Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

HƯỚNG ĐẾN VIỆC ĐỊNH NGHĨA MỘT HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HIỆU SUẤT KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.35 KB, 19 trang )

1
HƯỚNG ĐẾN VIỆC ĐỊNH NGHĨA MỘT HỆ THỐNG ĐO
LƯỜNG HIỆU SUẤT KINH DOANH
Tóm tắt
Cơ sở lý luận: Các chuyên gia trong lĩnh vực đo lường hiệu suất có xu hướng sử dụng các
thuật ngữ trong hệ thống đo lường hiệu suất kinh doanh (BPM) mà không hề đưa ra lời giải thích
về các thuật ngữ đó. Việc đó sẽ tạo ra các nhầm lẫn, tạo nên vấn đề so sánh, và cũng khiến các
nhà nghiên cứu gặp khó khăn khi sử dụng những thuật ngữ này.
Mục đích: Mục đích của bài nghiên cứu này là để xác định các đặc điểm quan trọng của một
hệ thống BPM. Bằng cách xem xét các định nghĩa khác nhau của một hệ thống BPM đã có trong
tài liệu trước. Thông qua việc này, chúng ta hướng đến mở ra các tranh luận về điều kiện cần và
đủ của một hệ thống BPM. Chúng tôi hy vọng sẽ tạo nên sự rõ ràng hơn trong việc nghiên cứu
đo lường hiệu suất.
Phương pháp: Xem xét các tài liệu đo lường hiệu suất theo một cách tiếp cận có hệ thống.
Kết quả: Dựa trên các nghiên cứu, từ đó đề xuất một tập hợp các điều của một hệ thống
BPM mà từ đó các nhà nghiên cứu có thể lựa chọn các điều kiện cần và đủ cho các bài nghiên
cứu của họ.
Ý nghĩa nghiên cứu: Những phân tích trong bài nghiên cứu này cung cấp một cấu trúc và
tập hợp các đặc điểm mà các nhà nghiên cứu có thể sử dụng như một khuôn khổ tham khảo để
xác định hệ thống BPM cho công việc của họ, và như một cách để xác định trọng tâm cụ thể của
cuộc điều tra của họ. Chi tiết và chính xác hơn xung quanh việc sử dụng các cụm từ thuật ngữ
trong hệ thống BPM sẽ cải thiện khả năng khái quát hóa và so sánh các nghiên cứu trong lĩnh
vực này.
Từ khóa: Hệ thống đo lường hiệu suất kinh doanh, đo lường hiệu suất, hiệu quả quản lý,
định nghĩa, nghiên cứu tài liệu.
Giới Thiệu
2
Các lĩnh vực của BPM
(1)
thiếu một cơ chế gắn kết các kiến thức (Marr and Schiuma, 2003).
Các nhà nghiên cứu quản lý trong các lĩnh vực đa dạng như quản lý chiến lược, quản lý điều


hành, nguồn nhân lực, hành vi tổ chức, hệ thống thông tin, marketing, và quản lý kế toán và kiểm
toán đều đóng góp cho lĩnh vực đo lường hiệu suất (Neely 2002; Marr and Schiuma, 2003;
Franco-Santos and Bourne, 2005). Mặc dù nghiên cứu đa dạng và đa ngành là rất hấp dẫn, nó
cũng có thể nuôi dưỡng các biến cố. Những cách tiếp cận khác nhau đối với đo lường hiệu suất
đã dẫn đến nhiều định nghĩa về một hệ thống BPM
(2)
, và có rất ít sự thống nhất về các thành
phần chính và đặc điểm (Dumond, 1994).
Việc thiếu đồng thuận về một định nghĩa gây ra sự nhầm lẫn và giới hạn chi tiết cho khả
năng khái quát hóa và so sánh các nghiên cứu trong lĩnh vực này. Điểm này cũng được minh họa
bằng cách xem xét các định nghĩa hệ thống BPM được tìm thấy trong các tài liệu. Theo quan
điểm điều hành, hệ thống BPM chủ yếu được xem như một “Tập hợp các số liệu được sử dụng
để định lượng cả hiệu quả và hiệu suất của các hoạt động” (Neely cùng cộng sự, 1995), hay như
là quá trình báo cáo đó phản hồi lại cho nhân viên về kết quả của các hoạt động (Bititci cùng
cộng sự, 1997). Theo quan điểm điều hành chiến lược, hai khía cạnh khác nhau của hệ thống
BPM có thể được xác định. Một mặt nó phản ánh các quy trình được ủy thác (cascade down)
xuống các số liệu hiệu suất dùng để triển khai các chiến lược trong tổ chức (Gates, 1999). Mặt
khác BPMS không chỉ là hệ thống cho phép tổ chức ủy thác đo lường hiệu suất kinh doanh, mà
còn cung cấp các thông tin cần thiết để thử thách các nội dung và hiệu lực của chiến lược (Ittner
at al, 2003). Theo quan điểm kế toán quản trị một hệ thống BPM gắn liền với việc lập kế hoạch
quản lý và ngân sách (Otley, 1999).
1
Bài viết tập trung vào hệ thống đo lường hiệu suất hoạt động “kinh doanh”, trái ngược với hệ thống đo lường
hiệu suất hoạt động "tổ chức”. Thuật ngữ “kinh doanh” dùng để loại trừ các từ ngữ công khai và không có lợi
nhuận.
2
Bài viết tập trung vào các cụm từ “Hệ thống đo lường hiệu suất kinh doanh” như là đơn vị phân tích. Đó là
giả định rằng BPMS là sự kết hợp độc đáo của các yếu tố. Nó có thể là một hệ thống rời rạc hoặc chi tiết hoặc là
một tập hợp các hệ thống con hiện có, tuy nhiên với sự kết hợp của các hệ thống con đó làm cho BPMS trở thành
duy nhất. Thuật ngữ “hệ thống” trong cụm từ này được sử dụng nhất quán trong các tài liệu. Một số trường hợp

