Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.9 KB, 108 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ đề tài “Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn tại
huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay” được tác giải nghiên cứu lần
đầu tiên . Kết quả, số liệu trích dẫn và giới thiệu trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu hoàn toàn độc lập, những kết quả này chưa
từng được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào.

Học viên
Đinh Thị Thu Hà
I
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa hiện đại hóa
GQVL : Giải quyết việc làm
GTVL : Giới thiệu việc làm
LLLĐ : Lực lương lao động
LĐ – TB&XH: Lao động – Thương binh và Xã hội
II
MỤC LỤC
* Số lượng lao động nông thôn được đào tạo trên địa bàn huyện trong thời gian qua 58
* Ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn huyện Kim Bảng 61
III
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1. Dân số huyện Kim Bảng giai đoạn 2011 – 2013 36
Bảng 2.2: Cơ cấu dân số huyện Kim Bảng theo giới tính 36
Bảng 2.3 : Cơ cấu dân số huyện Kim Bảng theo khu vực 37
Bảng 2.4: Tình hình phân bố và sử dụng đất đai 38
của huyện Kim Bảng giai đoạn 2011 – 2013 38
Bảng 2.5: Cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện Kim Bảng năm 2013 39
Bảng 2.6: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Kim Bảng 42
giai đoạn 2010 – 2013 42
Bảng 2.7: Số lượng ước tính lực lượng lao động 44


của khu vực năm 2010-2013 44
Bảng 2.8: Trình độ văn hóa của lao động 45
huyện Kim Bảng năm 2010 -2013 45
Bảng 2.9: Trình độ chuyên môn kỹ thuật 47
của lao động huyện năm 2010-2013 47
Bảng 2.10: Lực lượng lao động trong khu vục kinh tế huyện 49
năm 2010-2013 49
Bảng 2.11: Số lượng lao động được tư vấn, giới thiệu việc làm tại trung tâm GTVL năm
2010-2013 57
Bảng 2.12: Số lượng lao động được đào tạo trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam
(2010- 2013) 60
Bảng 2.13: Số lượng ngành nghề đào tạo lao động nông thôn 62
huyện Kim Bảng (2010 - 2013) 62
Bảng 2.14: Đánh giá chung của người lao động về chất lượng đào tạo nghề 65
Bảng 2.15: Đánh giá của người lao động về hình thức và nội dung chương trình đào tạo 66
Bảng 2.16: Số lao động được giải quyết việc làm sau đào tạo nghề 66
giai đoạn 2011 – 2013 66
Bảng 2.17: Đánh giá của các cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động nông thôn trên
địa bàn huyện Kim Bảng 67
Bảng 2.18 Tình hình phát triển các loại hình tổ chức sản xuất 71
IV
ở các làng nghề truyền thống năm 2010 -2013 71
Bảng 2.19: Số lao động làm việc tại các làng nghề 72
huyện Kim Bảng năm 2010-2013 72
Bảng 2.20: Số dự án và tổng vốn hỗ trợ việc làm từ 2010 - 2013 75
Bảng 2.21: Đánh giá của người lao động được hỗ trợ tín dụng trong chương trình giải
quyết việc làm cho nông thôn trên địa bàn huyện Kim Bảng 75
Bảng 2.22 : Số lao động được tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động giai đoạn 2010 –
2013 77
Bảng 2.23: Số lao động đi xuất khẩu lao động ở các thị trường 77

giai đoạn 2010– 2013 77
Bảng 2.24: Số việc làm mới được tạo ra qua các năm giai đoạn 2010 – 2013 81
V
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan
trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực
lượng lao động lớn như ở Việt Nam. Giải quyết việc làm hiệu quả là tiền đề
quan trọng để sử dụng tối ưu nguồn nhân lực, góp phần phát triển kinh tế
vững chắc và ổn định xã hội.
Là địa phương thuộc đồng bằng sông Hồng, Hà Nam nói chung và
huyện Kim Bảng nói riêng có vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế. Giải quyết
việc làm nhằm cải thiện đời sống cho người lao động và gia đình họ, là một
trong những mục tiêu được lãnh đạo huyện ưu tiên trong định hướng phát
triển bền vững. Lao động nông thôn huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam hiện đang
chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu dân số và lao động của địa phương. Phần lớn lực
lượng lao động này đang tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh các
ngành nghề ở nông thôn với các công cụ, phương pháp sản xuất còn lạc hậu,
năng suất lao động thấp. Yêu cầu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn gắn với sản xuất hàng hóa lớn theo hướng công nghiệp
hiện đại ở huyện Kim Bảng đang tỏ ra mâu thuẫn với hiện trạng trong lĩnh
vực lao động - việc làm của huyện: trình độ của lực lượng lao động nông thôn
thấp, số lao động chưa được đào tạo chiếm tỷ lệ cao: năm 2013 có 70.653
người chiếm tỷ lệ 56,06%; lao động làm việc công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ
trọng nhỏ; ý thức kỷ luật của người lao động còn chưa cao. Công nghiệp hóa,
đô thị hóa, bên cạnh những tác động tích cực chung của nó, cũng đang tạo ra
những khó khăn to lớn cho những người nông dân mất đất nông nghiệp, khi đa số
họ lâu đời nay chỉ quen với nghề nông, và cuộc sống ở nông thôn, chưa có sự
chuẩn bị cần thiết cho một cuộc sống "phi nông nghiệp, phi đất đai". Hiện trạng
này đang và sẽ còn là vấn đề nhức nhối liên quan chặt chẽ đến vấn đề giải quyết

