga-po ) và về dân
số (Bru-nây Đa-ru-xa-lam) lại có thu nhập theo đầu người cao nhất trong
ASEAN, vào khoảng trên 30.000 đô la Mỹ/năm.
- Ở các nước ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo
hướng công nghiệp hoá. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”, nền ngoại
thương ASEAN đã phát triển nhanh chóng, tăng gần năm lần trong 20 năm
qua, đạt trên 160 tỷ đôla Mỹ vào đầu những năm 1990 (nay là 750 tỷ đôla Mỹ).
ASEAN cũng là khu vực ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới. Nếu
năm 2005, tổng số vốn đầu tư mà ASEAN thu hút được tăng 16,9% so với năm
2004, thì năm 2006, tổng số vốn đầu tư đã tăng 27,5%.
5

3/AFTA :
AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực thương mại tự do ASEAN
(ASEAN Free Trade Area). Quyết định thành lập Khu vực thương mại tự
do này được đưa ra tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ chức
vào tháng 1/1992 tại Singapore. Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được hoàn
thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng cạnh
tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị
trường thế giới". Tuy nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ
của các liên kết kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính
các quốc gia ASEAN, năm 1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn
lên năm 2003.
Mục tiêu :
- Tiến hành tự do hóa tm trong khu vực bằng việc loại bỏ hàng rào thuế quan
và phi thuế quan trong nội bộ khu vực, trước hết là cho 15 nhóm hàng công
nghiệp chế biến.
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu vực bằng cách tạo ra
môi trường đầu tư thống nhất rộng lớn hơn, khai thác tiềm năng mỗi QG,
thúc đẩy quá trình CNH mỗi nước.
- Làm cho ASEAN thích nghi hơn với đk ktqtđang thay đổi, làm quen với
môi trường tự do tm toàn cầu đặc biệt là sự phát triển của các thỏa thuận tm
khu vực trên TG.
Nội dung cốt lõi :
- Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về thực chất, CEPT
là một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan
trong nội bộ khối xuống còn 0-5% thông qua những kế hoạch giảm thuế
khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi cuối cùng, các
6
nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những
hàng rào phi quan thuế khác.

- Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là:
 Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến
2003.
 Với Việt Nam: từ 1996 đến 2006
 Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008.
- Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân loại
tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau:
 Danh mục giảm thuế (IL)
 Danh mục loại trừ tạm thời (TEL)
 Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL)
 Danh mục nhạy cảm (SL)
 Danh mục nhạy cảm cao
Danh mục giảm thuế (IL) bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế
quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%. Ngay sau khi ký
CEPT, mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình để bắt đầu giảm thuế
quan từ năm 1993. Trên thực tế, không phải mặt hàng nào trong IL cũng
thực sự phải giảm thuế quan, vì có những mặt hàng trước khi đưa vào IL đã
có thuế suất dưới 5%, thậm chí bằng 0%.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào
giảm thuế quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời
gian để điều chỉnh sản xuất trong nước thích nghi với môi trường cạnh
tranh quốc tế gia tăng.
Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu
chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế quan đối
với những mặt hàng này. Quá trình chuyển từ TEL sang IL được phép kéo
dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó có
7
nghĩa là đến hết năm thứ tám thì IL đã mở rộng bao trùm toàn bộ TEL, và
TEL không còn tồn tại.
Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình

giảm thuế quan của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành CEPT.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) bao gồm những mặt hàng không có
nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền đưa
ra danh mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã
hội, bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật; bảo tồn các giá trị văn hóa,
lịch sử, khảo cổ
GEL không phải là Danh mục các mặt hàng Chính phủ cấm nhập khẩu
(NK). Một số mặt hàng có trong GEL vẫn được NK bình thường, nhưng
không hưởng thuế suất ưu đãi như các mặt hàng trong danh mục giảm thuế.
Ngoài cơ chế này, để hiện thức hóa AFTA, các nước ASEAN còn ký kết
hàng loạt các thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa
giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng
hóa của nhau, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan, bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp và xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN
(ASEAN Investment Area - AIA).
Cơ chế thực hiện CEPT :
- Sản phẩm phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế ở các nước xk, nk với
mức thuế < 20%
- Sp đó phải nằm trong chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông
qua
- Sp đó phải là sản phẩm ASEAN, tức là phải thỏa mãn yc hàm lượng xuất
xứ từ các nước ASEAN ít nhất là 40%
8
4/Ch ươ ng trình thu ho ạ ch s ớ m ASEAN _ Trung Qu ố c :
Do đặc điểm khí hậu giữa TQ và ASEAN tương đối khác nhau nên phần lớn
các sp nông sản của TQ và các nước ASEAN mang tính bổ sung cho nhau
nhiều hơn là cạnh tranh trực tiếp.
Trên cơ sở đó, điều 6 của Hiệp định Khung về hợp tác toàn diện ASEAN-
Trung Quốc ( thành lập khu vực mậu dich tự do ACFTA ) đã quy định chi tiết
việc thực hiện Chương trình thu hoạch sớm. Theo đó, các nước sẽ được cắt

giảm thuế quan nhanh hơn đối với các sản phẩm thuộc chương 01 đến chương
08 ( Động vật sống, Thịt và nôi tạng động vật, Cá, Sữa và các sản phẩm từ
sữa, Các sản phẩm khác từ động vật, Cây sống, Rau ăn được, Quarvaf hạt ăn
được )
Tính đến đô phát triển kinh tế của các nước ASEAN khác nhau, lịch trình
giảm và loại bỏ thuế quan thuộc Chương trình thu hoạch sớm như sau :
- Với nhóm nước ASEAN 6:
Nhóm thuế MFN (X
%)
Không chậm hơn
1/1/2004
Không chậm
hơn 1/1/2005
Không chậm hơn
1/1/2006
X >15% 10% 5% 0%
5%=< X =< 15% 5% 0% 0%
X <15% 0% 0% 0%
- Với Việt Nam
Nhóm
thuế
MFN
Không
chậm
hơn
1/1/200
4
Không
chậm
hơn

1/1/200
5
Không
chậm
hơn
1/1/200
6
Không
chậm
hơn
1/1/200
7
Không
chậm
hơn
1/1/200
8
Không
chậm
hơn
1/1/200
9
Không
chậm
hơn
1/1/201
0
X >=
30%
20% 15% 10% 5% 0% 0% 0%

15%
=< X
10% 10% 5% 5% 0% 0% 0%
9
=<30
%
X <
15%
5% 5% 0-5% 0% 0% 0% 0%
Để hạn chế tác động xấu đến sản xuất những mặt hàng nhạy cảm, Hiệp định cho
pháp các nước đưa ra Danh mục loại trừ ( các mặt hàng chưa đưa vào thực hiện
Chương trình thu hoạch sớm ). Các nước có thể đưa một hay nhiều mặt hàng từ
danh mục loại trừ vào chương trình thu hoạch sớm bất cứ lúc nào.
Nhận thấy việc hình thành khu vực ACFTA mà cụ thể là chương trình thu hoach
sớm đã có tác động lớn đến hoạt động thương mại giữa các quốc gia ASEAN với
TQ. Cụ thể :
- Trong 6 tháng đầu năm 2004 TQ đã nk 330 triệu USD rau quả từ các nước ASEAN
tăng 37,8% so với cùng kỳ năm 2003 và xk sang các nước ASEAN 270 triệu USD
tăng 33,9%
- Từ ngày 1/1/2004 cả 2 bên đã cắt giảm thuế nk khoảng 600 mặt hàng nông sản
xuống từ 2%-15% đồng thời xóa bỏ hoàn toàn các dòng thuế này vào năm 2006
đối với ASEAN 6
Với VN :
Bắt đầu từ 1/1/2004, Việt Nam và Trung Quốc đã thực hiện việc cắt giảm thuế xuất
nhập theo chương trình "Thu hoạch sớm" (EH) được ký kết giữa ASEAN và Trung
Quốc nhằm sớm đi đến hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Theo chương trình này, có nhiều dòng thuế được cắt giảm nhanh hơn và thậm chí
nằm ngoài khuôn khổ CEPT/AFPA đã thỏa thuận.
Theo cam kết cắt giảm thuế trong EH, từ 2004, Việt Nam phải cắt giảm 88 dòng
thuế nhập khẩu từ Trung Quốc thuộc ba nhóm (trên 30%, 15-30% và dưới 15%)