thuật ngữ này có thể không được công nhận là “hệ thống” theo một số khía cạnh lý thuyết. Tuy nhiên, thay vì cố
gắng giải quyết những khác biệt ngữ nghĩa và lý thuyết, chúng ta chấp nhận tất cả các mục đích sử dụng của thuật
ngữ “hệ thống” là hợp lệ theo từng bối cảnh sử dụng.
Mục đích chính của bài viết này không phải cung cấp thêm một định nghĩa khác, chính xác
hơn là để xác định các đặc điểm quan trọng của một BPMS dựa trên việc xem xét lại các định
nghĩa trong các tài liệu trước. Để định nghĩa một khái niệm, điều cốt yếu là xác định được các
3
điều kiện cần và đủ
(3)
để nó tồn tại (Brennan, 2003). Vì vậy điều này tìm cách khuyến khích một
cuộc tranh luận trong cộng đồng khoa học và học viên liên quan đến các yếu tố chính của hệ
thống đo lường hiệu quả kinh doanh. Cuộc đối thoại đa chiều này, hy vọng sẽ dẫn đến một định
nghĩa chung và toàn diện của một BPMS.
Xét về những tác động trực tiếp hơn đến lĩnh vực nghiên cứu, chúng ta tin rằng chi tiết về
BPMS bao gồm có thể cải thiện đáng kể khả năng so sánh và nhân rộng các nghiên cứu được tiến
hành trong lĩnh vực đo lường hiệu suất kinh doanh, các học giả sử dụng cụm từ “BPMS” mà
không chỉ rõ những yếu tố họ đang tập trung vào hay những điều kiện hiện diện trong bối cảnh
thực nghiệm mà họ nghiên cứu. Để đảm bảo sự hiểu biết rõ hơn của các nghiên cứu này, và khả
năng so sánh các kết quả thích hợp, điều quan trọng là các nhà nghiên cứu lập báo cáo rõ ràng
trong đó điều kiện được coi là điều kiện cần hoặc đủ cho sự tồn tại của BPMS trong mỗi nghiên
cứu. Hơn nữa, chúng tôi tin rằng việc so sánh, dựa trên sự hiểu biết thấu đáo về những gì mỗi
phần nghiên cứu đòi hỏi, là một yêu cầu cơ bản để đóng góp cho cả lý thuyết và thực hành và
cuối cùng dẫn đến quản lý dựa trên bằng chứng (cf. Rousseau, 2006; Pfeffer & Sutton, 2006).
Bài viết có cấu trúc như sau. Thứ nhất, nó cung cấp một đánh giá toàn diện và phân tích các
định nghĩa khác nhau của hệ thống BPM có thể được tìm thấy trong các tài liệu về đo lường hiệu
suất. Thứ hai, dựa trên phân tích của chúng ta về các định nghĩa của các hệ thống BPM, nó cho
thấy các yếu tố khác nhau mà một hệ thống BPM có thể có. Thứ ba, những phát hiện của chúng
ta sẽ được thảo luận và một tập hợp các điều kiện cần và đủ của một hệ thống BPM được trình
bày. Cuối cùng, những hạn chế và kết luận của cuộc nghiên cứu của được vạch ra.
Đối với một cuộc thảo luận toàn diện hơn và định nghĩa của thuật ngữ "hệ thống", vui lòng tham khảo