việc làm cho lao động nông thôn của huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
1
Xuất phát từ áp lực về vấn đề lao động, việc làm ngày càng gia tăng ở
nông thôn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, học viên lựa chọn đề tài “Giải
quyết việc làm cho người lao động nông thôn tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà
Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình với
mong muốn đưa ra những giải pháp góp phần giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn của huyện Kim Bảng nơi học viên đang công tác.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nhiều địa phương trong cả nước cũng như các quốc gia. Do vậy, đến nay đã
có nhiều công trình nghiên cứu về lao động, việc làm trong và ngoài nước.
Tiêu biểu như:
- Đề tài cấp nhà nước 70 A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải
quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần”, của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sĩ
Nguyễn Quang Hiền, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995.
- Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của Thạc
sĩ. Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2002
Các tác giả cho vấn đề việc làm cho người lao động và thất nghiệp là
một trong những vấn đề toàn cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về
chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực
trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Nội dung của các công trình đã đề xuất hệ
thống các quan điểm, phương hướng giải quyết việc làm và khuyến nghị, định
hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đề tài “Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải
quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
2

(2009) do PGS.TS Trần Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài. Các cộng tác viên của
đề tài đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với
giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các tác giả cho rằng: việc nâng cao chất lượng nguồn lao động không chỉ
nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển, mà còn góp phần giải quyết việc làm,
giảm thất nghiệp. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và giải quyết việc làm ở nước ta.
Cũng đã có rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu viết về thực trạng lao
động, vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta như:
+ Nguyễn Sinh Cúc (2008), "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những
vấn đề đặt ra;Tạp chí Con số và Sự kiện, số 8. Tác gỉa đưa ra những vấn đề
đã được những thành quả của việc sử dụng chính sách phát triển các làng
nghề truyền thống trong hệ thống các chính sách giải quyết việc làm của lao
động nông thôn năm 2008, và những vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới.
+ Nguyễn Hữu Dũng (2011), “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm
trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí
Lao động và Xã hội, số 247. Tác giả đã đưa ra được những phương hướng
giải quyết thực trạng di cư tăng nhanh của người dân do chuyển đổi đất nông
nghiệp dẫn đến mất việc làm, thất nghiệp tăng.
+ Bùi Văn Quán (2007), “Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một
số giải pháp cho đến năm 2010 ”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số chuyên đề 3.
Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ viết về
vấn đề việc làm ở một số tỉnh: Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Kiên
Giang với những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chưa có đề tài, công trình
khoa học nào phân tích, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn
huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam dưới dạng một luận văn khoa học kinh tế. Để
thực hiện đề tài khoa học này, tác giả có lựa chọn và kế thừa một số kết quả
3
nghiên cứu đã công bố, kết hợp khảo sát thực tiễn ở nông thôn huyện Kim
Bảng, tỉnh Hà Nam để phân tích, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với tình

hình thực tế của địa phương trên cơ sở những đường lối, quan điểm, chủ tr-
ương phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và của huyện Kim Bảng,
tỉnh Hà Nam đề ra trong những năm tới.
3. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn; Nghiên cứu thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động này trên địa bàn huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến giải
quyết việc làm của lao động nông thôn huyện Kim Bảng từ năm 2010-2013.
- Phạm vi nghiên cứu: giải quyết việc làm nông thôn huyện Kim Bảng
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2010-2013 và đề xuất một số giải pháp cho những
năm tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương phápnghiên cứu sau:
- Phương pháp sử dụng những tài liệu thứ cấp: thống kê, mô tả, so sánh,
phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát: điều tra lao động đang làm việc tại doanh
nghiệp trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
6 Kết cấu của luận văn
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Việc làm cho lao động nông thôn
1.1.1 Lao động nông thôn
Nông thôn là nơi sinh sống và làm việc chủ yếu của nông dân. Đây
cũng là nơi diễn ra nhiều loại việc làm trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội.
* Khái niệm về lao động nông thôn:

Lao động nông thôn là toàn bộ những hoạt động lao động sản xuất tạo
ra sản phẩm của những người sống ở nông thôn. Do đó, lao động nông thôn
bao gồm: lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, dịch
vụ nông thôn.
* Đặc điểm cơ bản của lao động khu vực nông thôn
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có khác so với đặc điểm của các
ngành khác, vì vậy lao động nông thôn cũng có những đặc điểm khác với lao
động của các ngành kinh tế khác, biểu hiện ở các mặt sau
+ Lao động ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động
Theo niên giám thống kế năm 2012, tính đến thời điểm 1/10/2012, cả
nước có 53,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, bao gồm
52,1 triệu người có việc làm. Gần 70% lực lượng lao động thuộc khu vực
nông thôn. Đặc điểm này cho thấy tiềm năng lao động ở nông thôn nước ta rất
to lớn và dồi dào. Hàng năm chúng ta có một lực lượng trên 1 triệu lao động
trẻ bước vào độ tuổi lao động đòi hỏi phải sắp xếp việc làm, trong đó đại đa
số ở nông thôn. Đây là lực lượng lao động trẻ, khỏe có khả năng tiếp thu và
nắm bắt kỹ thuật mới nhanh, sử dụng công nghệ mới, tiếp thu kiến thức kinh
doanh tốt nếu được bồi dưỡng và đào tạo một cách chu đáo. Đồng thời điều
5
này cũng hứa hẹn một thị trường tiêu thụ rộng lớn ở nông thôn. Tuy nhiên số
lao động ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh lại gây sức ép rất lớn
đối với việc giải quyết việc làm, làm cho mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc
làm còn hạn chế với nhu cầu giải quyết việc làm quá lớn vốn đã căng thẳng
lại càng căng thẳng hơn.
+ Lao động nông thôn mang tính thời vụ
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi chúng là
những cơ thể sống. Trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất
kinh tế đan xen nhau. Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác
nhau có điều kiện tự nhiên khác nhau chúng cũng có quá trình sinh trưởng và
phát triển khác nhau. Tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể

xóa bỏ được trong quá trình sản xuất. Chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm
tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Từ đó đặt ra vấn đề cho việc sử dụng
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động
nông thôn một cách hợp lý.
+ Lao động nông thôn chất lượng, hiệu quả thấp
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề của lao động nông thôn ở
mức rất thấp. Hầu hết là lao động giản đơn, thô sơ dựa vào kinh nghiệm là
chính. Lực lượng lao động chất xám không đáng kể, lại phân bố không đều,
chưa gắn với sản xuất, với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Hàng năm, đa
số thanh niên nông thôn đến độ tuổi lao động bổ sung vào nguồn lao động
không qua các trường lớp đào tạo nghề. Đây là yếu tố gây cản trở rất lớn đến
việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động và sử
dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lao động nông thôn nước ta hiện nay. Bên
cạnh đó, nguồn lao động nông thôn của nước ta đông về số lượng nhưng chất
lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong bối cảnh đất nước
đang hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt khi đất nước đã gia nhập tổ chức WTO
6
mà trong đó nông nghiệp được xem là một trong những thế mạnh. Do đó, để
có một nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì Nhà nước
cần phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng để có nguồn lao động đủ trình độ
để phát triển đất nước.
Thực tế đã cho thấy sức khỏe của người lao động liên quan đến lượng
calo tối thiếu cung cấp cho cơ thể mỗi ngày Nhìn chung người lao động ở
nông thôn nước ta có thu nhập thấp, dẫn đến những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày chưa được đáp ứng được đầy đủ. Vì vậy, sức khỏe của lao động của cả
nước nói chung và của nông thôn nói riêng là chưa tốt.
+ Lực lượng lao động nông thôn đang giảm dần tỷ trọng
Lực lượng lao động nông thôn đang chuyển dịch theo hướng giảm dần
tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng lao động trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Trên phạm vi cả nước từ 2005 đến năm 2010,

tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực I (nông, lâm, thuỷ sản) giảm từ
57,10% năm 2005 xuống còn 51,5% năm 2010, bình quân giảm gần
0,9%/năm. Tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực II (công nghiệp) tăng từ
16,6% năm 2005 lên 19,2% năm 2010, bình quân tăng 0,43%/năm. Tỷ trọng
lao động làm việc trong khu vực III (dịch vụ) tăng từ 26,3% năm 2005 lên
29,3% năm 2010, bình quân tăng 0,5%/năm.
Trong quá trình CNH, HĐH mạnh mẽ như hiện nay thì sự chuyển dịch
lao động trên càng diễn ra nhanh chóng. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất đã tạo ra nhiều ngành nghề sản xuất ở các địa phương kéo theo sự
xuất hiện của nhiều loại hình dịch vụ có khả năng thu hút đông đảo lực lượng
lao động. Mặt khác, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ làm
cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên. Như vậy, nông nghiệp
không những thực hiện tốt vai trò cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên
vật liệu cho thành thị và công nghiệp mà còn cho phép giải phóng một bộ
phận lao động chuyển dịch sang các nghề khác. Do đó, quá trình giảm tỷ
7
trọng lao động trong nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động ở các ngành công
nghiệp và dịch vụ diễn ra đồng thời. Đây là xu hướng vận động phù hợp với
xu thế chung của thế giới nhưng đồng thời cũng đặt ra yêu cầu phải thích ứng
nhanh của lao động nông thôn.
Ngoài ra, lực lượng lao động nông thôn phân bố không đồng đều giữa
các ngành và các vùng. Chủ yếu lực lượng lao động vẫn tập trung nhiều ở khu
vực sản xuất nông nghiệp. Do ảnh hưởng của nền nông nghiệp lúa nước,
trồng trọt là chủ yếu nên phần lớn lực lượng lao động tập trung ở những nơi
có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Vùng đồng bằng nơi đất chật người đông
thường thiếu việc làm. Trong khi đó, những vùng có điều kiện tự nhiên kém
thuận lợi hơn như trung du, miền núi đất đai rộng lớn thì dân cư lại thưa thớt,
thiếu lao động.
Khối lượng việc làm của lao động nông thôn còn rất hạn chế. Do bình
quân đất nông nghiệptrên đầu người thấp, vì vậy thu nhập của lao động thấp.

Tóm lại, lực lượng lao động nông thôn chiếm phần lớn lực lượng lao
động của cả nước. Đây là nguồn lực to lớn đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tiềm năng về lao động ở nông thôn rất lớn
nhưng chưa được khai thác và phát huy đầy đủ. Do đó, để thúc đẩy nhanh sự
phát triển kinh tế xã hội cần có biện pháp sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn
lực lao động ở nông thôn.
1.1.2. Việc làm cho lao động nông thôn
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại về việc làm cho lao động nông thôn
* Khái niệm việc làm. Việc làm hay hoạt động lao động sản xuất luôn
gắn liền với con người và xã hội loài người. Từ thủa khai thiên lập địa, con
người đã biết tìm kiếm ở thế giới xung quanh những sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu bản thân. Khi xã hội loài người phát triển, những hoạt động lao động
sản xuất được phân chia thành những ngành nghề khác nhau và người lao
động lựa chọn nơi phù hợp với khả năng lao động của mình. Mỗi người tham
gia lao động sản xuất một việc cụ thể để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và
đóng góp cho xã hội.
8
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc
làm là công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Sự tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết
việc làm. Với tầm quan trọng như vậy, việc làm được nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau như kinh tế, xã hội học, lịch sử Việc làm là vấn đề kinh tế
xã hội phức tạp. Đây là công việc của mỗi cá nhân nhưng lại gắn liền với xã
hội. Có việc làm nghĩa là người lao động có thu nhập nuôi sống bản thân và
tạo ra một lượng của cải cho xã hội.
Việc làm là vấn đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội và chính trị quan trọng
của mỗi quốc gia. Vì đó là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo sự phát
triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH cùng với xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế đang tạo ra những cơ hội và thách thức đối với vấn đề việc làm.
Chính vì vậy, nhận thức đúng đắn về việc làm có ý nghĩa quan trọng tạo cơ sở

lý luận để đưa ra những giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy
nguồn lực lao động của xã hội.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, người
lao động Việt Nam được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân
trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành
phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp Ngày
nay, quan điểm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn và khoa học
hơn. Theo Điều 3 Luật Việc làm năm 2013: "Việc làm là hoạt động lao động
tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm".
Từ các căn cứ trên,học viên đưa ra khái niệm “Việc làm là những hoạt
động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội mang lại
thu nhập cho người lao động mà không bị luật pháp ngăn cấm”. Theo đó,
việc làm là các hoạt động 1) Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương
9
hoặc hiện vật cho công việc đó. 2) Làm những công việc tự làm mang lại lợi
ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những
công việc không được trả công bằng hiện vật.
Một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai điều kiện i) hoạt
động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và các thành viên
trong gia đình. ii) người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không
bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hai điều kiện trên
có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được
thừa nhận là việc làm, góp phần mở rộng quan niệm về việc làm, khi đa số lao
động đương thời chỉ muốn chen chân vào trong các doanh nghiệp, cơ quan
nhà nước.
Quan niệm về việc làm như vậy phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở
Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người
lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không vi phạm luật
pháp để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn. Quan niệm trên đã mở ra