xuống bằng 0% vào năm 2008. Hiện nay, thực tế đã có 8 dòng thuế có thuế suất
bằng 0% nên Việt Nam chỉ phải cắt giảm 80 dòng thuế. Ngược lại, phía Trung Quốc
phải cắt giảm 206 dòng thuế nhập khẩu từ Việt Nam đạt tới thuế suất bằng 0% trước
ngày 01/01/2006. Trong đó, 123 dòng thuế suất trên 15%, 76 dòng có thuế từ 5 -
10
15% và có 7 dòng thuế hiện nay đã áp dụng 0%. Theo lộ trình, phía Trung Quốc
phải cắt giảm thuế khá mạnh và nhanh.
 Kể từ khi Việt Nam - Trung Quốc thực hiện chương trình “Thu
hoạch sớm”, kim ngạch song phương luôn tăng mạnh. Cuối năm
2004, kim ngạch hai nước đạt 5 tỷ USD (vượt mức đề ra cho năm
2005), năm 2007 đạt 16 tỷ USD, năm 2008 đạt 20 tỷ USD (tăng
28% so với năm 2007), tuy nhiên theo hướng Việt Nam nhập siêu từ
Trung Quốc.
5/Th ỏ a thu ậ n th ươ ng m ạ i ASEAN – Hàn Qu ố c :
Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai mà ASEAN đàm phán Hiệp định
thương mại tự do (sau Trung Quốc). Tiến trình này được bắt đầu vào năm 2004 khi
các nhà Lãnh đạo ASEAN và Hàn Quốc ký Tuyên bố chung về Hợp tác Kinh tế
Toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc, khẳng định mong muốn thiết lập Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) bao gồm các lĩnh vực thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ và đầu tư. Năm 2005, ASEAN và Hàn Quốc ký Hiệp
định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện (Hiệp định khung), và sau đó là các hiệp
định cụ thể trong từng lĩnh vực, tạo nền tảng pháp lý hình thành Khu vực Thương
mại Tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA).
-Thương mại hàng hóa
Hiệp định cụ thể đầu tiên được hai bên thống nhất là Hiệp định Thương mại Hàng
hóa ASEAN – Hàn Quốc (AKTIG), ký kết ngày 24 tháng 8 năm 2006. Hiệp định
này quy định các thỏa thuận thương mại hàng hóa ưu đãi giữa 10 Quốc gia Thành
viên ASEAN và Hàn Quốc, trong đó quan trọng nhất là cam kết cắt giảm và xóa bỏ
thuế suất đối với tất cả các dòng thuế trong một giai đoạn nhất định. Bắt đầu từ ngày
1 tháng 1 năm 2010, Hàn Quốc và ASEAN-5 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a,