Checkland (1999); Klir (1991) hoặc Marion (1999).
3
Một điều kiện “Cần” là một điều kiện nếu thiếu nó thì một vật sẽ không là chính nó. Ví dụ nếu một vật không
phải là thực vật thì nó không phải là hoa, vì vậy thực vật là điều kiện cần thiết để trở thành bông hoa. Điều kiện
“đủ” chỉ là một cách hiện hữu của vật nào đó, ví dụ hoa cúc là một loài hoa, tuy nhiên không phải hoa cúc không
có nghĩa không thể là hoa, nó có thể là hoa hồng, Vì vậy “hoa cúc” có thể là điều kiện đủ của một bông hoa
(Brennan, 2003)
Phương pháp
Định nghĩa của hệ thống BPM đã được đề xuất bởi các học giả đến từ một số ngành.
Để tạo phạm vi nghiên cứu tài liệu, chúng tôi đi theo một phương pháp có hệ thống. Đầu
tiên, chúng tôi sử dụng hai cơ sở dữ liệu điện tử khác nhau để tìm kiếm tài liệu tham khảo
4
then chốt trong lĩnh vực đo lường hiệu suất. Các cơ sở dữ liệu điện tử là ABI-ProQuest,
và EBSCO. Chúng tôi tìm kiếm những cơ sở dữ liệu bằng cách sử dụng từ khóa "hệ
thống đo lường hiệu suất. Trong cơ sở dữ liệu cũ, chúng tôi tìm thấy 2041 tài liệu tham
khảo; trong trường hợp sau là 239. Thứ hai, chúng tôi đã chọn nghiên cứu liên quan đến
từ các cơ sở dữ liệu. Nghiên cứu có liên quan là những thỏa các tiêu chí lựa chọn sau đây:
(1) nghiên cứu hướng vào đo lường hiệu quả kinh doanh; (2) nghiên cứu được công bố
trên tạp chí chuyên gia khoa học phản biện; (3) nghiên cứu trong khu vực tư nhân; và (4)
nghiên cứu sau năm 1980. Tiêu chuẩn cuối cùng này đã được đưa vì sự thay đổi trong
quan điểm đã diễn ra trong năm 1980, mà đo lường hiệu suất chuyển từ việc phải tập
trung tài chính thuần túy sang bao gồm những đặc điểm kinh doanh toàn diện hơn (ví dụ
như Kaplan, 1983).
Trong tổng số các bài báo tìm thấy, 205 bài đã được thông qua các tiêu chí lựa chọn
của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đọc những bài báo này để tìm kiếm định nghĩa hệ thống
BPM. Trong khi đọc những bài viết, chún tôi ghi chú lại về tiềm năng tham khảo chéo mà
có thể có liên quan đến nghiên cứu của chúng tôi. Thông qua quá trình này ở 132 tài liệu
khác, bao gồm không chỉ các bài báo mà còn sách, các chương trong sách, các bài báo
hội thảo và các bài báo hoạt động, đã được xác định và bao gồm. Tổng cộng, hơn 300 tài
liệu đã được xem xét, nhưng nhóm nghiên cứu chỉ thông qua có mười bảy định nghĩa

khác nhau của hệ thống BPM.
Để đánh giá mức độ được biết đến rộng rãi và có liên quan đối với các định nghĩa
được tìm thấy trong các tài liệu, chúng tôi đã tiến hành một phân tích trích dẫn các bài
báo có chứa các định nghĩa. Chúng tôi sử dụng ba cơ sở dữ liệu khác nhau để thực hiện
phân tích này là: chỉ số trích dẫn khoa học xã hội, Scopus và Google Scholar. Phải lưu ý
rằng kiểu phân tích này sẽ thi hành trùng lặp ngẫu nhiên. Điều này có nghĩa rằng các trích
dẫn của một bài báo trong một cơ sở dữ liệu có thể được tìm thấy trong hai cơ sở dữ liệu
khác; do đó, các bản tóm tắt của các trích dẫn trên mỗi bài báo trên ba cơ sở dữ liệu
không thể được thực hiện. Rõ ràng với việc phân tích trích dẫn mà chúng tôi đã tiến hành
có thể bị chỉ trích với lý do các trích dẫn được thực hiện trên lý thuyết hơn là định nghĩa.
5
Tuy nhiên, chúng tôi đã giả định rằng các bài viết được trích dẫn thường xuyên nhất là
những bài được nhiều người đọc nhất và do đó, nếu các báo chứa các định nghĩa thường
xuyên được trích dẫn, chúng cũng dễ dàng được biết đến là điều hợp lý.
Định nghĩa hệ thống BPM
Các định nghĩa được lựa chọn từ các tài liệu và các kết quả phân tích trích dẫn được
thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1.Định nghĩa được chọn trong hệ thống BPM
Tác giả Năm Định nghĩa Trích dẫn
SSCI Scopus GS
At-kin-son 1998 "Đo lường hiệu suất chiến lược xác định trọng tâm và
phạm vi của kế toán quản trị [ ] Quá trình đo lường hiệu
suất chiến lược bắt đầu với chủ sở hữu của tổ chức xác
định mục tiêu chính của tổ chức [ ] nhà hoạch định tổ
chức thực hiện các hoạt động lập kế hoạch chiến lược để
xác định làm thế nào họ sẽ theo đuổi mục tiêu chính của
tổ chức [ ] các kết quả của kế hoạch chiến lược được lựa
chọn trong một tập hợp các hợp đồng chính thức và không
chính thức giữa các tổ chức và các bên liên quan của nó
[ ] Việc cho và nhận giữa tổ chức và các bên liên quan