hướng giải quyết việc làm, tạo ra một thị trường phong phú và đa dạng, thu
hút nhiều người lao động, thực hiện mục tiêu giải phóng triệt để sức lao động
và tiềm năng toàn xã hội.
* Phân loại việc làm của người lao động ở nông thôn:
Là toàn bộ những hoạt động lao động từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
đến quản lý kinh tế xã hội… mang lại thu nhập và không bị luật pháp cấm.
Việc làm bao giờ cũng gắn liền với điều kiện sinh sống và làm việc của người
dân. Do đó, người lao động ở nông thôn thường làm trong những ngành khai
thác các điều kiện tự nhiên sẵn có: Nông, lâm, ngư nghiệp và những ngành
sản xuất có liên quan. Người ở vùng duyên hải thì sống bằng nghề biển…
10
Việc làm ở nông thôn khá phong phú đa dạng với hàng trăm ngành
nghề khác nhau. Do đó, để tiện theo dõi người ta thường phân chia việc làm ở
nông thôn thành việc làm thuần nông và phi nông nghiệp.
Việc làm thuần nông là những việc làm trong lĩnh vực trồng trọt và
chăn nuôi. Trải qua nhiều năm phát triển thì đây vẫn là hai ngành sản xuất
chính của nông nghiệp nước ta. Trong đó, trồng trọt vẫn chiếm tỷ lệ cao 73%,
chăn nuôi chiếm 27%. Trong trồng trọt thì cây lương thực vẫn chiếm ưu thế
với 78,2% cơ cấu cây trồng, cây rau màu và cây công nghiệp chỉ chiếm
21,8%. Ở nông thôn chủ yếu là tận dụng nguồn thức ăn dư thừa chăn nuôi nhỏ
lẻ nên ngành này phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
Sản xuất mang tính chất mùa vụ, lặp đi lặp lại nên người lao động làm
theo kinh nghiệm, ít quan tâm đến việc cải tiến, sáng tạo… làm cho năng suất
và hiệu quả công việc không có sự tăng trưởng đột biến. Quá trình đó cứ diễn
ra hàng ngàn năm làm cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn trở nên
chậm chạp. Bởi vậy, tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xóa
bỏ được trong quá trình sản xuất. Chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm tính
thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Từ đó đặt ra vấn đề cho việc sử dụng các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động
nông thôn một cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng. Do sản xuất mang tính

mùa vụ nên ở nông thôn sẽ thiếu việc làm trong lúc nông nhàn. Trong khi đó,
quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ dẫn đến một diện tích không nhỏ đất
nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho người nông dân bị mất
tư liệu sản xuất cùng với trình độ học vấn, tay nghề và khả năng thích ứng
thấp họ sẽ khó khăn khi tìm kiếm việc làm. Như vậy, trong quá trình CNH,
HĐH thì người lao động làm việc thuần nông đứng trước nguy cơ thất nghiệp
cao nhất.
11
Việc làm phi nông nghiệp là lĩnh vực rộng lớn và đang phát triển mạnh
mẽ ở nông thôn. Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước cùng với những tác động từ bên ngoài làm cho các
loại ngành nghề ở nông thôn phát triển phong phú, đa dạng. Ở nông thôn đã
xuất hiện rất nhiều loại công việc ngoài nông nghiệp: Các làng nghề truyền
thống sản xuất đồ gỗ, gốm sứ, thêu ren, thủ công mỹ nghệ; Các ngành chế
biến và dịch vụ sau thu hoạch nông, lâm, thuỷ sản: Chế biến gạo, cà phê, hạt
điều, hoa quả tươi, gỗ, thuỷ sản…; Hoạt động gia công cơ khí, sửa chữa đồ
gia dụng, nông cụ, máy móc nông nghiệp… Nhiều loại hình dịch vụ đời sống
trước đây chỉ có ở thành thị nay đã xuất hiện khá phổ biến ở nông thôn: Dịch
vụ làm đẹp, vui chơi giải trí, vệ sinh nông thôn, cung cấp nước sạch… Nhiều
việc làm trước đây bị xã hội coi rẻ nay đã được thừa nhận: giúp việc gia đình,
chạy chợ… Tất cả đã tạo ra một bức tranh muôn màu, muôn vẻ về thị trường
việc làm cho người lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, việc phát triển của việc
làm phi nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về tay nghề, trình độ
quản lý của người lao động, nguồn vốn hạn hẹp, trang thiết bị kỹ thuật nghèo
nàn, lạc hậu lại khó tiếp cận với công nghệ mới. Người dân có việc làm phi
nông nghiệp vẫn chưa mạnh dạn bứt hẳn khỏi đồng ruộng để tập trung vào
phát triển nghề.
Tuy còn nhiều khó khăn trong phát triển ngành nghề ở nông thôn
nhưng so với việc làm thuần nông thì việc làm phi nông nghiệp đang chiếm
ưu thế và trong xu hướng phát triển mạnh. Nguyên nhân là do việc làm phi