Phi-líp-pin và Xinh-ga-po) đã xóa bỏ thuế của gần 90% các mặt hàng trong Lộ trình
Thông thường. Các thành viên mới hơn của ASEAN là Việt Nam, Cam-pu-chia,
Lào, Mi-an-ma, sẽ có thời gian dài hơn để cắt giảm và xóa bỏ thuế quan. Đối với
Việt Nam, ít nhất 50% các dòng thuế trong Lộ trình Thông thường sẽ có thuế suất từ
11
0-5% trước ngày 1 tháng 1 năm 2013 và đối với Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma là
trước ngày 1 tháng 1 năm 2015. Đến năm 2016, Việt Nam sẽ phải đưa 90% số dòng
thuế về mức 0-5% và đạt mức tự do hóa hoàn toàn vào năm 2017. Thời hạn tương tự
cho Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma sẽ là 90% vào năm 2018 và tự do hóa hoàn toàn
vào năm 2020. Thái Lan, do tham gia Hiệp định AKTIG muộn hơn – năm 2007, sẽ
có lộ trình cắt giảm thuế khác. Thuế suất đối với các sản phẩm trong Lộ trình Thông
thường sẽ được cắt giảm theo từng giai đoạn và xóa bỏ vào nâm 2016 hoặc 2017.
Với việc ký kết và thực hiện Hiệp định AKTIG, quan hệ thương mại giữa ASEAN
và Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng. Năm 2009, Hàn Quốc là đối tác thương
mại lớn thứ năm của ASEAN với tổng giá trị thương mại lên tới 74,7 tỷ đô la Mỹ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hàn Quốc vào ASEAN là 1,4 tỷ đô la Mỹ.
-Thương mại Dịch vụ
Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN – Hàn Quốc (AKTIS) được ký ngày 21
tháng 11 năm 2007, tạo nền tảng để tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà
cung cấp dịch vụ của ASEAN và Hàn Quốc. Xây dựng trên cơ sở các cam kết theo
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) của WTO, trong Hiệp định
AKTIS, cả ASEAN và Hàn Quốc đều cam kết sâu rộng hơn thông qua việc bổ sung
các ngành/phân ngành mới như kinh doanh, xây dựng, giáo dục, dịch vụ viễn thông,
môi trường, dịch vụ du lịch và dịch vụ giao thông vận tải.
-Đầu tư
Hiệp định Đầu tư ASEAN – Hàn Quốc (AK-AI) được ký kết ngày 2 tháng 6 năm
2009 nhằm tạo lập một môi trường minh bạch, thuận lợi và ổn định hơn cho các nhà
đầu tư và nguồn vốn từ ASEAN và Hàn Quốc. Nội dung chính của Hiệp định AK-
AI tập trung vào các yếu tố bảo hộ đầu tư như điều khoản về đối xử công bằng, bảo
vệ đầy đủ và an toàn cho nguồn đầu tư; chuyển giao quỹ liên quan đến nguồn đầu

tư; và đền bù trong trường hợp quốc hữu hóa đối với nguồn đầu tư. Hiệp định có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2009. Tuy nhiên, hiện nay, ASEAN và Hàn Quốc
vẫn tiếp tục thảo luận nhằm hoàn thiện các nội dung hợp tác dự kiến, trong đó có
vấn đề xây dựng các cam kết mở cửa thị trường hoặc lộ trình loại bỏ các bảo lưu.
12
Trong vòng năm năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, ASEAN và Hàn Quốc sẽ thảo
luận và hoàn thành những nội dung này.
-Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
Hiệp định về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp ASEAN – Hàn Quốc, ký ngày 13 tháng
12 năm 2005, đưa ra cơ chế giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh giữa các Bên
trong quá trình triển khai hoặc áp dụng các Hiệp định nói trên, kể cả Hiệp định
khung.
-Tác động của Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc tới quan hệ
thương mại Việt Nam-Hàn Quốc
Trong nhiều năm qua Hàn Quốc luôn là đối tác thương mại quan trọng của Việt
Nam. Hàn Quốc là 4 trong 10 đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam,
chỉ sau Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn
thứ 5 và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Hàn
Quốc trong 10 năm qua (2001~2010) là rất cao, đạt trên 23%. Năm 2009, mặc dù
chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng kim
ngạch thương mại hai chiều vẫn giữ được mức tăng trưởng 2,1%. Đặc biệt trong
năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã vượt mức 2 tỷ USD với mức
tăng trưởng là 15,7%. Trong năm 2010, kim ngạch thương mại hai chiều có sự phục
hồi rõ rệt với kim ngạch thương mại hai chiều đạt trên 12,85 tỷ đô la, tăng 42,2% so
với năm 2009. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn
Quốc đạt 3,1 tỷ đô la, tăng 49,8%,kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn
Quốc đạt 9,75 tỷ đô la, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng xuất
khẩu chính của ta sang Hàn Quốc là dầu thô, dệt may, thủy sản, than đá, gỗ và sản
phẩm gỗ, v.v.