quan trọng của nó sẽ xác định mục tiêu thứ cấp của tổ
chức. Mục tiêu thứ cấp xuất phát từ tầm quan trọng từ
hiệu ứng giả định về mức độ đạt được các mục tiêu chính.
Mục tiêu thứ cấp rất quan trọng bởi vì chúng là các biến
mà các nhân viên của tổ chức sử dụng để thúc đẩy thành
công – được xác định như hiệu suất mong muốn trên mục
tiêu chính của tổ chức [ ] Khi nhân viên giám sát mức độ
đạt được các mục tiêu chủ yếu và thứ yếu, họ có thể sử
dụng các kết quả dữ liệu để xem xét lại niềm tin của họ
0 4 14
6
hoặc mô hình về mối quan hệ giữa các mục tiêu thứ cấp
của họ và mục tiêu chính của tổ chức – một tiến trình của
tổ chức học tập [ ] bước cuối cùng trong đo lường hiệu
suất chiến lược là gắn động lực vào kết quả đo lường hiệu
suất "(p. 553- 555).
"Cách tiếp cận của chúng tôi để đo lường hiệu suất tập
trung vào đầu ra của hoạch định chiến lược: sự lựa chọn
quản lý cấp cao về bản chất và phạm vi của các hợp đồng
mà nó thương lượng, cả hai phải rõ ràng và hoàn toàn, với
các bên liên quan của nó. Hệ thống đo lường hiệu suất là
công cụ công ty sử dụng để theo dõi những mối quan hệ
hợp tác "(p. 26)
Bititci,
Carrie
& Mcdevitt
1997 "Một hệ thống đo lường hiệu suất là hệ thống thông tin là
trung tâm của quá trình quản lý hiệu quả và nó có tầm
quan trọng đối với chức năng hiệu quả và hiệu suất của hệ
thống quản lý hiệu suất" (p. 533)

25 0 128
Bourne,
Neely, Mills
& Platts
"Một hệ thống đo lường hiệu quả kinh doanh liên quan đến
việc sử dụng một tập hợp đa chiều của các thang đo về
hoạch định và quản lý một doanh nghiệp" (p. 4)
0 11
Forza &
Salvado
r
"Một hệ thống đo lường hiệu suất là một hệ thống thông
tin hỗ trợ các nhà quản lý trong quá trình quản lý hoạt
động chủ yếu thực hiện hai chức năng chính: đầu tiên bao
gồm việc cho phép và liên kết giao tiếp giữa tất cả các đơn
vị tổ chức (cá nhân, nhóm, quy trình, chức năng, vv) liên
quan đến quá trình thiết lập mục tiêu. Điều thứ hai là thu
thập, xử lý và truyền tải thông tin về hiệu suất của con
người, hoạt động, quy trình, sản phẩm, đơn vị kinh doanh,
vv "(p.359).
1 4 4
Gates "Một hệ thống đo lường hiệu suất chiến lược chuyển đổi
chiến lược kinh doanh thành kết quả chuyển giao. Kết hợp
6
7
các thang đo tài chính, chiến lược và vận hành để đánh giá
một công ty đáp ứng các mục tiêu của mình như thế nào
"(p. 4).
Ittner.,
Larcker

& Randall
"Một hệ thống đo lường hiệu suất chiến lược: (1) cung cấp
thông tin cho phép các công ty xác định các chiến lược sản
phẩm có tiềm năng cao nhất để đạt được mục tiêu của
công ty, và (2) gắn các quá trình quản lý, chẳng hạn như
thiết lập mục tiêu, ra quyết định, và đánh giá hiệu suất ,
với việc đạt được các mục tiêu chiến lược được lựa chọn
"(p.715).
14 25
Kaplan &
Norton
Một bảng điểm cân bằng là một tập hợp toàn diện các
thang đo hiệu suất được xác định từ bốn khía cạnh đo
lường khác nhau (tài chính, khách hàng, nội bộ và học hỏi-
tăng trưởng) cung cấp một khuôn khổ cho việc biến các
chiến lược kinh doanh thành các hoạt động (p 55).
23 42 130
Kerssens-
van
Drongelen
& Fisscher
"Đo lường và báo cáo Hiệu suất diễn ra ở 2 cấp độ: (1)
công ty như một toàn thể, báo cáo cho các bên liên quan
bên ngoài, (2) trong công ty, giữa các nhà quản lý và cấp
dưới. Ở cả 2 cấp có 3 loại đối tượng: (a) người đánh giá
(ví dụ như các nhà quản lý, các bên liên quan bên ngoài),
(b) người được đánh giá (ví dụ như quản lý cấp trung,
công ty), (c) người giám định, đó là người hoặc tổ chức
đánh giá hiệu quả và hiệu suất của việc đo lường hiệu suất
và báo cáo quá trình, kết quả đầu ra của nó (ví dụ như

controller, kế toán kiểm toán độc lập) "(p.52)
0 2
Lebas 1995 “Thang đo hiệu suất là một hệ thống mà ủng hộ triết lý
quản lý hiệu suất” (p.34). Một hệ thống thang đo hiệu suất
bao gồm các thang đo hiệu suất mà có thể là các nhân tố
thành công then chốt, thang đo để tìm ra sự chệch hướng,
thang đo để lần theo những thành tựu trong quá khứ, thang
0 39
8
đo để mô tả trạng thái tiềm năng, thang đo cho đầu ra,
thang đo cho đầu vào… Một hệ thống thang đo hiệu suất
có thể bao gồm một thang đo mà sẽ tiếp tục kiểm tra tính
hiệu lực của mối quan hệ nhân quả giữa các thang đo.
Lynch &
Cross
1991 "Một hệ thống đo lường hiệu suất chiến lược dựa trên khái
niệm về quản lý chất lượng, kỹ thuật công nghiệp, kế toán
hoạt động. Một hệ thống giao tiếp 2 chiều được yêu cầu để
khởi tạo tầm nhìn chiến lược trong tổ chức. Kế toán quản
trị phải được tham gia vào cuộc cách mạng thông tin và
gợi ý về cách để làm điều này bao gồm: (1) cung cấp các
thông tin chính xác vào đúng thời điểm, (2) chuyển từ
scorekeeper sang coach, và (3) tập trung vào những gì cốt
yếu nhất. Giải thích các tín hiệu tài chính và phi tài chính
của doanh nghiệp và đáp ứng cho họ ngay cả khi họ không
đồng ý là một vấn đề quản lý, không phải là một vấn đề kế
toán. "
49
Maisel 2001 "Một hệ thống BPM cho phép một doanh nghiệp lập kế
hoạch, đo lường và kiểm soát hiệu quả và giúp đảm bảo