nông nghiệp không bị giới hạn nhiều về tự nhiên lại đang có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển nhất là trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
12
1.1.2.2. Thiếu việc làm và thất nghiệp của lao động nông thôn
- Thiếu việc làm. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) người thiếu
việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy
định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu thêm việc làm. Theo một
số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì “Người thiếu việc làm là
những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu và họ
có nhu cầu làm thêm” hoặc “Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp
hoặc thất nghiệp trá hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức
mà mình mong muốn”. Như vậy, người thiếu việc làm là người lao động đang
có việc làm nhưng họ làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định
hoặc làm những công việc mà tiền lương thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của
cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để bổ sung thu nhập.
ILO cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm người thiếu việc làm
hữu hình (dạng nhìn thấy được) và dạng người thiếu việc làm vô hình (khó
xác định). Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao
động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm
kiếm thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc. Tình trạng việc làm hữu hình
được biểu thị bởi hàm số sử dụng thời gian lao động như sau:
K =
Số giờ làm việc thực tế
x 100%
Số giờ quy định
(Tính theo ngày, tháng, năm)
Thiếu việc làm vô hình là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian
thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Nguyên
nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao động thấp
không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi, tổ chức

lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu nhập
thấp hơn mức lương tối thiểu.
13
Nguyên nhân thiếu việc làm 1) Do nền kinh tế chậm phát triển, diện
tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp và giảm dần do đô thị hoá. 2)
Do lực lượng lao động tăng quá nhanh, trong khi đó số chỗ làm việc mới tạo
ra quá ít, do trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của người lao động còn
thấp kém. 3) Do tính chất thời vụ, thời tiết khí hậu, do chính sách đầu tư chưa
hợp lý, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được v.v.
Thất nghiệp. Thất nghiệp luôn là mối quan tâm chung của toàn xã hội.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cố gắng xây dựng chính sách kinh tế vĩ
mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, cải thiện việc làm và giảm
tỷ lệ thất nghiệp. Thất nghiệp cũng là mối lo của người lao động vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của họ.
Thất nghiệp là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tách rời sức lao động
với tư liệu sản xuất. Trong đó, con người có khả năng lao động nhưng chưa
có việc làm nên không có thu nhập. Điều này đặt người lao động và gia đình
họ trước nguy cơ mất nguồn nuôi dưỡng chủ yếu. ILO coi thất nghiệp là tình
trạng một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm nhưng không thể
tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành. Cũng có quan điểm cho rằng:
Thất nghiệp là hiện tượng có những người mất thu nhập do không có khả
năng tìm được việc làm khi vẫn còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới nhưng chưa được giải
quyết. Có thể coi thất nghiệp là người: Có khả năng lao động, mong muốn tìm
việc làm nhưng chưa có việc làm.
Các đặc trưng của người thất nghiệp 1) Có khả năng lao động. 2) Hiện
đang không có việc làm (tuỳ theo quy định của từng quốc gia về độ dài thời
gian nghỉ việc của lao động đó). 3) Đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Các loại thất nghiệp 1) Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia
thành:i) Thất nghiệp tự nhiên: Là loại thất nghiệp khi có một tỷ lệ nhất định

14
số lao động ở trong tình trạng không có việc làm ii) Thất nghiệp tạm thời: Là
loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không ngừng của ngành lao động
giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của
cuộc sống iii) Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất
cân đối giữa cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó iiii)
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản
lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng
giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu đối với
các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính
sách nhằm khuyến khích tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực. 2) Xét về
tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành i) Thất
nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao
động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh con) thất
nghiệp loại này thường gắn với thất nghiệp tạm thời. ii) Thất nghiệp không tự
nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao động chấp
nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái, cung lớn hơn cầu
về lao động. 3) Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không
tự nguyện) còn tồn tại thất nghiệp trá hình- xuất hiện khi người lao động được
sử dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm
việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó
thấp. Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian
lao động. 3) Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành i) Thất nghiệp
theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ) ii) Thất nghiệp
chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào đó trong tổng số
lực lượng lao động iii) Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng
thất nghiệp xảy ra thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền
núi…) iiii) Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở
một ngành nghề nào đó.
15