Một đặc điểm nổi bật trong quan hệ thương mại Việt Nam-Hàn Quốc là việc ta
liên tục nhập siêu từ nước này. Trong năm 2010, Việt Nam chịu thâm hụt thương
mại lên đến gần 6,7 tỷ đô la, tăng 57,8% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng nhập
siêu/xuất khẩu là 216%, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu chung. Mặc dù vậy, nhập siêu
13
từ Hàn Quốc được đánh giá là tương đối tích cực vì cơ cấu nhập khẩu từ Hàn Quốc
chủ yếu là các mặt hàng nguyên nhiên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất công
nghiệp và sản xuất hàng xuất khẩu (chiếm hơn 70% tổng kim ngạch nhập khẩu từ
Hàn Quốc). Sắt thép các loại là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất (12,3%) tiếp đến
là vải các loại (11,7%), máy móc thiết bị (11,2%), máy vi tính sản phẩm điện tử
(8,6%), xăng dầu các loại (8,3%), chất dẻo nguyên liệu (7,3%), nguyên phụ liệu dệt
may và da giầy (4,9%).
Theo đánh giá chung, Khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc đã đem lại
những lợi ích đáng kể cho các nền kinh tế ASEAN, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt,
các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác hạn ngạch thuế quan với thuỷ sản, mặt
hàng xuất khẩu có kim ngạch hàng đầu của ta vào Hàn Quốc. Hàn Quốc cam kết
dành cho ASEAN lượng hạn ngạch thuế quan như sau: (i) Tôm đông lạnh: 5000
tấn miễn thuế; (ii) Tôm tươi: 300 tấn miễn thuế; (iii) Mực nang: 2000 tấn miễn thuế;
(iv)Tôm luộc: 2000 tấn miễn thuế; (iiv) Sắn: 25000 tấn với thuế suất 20%; (iiiv)
Tinh bột sắn: 9600 tấn với thuế suất 9%. Với mức thuế trong hạn ngạch 0% (so với
mức trung bình 15% ngoài hạn ngạch) là lợi thế cho các doanh nghiệp ASEAN và
Việt Nam. Bên cạnh đó, thuế suất mà Hàn Quốc dành cho các sản phẩm mà ta có thế
mạnh như dệt may, giày da, sản phẩm chế biến cũng rất thấp, góp phần tạo cơ hội
xuất khẩu quan trọng cho các mặt hàng này.
Một điểm đáng lưu ý là Hàn Quốc đã có nhượng bộ trong vấn đề kiểm dịch động
thực vật (SPS), chấp nhận đưa nội dung hợp tác đối với các thỏa thuận công nhận
lẫn nhau về SPS vào Phụ lục của Hiệp định khung; có điều khoản về TBT và SPS
trong Hiệp định về Thương mại Hàng hóa; thành lập Tổ công tác về TBT và SPS để
xem xét các vấn đề thực thi.
6/ASEAN – Nh ậ t B ả n :