rằng doanh số bán hàng và sáng kiến marketing, thực tiễn
điều hành, nguồn lực công nghệ thông tin, quyết định kinh
doanh, và các hoạt động của mọi người là phù hợp với
chiến lược kinh doanh để đạt được kết quả kinh doanh như
mong muốn và tạo ra giá trị cổ đông. "(tr. 12)
0 2
McGee 1992 "Đo lường hiệu suất chiến lược là tập hợp các quy trình
quản lý mà liên kết được chiến lược với việc thực hiện" (p.
B6-1). Các thành phần của một hệ thống đo lường hiệu
suất chiến lược là: "(1) số liệu hiệu suất - Xác định các tiêu
chí đánh giá và các thang đo đó sẽ hoạt động như các chỉ
số dẫn dắt về hiệu suất so với các mục tiêu và các sáng
kiến chiến lược tương ứng. (2) sự liên kết quá trình quản lý
0 0
9
- quá trình thiết kế và quá trình tái cấu trúc quản lý cốt lõi
để kết hợp số liệu hiệu suất mới khi họ phát triển, và cân
bằng các quá trình quản lý khác nhau của tổ chức để củng
cố lẫn nhau. Các quá trình bao gồm: lập kế hoạch và phân
bổ nguồn vốn, quản lý đánh giá hoạt động về phạt và các
phần thưởng, và các mối quan hệ với các bên liên quan. (3)
Cơ sở hạ tầng về đo lường và báo cáo: thiết lập các quy
trình và hỗ trợ cơ sở hạ tầng công nghệ để thu thập các dữ
liệu thô cần thiết cho tất cả các số liệu hiệu suất của một tổ
chức và phổ biến các kết quả trong tổ chức khi cần thiết "(.
P B6-2 & 3)
Neely 1998 Một hệ thống đo lường hiệu suất cho phép thông báo quyết
định được thực hiện và hành động sẽ được thực hiện bởi vì
nó đánh giá về sự hiệu quả và hiệu quả của các hành động
quá khứ thông qua việc mua lại, đối chiếu, phân loại, phân

tích, giải thích và phổ biến các dữ liệu thích hợp. Tổ chức
đo lường hiệu suất của họ để kiểm tra vị trí của họ (như là
một phương tiện để thiết lập vị trí, so sánh vị trí hoặc điểm
chuẩn, giám sát tiến độ), vị trí giao tiếp của họ (như là một
phương tiện để giao tiếp hiệu quả trong nội bộ và với các
điều chỉnh), xác nhận ưu tiên (như là một phương tiện để
quản lý hiệu quả, chi phí và kiểm soát, tập trung đầu tư và
hành động), và tiến trình bắt buộc (như là một phương tiện
động lực và phần thưởng) (p.5-6)
29
Neely,
Gregory &
Platts
1995 Một hệ thống đo lường hiệu suất (PMS) là "tập hợp các số
liệu được sử dụng để định lượng cả hiệu quả và hiệu quả
của các hành động" (p. 81). Một PMS có thể được xem xét
ở ba cấp độ khác nhau. (1) Ở cấp độ của các biện pháp
hiệu suất cá nhân, PMS có thể được phân tích bằng cách
hỏi những câu hỏi như: các biện pháp thực hiện gì được sử
dụng? Chúng được dùng để làm gì? Có chi phí bao nhiêu?
Những lợi ích gì mà họ cung cấp? (2) Ở cấp cao hơn kế
tiếp, hệ thống đo lường hiệu suất như một thực thể, có thể
được phân tích bằng cách khám phá các vấn đề như: Có tất
cả các yếu tố thích hợp (nội, ngoại, tài chính, phi tài chính)
được bảo hiểm? Các biện pháp liên quan đến việc cải thiện
tỷ lệ được đưa ra chưa? Các biện pháp có liên quan đến cả
hai mục tiêu dài và ngắn hạn của các doanh nghiệp đã
42 107 243
10
được giới thiệu? các biện pháp được tích hợp, cả hai theo