1.1.2.3. Một số học thuyết kinh tế về việc làm
Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về lao động, việc làm, việc
làm ở nông thôn. Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) xác định “Nhà
nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người lao động tự tìm
việc làm”. Đây là khâu đột phá có tính cách mạng trong lĩnh vực việc làm ở
nước ta: Nhà nước không bao cấp toàn bộ về việc làm mà bước đầu có sự kết
hợp với người lao động, gia đình và xã hội. Đến Đại hội lần thứ VII, lần đầu
tiên Đảng ta đã đưa ra phương hướng cơ bản và toàn diện về giải quyết việc
làm phù hợp với giai đoạn đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường “Coi trọng
cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giải quyết việc làm tại chỗ với phân
bố lại lao động theo vùng, lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành
các cụm kinh tế - kỹ thuật, dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ,
đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động, đa dạng hoá việc làm có thu nhập để
thu hút người lao động. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) khẳng định
“Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều kiện cho người lao động
tự mình hoặc giúp đỡ người khác tạo việc làm”. Đại hội lần thứ IX của Đảng
khẳng định:“Giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản của mỗi quốc
gia. Bằng nhiều biện pháp hằng năm tạo ra nhiều việc làm mới, tận dụng số
ngày công lao động chưa được sử dụng đến nhất là trên địa bàn nông nghiệp,
nông thôn”. Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn mạnh “Ưu tiên dành vốn đầu tư
của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm
tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển
nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút lao động. Chú trọng đào tạo
nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển
đổi do quá trình CNH, HĐH. Phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ đời
sống của người lao động ở những khu công nghiệp. Tiếp tục thực hiện
chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào
16
tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động”.
Đại hội lần thứ XI của Đảng coi “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu

nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân” là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đất nước.
Từ khi xã hội loài người xuất hiện, lao động sản xuất là hoạt động đầu
tiên và cơ bản nhất của con người. Vì hoạt động này đảm bảo cho con người
tồn tại sau đó mới có thể thực hiện được các hoạt động văn hoá, nghệ thuật,
chính trị, xã hội… Do đó, hoạt động lao động sản xuất thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế và dần hình thành hệ thống quan điểm.
Ngay từ thời kỳ cổ Hy Lạp, những người nô lệ đã là bộ phận cơ bản
của lực lượng sản xuất. Tuy vậy, họ chỉ được coi là công cụ biết nói. Trong
thời kỳ này, thái độ coi khinh lao động chân tay và đề cao lao động quản lý
được Xenopone (430 - 354 TCN) đề cập đến trong học thuyết của mình. Đến
Platon (427 - 347 TCN) đã bước đầu có tư tưởng về phân công lao động.
Đến thời tây Âu cận đại, Wiliam Petty (1623 - 1687) thì cho rằng lao
động sản xuất là nguồn gốc sáng tạo ra của cải vật chất và tiền tệ. Adam
Smith (1723 - 1790) nhận thức rõ vai trò của lợi ích kinh tế là động lực thúc
đẩy xã hội phát triển. Ông đặc biệt đề cao vai trò của lao động và coi đây là
nhân tố quan trọng để tạo ra của cải của các nước Như vậy, đến giai đoạn
này những nhà kinh tế học đã nhận thức rõ vai trò của lao động và có quan
điểm khá đầy đủ về các yếu tố liên quan đến lao động, việc làm.
Thời tây Âu hiện đại, Keynes (1883 - 1946) xuất phát từ thực tế: việc
làm tăng kéo theo thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm tăng. Song tiêu dùng tăng
chậm mà tiết kiệm lại tăng nhanh dẫn đến tiêu dùng giảm. Tiêu dùng giảm
dẫn đến cầu có hiệu quả, quy mô sản xuất, việc làm, thu nhập đều giảm.
17
Muốn khắc phục điều này, phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua việc
duy trì cầu đầu tư. Mức độ cân bằng việc làm sẽ phụ thuộc vào khối lượng
đầu tư hiện tại. Khuynh hướng tiêu dùng phản ánh mối tương quan giữa thu
nhập với số dành cho tiêu dùng được rút ra từ thu nhập đó. Keynes cho rằng ở