ASEAN và Nhật Bản đã ký Hiệp định về Quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện
(AJCEP) vào tháng 4 năm 2008. Đây là thoả thuận toàn diện trong nhiều lĩnh vực,
bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Hiệp định AJCEP
cũng sẽ tăng cường các quan hệ kinh tế giữa ASEAN và Nhật Bản và tạo ra một thị
14
trường lớn hơn, hiệu quả hơn với nhiều cơ hội hơn trong khu vực. Thỏa thuận này
có hiệu lực từ ngày 1/12/2008 AJCEP đã được triển khai tương đối thuận lợi. Việt
Nam là một trong số các nước hưởng tương đối nhiều ưu đãi trong hiệp định này.
Việt Nam có lộ trình cam kết dài hơn so với một số nước khác nhưng lại được
hưởng ưu đãi như các nước ASEAN khác khi tiếp cận thị trường Nhật Bản. Tỷ lệ sử
dụng các ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam trong AJCEP tương đối cao,
chiếm khoảng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản. Đây có thể coi là một
mô hình đàm phán thành công của Việt Nam bởi vì AJCEP thực sự mang lại lợi ích
cho các doanh nghiệp trong nước. Đối với các nước khác, việc thực hiện AJCEP
tương đối thuận lợi. Trong giai đoạn từ 2010 đến khi kết thúc, ASEAN và Nhật Bản
dự kiến sẽ đưa ra lộ trình toàn diện cho các cam kết cắt giảm thuế quan.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương mại hàng hóa, ASEAN và Nhật Bản cùng
trao đổi quan điểm về việc cải thiện các quy tắc về xuất xứ theo hướng dễ thực hiện
hơn nhằm giúp các doanh nghiệp hai bên tiếp cận thị trường của nhau. Nhật Bản và
ASEAN đã nêu ra một số mặt hàng họ quan tâm, nhưng hai bên chỉ dừng lại ở việc
ghi nhận các quan điểm của nhau và nhất trí sẽ tiếp tục thảo luận trong thời gian tới.
Một nội dung quan trọng khác của Hội nghị là khả năng tiến hành đàm phán hiệp
định về thương mại dịch vụ ASEAN-Nhật Bản. Đây là lần đầu tiên các chuyên gia
của ASEAN-Nhật Bản thảo luận về vấn đề này và đặt mục tiêu hoàn tất vào năm
2011. Cho đến nay, Nhật Bản đã ký kết các hiệp định về thương mại dịch vụ song
phương với 7 nước thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, hiệp định
mới giữa Nhật Bản với khối ASEAN phải tạo ra các giá trị gia tăng và bổ sung cho
các hiệp định song phương. Hiệp định khu vực phải góp phần nâng cao giá trị của
các hiệp định song phương và ngược lại, các hiệp định song phương đóng vai trò
mở đường để tạo ra một mô hình hiệp định khu vực hiệu quả hơn.