chiều dọc và chiều ngang? Làm bất cứ biện pháp xung đột
với nhau? (3) Và ở mức độ của mối quan hệ giữa các hệ
thống đo lường hiệu suất và môi trường mà nó hoạt động.
Ở cấp độ này hệ thống có thể được phân tích bằng cách
đánh giá: Cho dù các biện pháp củng cố chiến lược của
công ty; liệu các biện pháp phù hợp với văn hóa của tổ
chức; liệu các biện pháp phù hợp với việc công nhận và
khen thưởng cấu trúc hiện có; cho dù một số biện pháp tập
trung vào sự hài lòng của khách hàng; cho dù một số biện
pháp tập trung vào việc cạnh tranh đang thực hiện (p.)
Roger 1990 Hệ thống BPM có thể được mô tả như là "một tập hợp các
thủ tục quy hoạch và rà soát mà đưa xuống thông qua tổ
chức để cung cấp một liên kết giữa từng cá nhân và chiến
lược tổng thể của tổ chức." (Smith & Goddard, 2002, p.
248)
- 0 24
Otley 1999 "Hệ thống cung cấp các thông tin đó là nhằm có ích cho
các nhà quản lý trong việc thực hiện công việc của họ và
hỗ trợ các tổ chức trong việc phát triển và duy trì mô hình
khả thi của hành vi. Bất kỳ đánh giá về vai trò của thông
tin đó cần phải xem xét cách quản lý sử dụng các thông tin
được cung cấp cho họ "(p. 364). Thành phần chính của
một PMS: (1) mục tiêu, (2) chiến lược, (3) chỉ tiêu, (4)
phần thưởng, (5) các luồng thông tin (thông tin phản hồi
và feed-forward).
- 50 136
Các định nghĩa của hệ thống BPM thông qua tài liệu cũ đã chứng minh sự đa dạng của
đối tượng và thiếu sự đồng thuận về một định nghĩa. Mỗi định nghĩa cho một cái nhìn
khác nhau về khái niệm, và không có hai định nghĩa thống nhất về các đặc điểm chính
xác. Mỗi tác giả trích dẫn định nghĩa hệ thống BPM từ một góc độ khác nhau, và không

nên sử dụng các loại khác nhau của các đặc điểm để lấy được định nghĩa của họ. Phân
tích ban đầu của các định nghĩa cho thấy rằng cơ sở của các định nghĩa là một hoặc một
sự kết hợp của (1) các tính năng của hệ thống BPM; (2) Các vai trò trong hệ thống BPM ;
và (3) Các bước quy trình của hệ thống BPM. Để được chính xác hơn, các tính năng của
một hệ thống BPM là tài sản hoặc các yếu tố đó tạo nên hệ thống BPM; vai trò của một
hệ thống BPM là mục đích hoặc các chức năng được thực hiện bởi hệ thống BPM; và các
quá trình của hệ thống BPM là một loạt các hành động mà kết hợp với nhau để tạo thành
hệ thống BPM.
11
Để xác định các đặc điểm quan trọng của một hệ thống BPM, mười bảy định nghĩa được
tìm thấy trong các tài liệu là nội dung phân tích. Do đó, chúng tôi tiến hành ba phân tích
khác nhau. Thứ nhất, các nội dung của mười bảy định nghĩa đã được kiểm tra để xác định
các tính năng chính của một hệ thống BPM. Thứ hai, nội dung của các định nghĩa đã
được kiểm tra để xác định vai trò mà một hệ thống BPM đóng trong một tổ chức. Cuối
cùng, nội dung của các định nghĩa đã được kiểm tra để làm rõ các quá trình diễn ra trong
một hệ thống BPM. Mỗi nội dung phân tích được thực hiện bởi hai đội khác nhau của các
nhà nghiên cứu để làm tăng hiệu lực của phân tích. Các kết quả đầu ra từ cả hai đội đã
được chia sẻ và thảo luận, và một danh sách xác định các đặc điểm hệ thống BPM đã
đồng ý.
Các đặc điểm của một hệ thống BPM
Các đặc điểm thu được là kết quả của việc phân tích nội dung được trình bày trong bảng
2, 3 và 4. Các cột bên trái của mỗi bảng mô tả các đặc trưng được tìm thấy trong các định
nghĩa với các cột hiển thị trong đó các định nghĩa các đặc điểm có thể được tìm thấy .
Bảng 2: Đặc điểm chính của hệ thống BPM
Atkinson (1998)
At. el al. (1997)
Bititci cùng cộng sự (1997)
Bourne cùng cộng sự (2002)
Forza & Salvador (2000)
Gates (1999)

Ittner cùng cộng sự (2003)
Kaplan & Norton (1996)
Kesens-van Drongelen & Fisscher (2003)
Lebas (1995)
Lynch & Cross (1990)
Maisen (2001)
McGee (1992)`
Neely (1998)
Neely cùng cộng sự (1995)
Otley (1999)
Roger (1990)
Tổng phần trăm
1. Thang đo hiệu suất ( bao
gồm đặc điểm: đa biến, dẫn
đầu/tụt hậu, hiệu suất/hiệu
quả, nội bộ/ bên ngoài, theo
chiều dọc/ngang, tích hợp/đa
cấp)
x x x x x x x x x 53
2. Mục tiêu/mục đích (đề
cập đến mục tiêu chiến
lược)
x x x x x x 35
3. Hỗ trợ về CSVC (gồm
việc thu thập dữ liệu, đối
x x x x 29
12
chiếu, phân loại, phân tích,
giải thích và phổ biến
(neely,1998)

4. Mục tiêu x x x x 24
5. Mô hình nhân quả x 12
6. Cấp bậc/thứ bậc x x 12
7. Hợp đồng hiệu suất x x 12
8. Phần thưởng x x 12