những người có thu nhập thấp, thu nhập bao nhiêu, tiêu dùng bấy nhiêu. Khi
chuyển sang mức thu nhập cao, con người sẽ dành ra một phần cho tiết kiệm.
Số nhân là hệ số phản ánh mỗi một sự gia tăng của đầu tư sẽ khuếch đại thu
nhập lên bao nhiêu lần. Tăng đầu tư sẽ dẫn tới cầu bổ sung công nhân, quỹ
lương, tiêu dùng, giá cả, việc làm, thu nhập, đầu tư đều tăng. Theo Keynes,
nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp là do sự giảm sút của cầu có hiệu quả, thu
hẹp quy mô sản xuất, giảm việc làm và dẫn đến thất nghiệp. Giải pháp đưa ra
là tập trung vào kích cầu: đầu tư và tiêu dùng. Kích cầu sẽ mở rộng quy mô
sản xuất, tăng việc làm, chống thất nghiệp. Ông đề cao vai trò can thiệp của
Nhà nước để đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế không thể dựa vào cơ chế
thị trường tự phát. Nhà nước phải có những biện pháp để duy trì cầu đầu tư,
thông qua những hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, các đơn đặt
hàng, hệ thống thu mua của nhà nước. Mục đích để tạo ra sự ổn định về môi
trường kinh doanh, thị trường, lợi nhuận cho các công ty. Hạn chế lớn nhất
của Keynes là xem nhẹ, bỏ qua vai trò của cơ chế thị trường và tự do kinh tế.
Ông quá say sưa với vai trò điều chỉnh can thiệp thậm chí thổi phồng vai trò
của Nhà nước.
P.A.Samuelson lại rất đề cao vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Theo
ông, kinh tế thị trường không có sự điều tiết của Nhà nước thì chẳng khác nào
muốn vỗ tay bằng một bàn tay. Lạm phát và suy thoái là căn bệnh khó tránh
khỏi của một nền kinh tế thiếu vắng sự điều tiết của Nhà nước. Để khắc phục
những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh Nhà nước phải thực hiện chính sách
điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân
18
hàng, lãi suất để can thiệp vào nền kinh tế nhằm tạo thêm việc làm và ổn định
nền kinh tế. Ông còn đưa ra lý thuyết về thất nghiệp. Đây là một trong những
vấn đề trung tâm của xã hội hiện đại. Thất nghiệp ở mức cao gây ra lãng phí
tài nguyên, thu nhập của người lao động bị giảm sút. Ông đưa ra khái niệm,
phân loại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Đặc biệt, ông đưa ra những biện pháp
giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Nhà nước sử dụng đồng bộ các chính sách

như cải thiện thị trường dịch vụ lao động; Tạo điều kiện cho người lao động
hiểu biết và tự tìm kiếm việc làm; Chú trọng đào tạo bồi dưỡng tay nghề cho
người lao động để đáp ứng được lao động cung cấp cho sự thay đổi cơ cấu và
để điều kiện tìm việc làm dễ dàng hơn; Khi người lao động có đủ điều kiện về
trình độ tay nghề, sẵn sàng làm việc thì vấn đề còn lại là ở phía Nhà nước.
Nhà nước phải có những chính sách để tạo việc làm.
Như vậy, vấn đề việc làm, giải quyết việc làm luôn thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế học từ trước đến nay. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, quan điểm về việc làm có nhiều phát hiện mới và phù hợp hơn
với thực tiễn lịch sử. Những nước đang phát triển như nước ta có thể học tập
và áp dụng những lý thuyết này vào thực tiễn.
1.2. Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
1.2.1. Khái niệm giải quyết việc làm
Tạo được việc làm cho người lao động hoặc tạo nhiều việc làm luôn
gắn với quá trình phát triển kinh tế xã hội, phát huy sức mạnh tiềm năng của
con người, phát huy trí tuệ người lao động để tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã nêu rõ “Giải quyết việc làm là
yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh
tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức
xúc của nhân dân” [7], [12]quyết việc làm cho người lao động là cần thiết,
không những mang tầm quốc gia mà vượt ra bên ngoài khu vực và thế giới.
19
Tuỳ thuộc vào các cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà
người ta đưa ra khái niệm về giải quyết việc làm. Trong luận văn này, học
viên đưa ra khái niệm.
Giải quyết việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các
chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các
việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử
dụng lao động, đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Với khái niệm trên, việc giải quyết việc làm không chỉ có nhiệm vụ

chức năng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan
doanh nghiệp và ngay bản thân người lao động. Hiện nay, các chính sách của
Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến tạo công ăn việc làm cho người lao
động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, chính sách
hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, chính
sách nhà nước là một trong những tác động quan trọng rất mạnh đến việc làm
của người lao động như khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất
như giảm thuế tiền sử dụng đất, thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về cơ sở
hạ tầng điện đường, trường trạm nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất
Chính sách chính sách nhà nước tác động toàn diện đến vấn đề giải quyết việc
làm. Bên cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát triển, các hoạt động cụ
thể của các doanh nghiệp tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm cho người
lao động như đào tạo nguồn lao động, tuyển dụng, bố trí sắp xếp lao động phù
hợp năng lực và yêu cầu
Trong khái niệm trên, giải quyết việc làm còn có một ý nghĩa là tạo
thêm được công ăn việc làm mới cho người lao động. Ở đây là tạo thêm công
ăn việc làm mới cho người lao động mang tính chất là người lao động đang
không có việc làm nay có việc làm chứ không phải là người lao động đang đi
làm có thêm được việc làm khác nữa. Với khái niệm như vậy, theo cách hiểu
20

×