Quốc hội Nhật Bản đã chính thức phê chuẩn hiệp định thương mại tự do giữa Nhật
Bản với Hiệp hội Các nước Đông Nam Á (ASEAN) 25/06/2008.Đây là thỏa thuận
tự do thương mại đa phương đầu tiên của Nhật Bản.Hiệp định này sẽ có hiệu lực
vào ngày đầu tiên của tháng thứ hai sau khi Nhật Bản và ít nhất một thành viên
15
ASEAN hoàn tất các thủ tục thông qua trong nước. Theo thỏa thuận, Nhật Bản sẽ
miễn thuế đối với 93% hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN trong vòng mười năm thỏa
thuận có hiệu lực.Trong khi đó, sáu thành viên ASEAN là Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan sẽ miễn thuế đối với 90% hàng hóa
nhập khẩu từ Nhật Bản trong vòng mười năm. Lộ trình miễn giảm thuế sẽ được thực
hiện muộn hơn đối với bốn thành viên ASEAN là Myanmar, Campuchia, Lào và
Việt Nam.
Kết quả : ASEAN và Nhật Bản tiếp tục mở rộng và tăng cường các quan hệ thương
mại. Tổng kim ngạch thương mại giữa ASEAN và Nhật Bản tăng 22,1% từ 173,1 tỷ
USD năm 2007 lên 211,4 tỷ USD năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu của ASEAN
sang Nhật Bản tăng 22,8% từ 85,1 tỷ USD năm 2007 lên 104,5 tỷ USD năm 2008.
Kim ngạch nhập khẩu vào ASEAN từ Nhật Bản trong cùng giai đoạn cũng tăng từ
87,9 tỷ USD lên 106,8 tỷ USD, tương đương mức tăng 21,5%. Nhật Bản là đối tác
thương mại lớn nhất của ASEAN với 12,4% tổng kim ngạch thương mại của
khối.Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN, dòng vốn FDI từ Nhật Bản
giảm 8,4% từ 8,3 tỷ USD năm 2007 xuống 7,7 tỷ USD năm 2008. Trong các đối tác
đối thoại của ASEAN, Nhật Bản là nguồn FDI lớn thứ hai của khối này.
7/Phân tích các tác đ ộ ng c ủ a t ự do th ươ ng m ạ i khu v ự c và đa biên t ớ i
ho ạ t đ ộ ng TMQT c ủ a Vi ệ t Nam :
(Nếu có một yếu tố nào khái quát được đặc điểm kinh tế đối ngoại của Việt Nam
trong những năm qua, thì đó là xu thế tự do mậu dịch với sự tham gia ngày càng sâu
rộng hơn - xét trên số lượng, lẫn cường độ - vào các FTA. Đa phương qua ASEAN
có FTA nội khối giữa các nước ASEAN (AFTA), FTA giữa ASEAN - Hàn Quốc
(AKFTA) và FTA giữa ASEAN - Trung Quốc (ACFTA). Song phương với Nhật Bản
qua hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).)

Từ đầu thập niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh thông
thương với bên ngoài và tiếp nhận luồng vốn FDI. Việc trở thành thành viên
ASEAN năm 1995 đánh dấu bước đi quan trọng đầu tiên trong HNKTQT. Từ năm
1996 nước ta bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
16
(CEPT) nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do trong khối ASEAN (AFTA) với
lịch trình cắt giảm thuế quan mà mốc cuối cùng của Hiệp định là năm 2006 khi toàn
bộ các mặt hàng, trừ mặt hàng trong Danh mục nông sản nhạy cảm (SL) và Danh
mục loại trừ hoàn toàn (GEL), phải đưa về mức thuế suất trong khoảng 0-5%. Nhằm
tiến tới tự do hóa thương mại hoàn toàn trong ASEAN, nước ta sẽ xóa bỏ thuế quan
đối với hầu hết các mặt hàng vào năm 2015. Đồng thời, ASEAN cũng đã lựa chọn
12 lĩnh vực ưu tiên để tự do hóa sớm từ nay đến năm 2012. ASEAN cũng đã quyết
định hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015, trong đó
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động (có kỹ năng) được dịch chuyển tự do.
Một mốc quan trọng nữa trong HNKTQT là việc Việt Nam ký kết (năm 2000) và
thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (năm 2001) với
những nội dung và phạm vi cam kết sát với chuẩn mực WTO. Tiếp đó là Hiệp định
Khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc được ký kết vào tháng
11/2002. Nội dung chính của Hiệp định là xây dựng một Khu vực thương mại tự do
ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm. Lĩnh vực tự do hóa bao gồm
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư cũng như các hợp tác khác về tài
chính, ngân hàng, công nghiệp, vv Theo Hiệp định khung, ASEAN-6 và Trung
Quốc sẽ dành cơ chế đối xử đặc biệt cho Campuchia, Lào, Mianma và Việt nam
(CLMV) do chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế. ASEAN-6 và Trung Quốc sẽ
phải hoàn thành nghĩa vụ cắt giảm thuế quan xuống 0% vào năm 2010, còn với
CLMV là vào năm 2015, tương đương với thời điểm hoàn thành AFTA. Việc tự do
hóa thuế quan đối với hàng hóa được chia thành ba danh mục cắt giảm chính, gồm:
(1) Danh mục thu hoạch sớm; (2) Danh mục cắt giảm thuế thông thường; và (3)
Danh mục nhạy cảm.
Nước ta cũng tham gia vào Khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc

(AKFTA) được ký lại lần thứ ba vào tháng 8/2006 với cam kết lộ trình cắt giảm thuế
quan bắt đầu từ năm 2007. Theo cam kết trong Hiệp định thương mại hàng hóa, Việt
Nam phải cắt giảm thuế theo lộ trình với đích cuối cùng là xóa bỏ thuế nhập khẩu
17
của ít nhất 90% mặt hàng trong Danh mục thông thường vào ngày 1/1/2015, và ít
nhất 95% mặt hàng trong Danh mục này vào ngày 1/1/2016.
Tháng 12/2008, Khu vực thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản (AJFTA) được thiết
lập và có hiệu lực ngay với một số cam kết. Khu vực thương mại tự do ASEAN -
Úc+NewZealand (ACERFTA) chính thức được ký kết vào đầu năm 2009. Nước ta
cũng có trách nhiệm trong việc thúc đẩy đàm phán thương mại toàn cầu và xây dựng
Cộng đồng kinh tế Đông Á, dù đây là những quá trình phức tạp và lâu dài.
Cuối năm 2006, nước ta chính thức trở thành thành viên WTO. Các cam kết WTO
của Việt Nam, tương tự như cam kết của các nước mới gia nhập khác, nhằm xóa bỏ
sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong và ngoài
nước và minh bạch hóa. Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam đã có cam kết
gồm mở cửa thị trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan; chính sách giá
cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của WTO; giảm
hoặc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với một số hàng hóa; không áp dụng trợ cấp
xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp trong
nước ở mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp công
nghiệp bị cấm từ thời điểm gia nhập; các ưu đãi đầu tư đã cấp trước ngày gia nhập
WTO sẽ được bảo lưu trong 5 năm (trừ các ưu đãi xuất khẩu đối với ngành dệt
may); tuân thủ Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM)
của WTO từ thời điểm gia nhập; áp dụng các loại phí và lệ phí theo quy định của
WTO; tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ
khi gia nhập; tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các Hiệp
định có liên quan khác của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh
bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các DNNN sẽ hoàn toàn hoạt
động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào
hoạt động của DNNN; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị trường trong thời

gian tối đa là 12 năm; tham gia vào một số Hiệp định tự do hóa theo ngành; cam kết
mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán,
dịch vụ thuế.
18
Có thể thấy WTO không phải là điểm bắt đầu và kết thúc quá trình hội nhập và đổi
mới của nước ta. Các hiệp định tự do thương mại khu vực và song phương có mức
độ mở cửa cao hơn cam kết trong WTO. Những khác biệt trong cam kết giữa các
hiệp định thương mại có thể tạo ra hiệu ứng thương mại và đầu tư khác nhau. Các
hiệp định thương mại tự do song phương (như Hiệp định được ký kết giữa Việt Nam
và Nhật Bản cuối năm 2008) và khu vực ở Đông Á thường bao hàm cả những vấn
đề đầu tư và hợp tác kinh tế toàn diện. Chính vì vậy, tác động của các hiệp định đó
đến nền kinh tế Việt Nam sâu sắc hơn là trong khuôn khổ của khu vực thương mại
tự do thuần túy. Điều rõ ràng là tiến trình HNKTQT, tự do hóa thương mại, đầu tư
và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường đang diễn ra ngày càng sâu rộng và không
thể đảo ngược. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào
kinh tế thế giới.
19
CÁC TỔ CHỨC_TMQT
20

×