Bảng 3: Vai trò của hệ thống BPM


Atkinson (1998)
At. el al. (1997)
Bititci cùng cộng sự (1997)
Bourne cùng cộng sự (2002)
Forza & Salvador (2000)
Gates (1999)
Ittner cùng cộng sự (2003)
Kaplan & Norton (1996)
Kesens-van Drongelen & Fisscher (2003)
Lebas (1995)
Lynch & Cross (1990)
Maisen (2001)
McGee (1992)`
Neely (1998)
Neely cùng cộng sự (1995)
Otley (1999)
Roger (1990)
Tổng phần trăm
1. Thực hiện/thực thi chiến lược x x x x x x x x x x 59
2. Tập trung sự chú ý/ cung cấp

mối liên hệ
x x x x x x x 41
3. Truyền thông nội bộ x x x x x x x 41
4. Đo lường/ đánh giá hiệu suất x x x x x x x 41
5. Quản lý quy trình x X x x x x 35
6. Hoạch định x x x x 29
7. Truyền thông bên ngoài x x x 24
8. Phần thưởng x x x 24
9. Cải tiến hiệu suất x x 12
10. Quản lý mối quan hệ x X 12
11. Phản hồi x 12
12. Double-loop learning x x 12
13. Xây dựng chiến lược x 12
14. Chấm điểm x 6
15. Tuân thủ quy định x 6
16. Kiểm soát x 6
17. Ảnh hưởng hành vi x 6
Bảng 4: Quy trình chính của hệ thống BPM
13
Atkinson (1998)
At. el al. (1997)
Bititci cùng cộng sự (1997)
Bourne cùng cộng sự (2002)
Forza & Salvador (2000)
Gates (1999)
Ittner cùng cộng sự (2003)
Kaplan & Norton (1996)
Kesens-van Drongelen & Fisscher (2003)
Lebas (1995)
Lynch & Cross (1990)

Maisen (2001)
McGee (1992)`
Neely (1998)
Neely cùng cộng sự (1995)
Otley (1999)
Roger (1990)
Tổng phần trăm
1. Điều kiện thông tin
x x x x x x x x x 53
2. Thiết kế/lựa chọn thang đo
x x x x x 29
3. Lưu trữ dữ liệu
x x x x x 29
4. Thiết lập mục tiêu
x x x 18
5. Phần thưởng
x x x 18
6. Nhu cầu và mong muốn của
các bên liên quan
x x 12
7. Đặc điểm của mục tiêu chiến
lược
x x 12
8. Phân tích dữ liệu
x x 12
9. Ra quyết định
x x 12
10. Đánh giá hiệu suất
x x 12
11. Giải thích

x 6
12. Thủ tục đánh giá
x 6
13. Hoạch định
x 6
Thảo luận
Nghiên cứu này đã kiểm tra một tập hợp các định nghĩa một cách hệ thống về BPM
được tìm thấy trong các tài liệu về thang đo hiệu suất trong khu vực tư nhân. Mục đích
chính của việc định nghĩa hệ thống BPM là để xác định các đặc điểm cần thiết và đầy đủ,
toàn diện cho sự tồn tại của một hệ thống BPM. Sau khi tiến hành nghiên cứu tài liệu và
đọc hơn 300 tài liệu (bao gồm các bài báo, sách, giấy tờ hội nghị và các giấy tờ làm việc),
chúng tôi thấy chỉ có mười bảy định nghĩa về hệ thống BPM. Phát hiện này có ý nghĩa
quan trọng đối với các tài liệu thang đo hiệu suất. Nó cho thấy rằng phần lớn các nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực này không định nghĩa một cách rõ ràng những gì họ đang đề
cập đến khi họ sử dụng các cụm từ về hệ thống BPM. Điều này hàm ý rằng sẽ khó khăn
cho người đọc để hiểu chính xác những gì các nhà nghiên cứu đang điều tra cũng như
14
khó khăn trong việc so sánh các nghiên cứu khác nhau, khái quát và rút ra kết luận về cấu
trúc nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Sự hiểu biết và so sánh rõ ràng của nghiên cứu là quan trọng vì sự đa dạng của các
phương pháp được sử dụng để xem xét thang đo hiệu suất trong tổ chức. Sự không đồng
nhất này được thể hiện qua các đặc điểm rút ra từ các định nghĩa đã được phân tích ở
trên. Hệ thống BPM đã được mô tả theo tính năng, vai trò và quy trình, nhưng không có
sự thống nhất chung về các đặc điểm này giữa các định nghĩa. Như vậy, mặc dù các nhà
nghiên cứu có thể giả định rằng có một thống nhất chung về một hệ thống BPM, nhưng
nghiên cứu này cho thấy rằng giả định này là sai lầm. Từ kết quả, có thể lập luận rằng
nếu các lĩnh vực đo lường hiệu suất được phát triển và trở nên phù hợp hơn giữa lý thuyết
và thực hành thì sau đó các nhà nghiên cứu cần phải nghiên cứu cụ thể hơn và rõ ràng về
các đặc tính của hệ thống mà họ đang theo nghiên cứu. Nếu không, khả năng khái quát và
so sánh của nghiên cứu sẽ rất khó để xem xét, và điều này có tác động mạnh mẽ đến sự

phát triển của lĩnh vực nghiên cứu và tác động của nó trên thực tế.
Như đã đề cập trước đó, có rất ít sự đồng thuận về các đặc điểm của một hệ thống
BPM. Tuy nhiên, chúng tôi đã tìm thấy một số đồng thuận về hai tính năng của hệ thống
BPM: 53% của các tác giả đề cập đến "các thang đo hiệu suất"; và 35% cho "mục tiêu /
mục đích" như là các tính năng của hệ thống BPM. Ngoài ra còn có một số đồng thuận về
năm vai trò của hệ thống BPM: 59% xem xét " thực hiện / thi hành chiến lược"; 41% đề
nghị "tập trung sự chú ý / cung cấp sự liên kết", "truyền thông nội bộ" và "đo lường/đánh
giá hiệu suất"; và 35% của các tác giả đề cập đến "giám sát tiến độ" như vai trò của hệ
thống BPM. Cuối cùng, có một số thỏa thuận liên quan đến một quá trình của hệ thống
BPM. Đó là "cung cấp thông tin", đã được trích dẫn bởi 53% các tác giả. Các đặc tính
còn lại được tìm thấy trong các định nghĩa được sử dụng bởi năm hoặc ít hơn 5 người.
Thật thú vị khi phần lớn các tác giả tập trung vào chỉ một vài yếu tố từ danh sách. Neely
(1998) là tác giả duy nhất đề cập rất nhiều các yếu tố với nhau (trích dẫn 51% các yếu tố
trong định nghĩa của ông).
15
Như đã thảo luận trong phần giới thiệu, để xác định một cái gì đó nó là cần thiết thì
phải xác định các điều kiện cần và đủ của nó. Như chúng tôi đã nêu, các ý chính của bài
viết này không phải là để tạo ra một định nghĩa mới, mà để xác định các đặc điểm mà các
nhà nghiên cứu có thể đề cập như là điều kiện cần và đủ khi xác định các hệ thống BPM
trong lúc điều tra, nghiên cứu. Vì vậy, những đặc điểm nào của một hệ thống BPM có thể
được coi là quan trọng hoặc cần thiết và những yếu tố của một hệ thống BPM có thể được
coi là đủ? Câu hỏi này được giải quyết trong ba phần tiếp theo, xây dựng trên những phát
hiện của chúng tôi, và trên những kiến thức và kinh nghiệm của chúng tôi có trong lĩnh
vực đo lường hiệu suất.
Các tính năng của một hệ thống BPM
Sau khi phân tích các định nghĩa của một hệ thống BPM, chúng ta có thể rút ra kết
luận rằng chỉ có hai tính năng cần thiết: "biện pháp thực hiện" và "cơ sở hạ tầng hỗ trợ".
Các biện pháp đó (còn gọi là số liệu hoặc dữ liệu trong các định nghĩa) là một yêu cầu
cần thiết cho một hệ thống BPM tồn tại. Điều này có lẽ giải thích tại sao rất nhiều tác giả
quan tâm đến chúng trong định nghĩa của họ. Mặc dù sự tồn tại của các thang đo đã được

thực hiện, nhưng không có sự đồng thuận về bản chất và thiết kế những biện pháp này.
Từ lâu đã có một cuộc thảo luận về sự cần thiết phải xem xét các khía cạnh khác nhau
của các hoạt động hơn là chỉ tập trung vào vấn đề tài chính (Drucker, 1954; Goold &
Quinn, 1990; Johnson & Kaplan, 1987); Tuy nhiên không có thống nhất về những khía
cạnh nào nên xem xét và bằng chứng rỏ rằng có sự cân đối trong đo lường thì xa vời kết
luận (Kennerley & Bourne, 2003). Như vậy, không thể xác định các kiểu cấu trúc, đặc
điểm của các biện pháp đo lường trong bất kỳ định nghĩa nào về một hệ thống BPM.
Hỗ trợ cơ sở vật chất có thể thay đổi từ phương pháp thủ công rất đơn giản đến việc
ghi dữ liệu với các hệ thống thông tin phức tạp và các thủ tục hỗ trợ bao gồm thu thập dữ
liệu, đối chiếu, phân loại, phân tích, giải thích và phổ biến (Neely, 1998), và nguồn nhân
lực cần thiết để hỗ trợ chúng (Kerssens-van Drongelen & Fisscher, 2003). Một cơ sở hạ
tầng hỗ trợ có thể là một hệ thống nhận biết rõ ràng và ngay lập tức và một tập hợp các
16
tiến trình được thực hiện như một phần của một hệ thống BPM rời rạc, hoặc có thể hoạt
động riêng biệt trong quá trình quản lý hiệu suất khác trong các chức năng hệ thống
BPM. Có thể rút ra rằng nếu một nghiên cứu chỉ sử dụng các biện pháp thực hiện và cơ
sở hạ tầng hổ trợ như các tính năng cần thiết của một hệ thống BPM, sau đó một hệ thống
thông tin thẻ điểm cân đối có thể có đủ bằng chứng về sự tồn tại của các tính năng cần
thiết.
Một tính năng có thể gặp vấn đề liên quan tới điêu kiện cần hoặc điều kiện đủ. Mục
đích chung của việc thực hiện hệ thống BPM là nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức,
thường là mục tiêu chiến lược. Ví dụ, một mục tiêu của thực hiện hệ thống thẻ điểm cân
bằng là đạt được các mục tiêu của tổ chức. Nó cũng có thể đưa ra mối quan hệ giữa mục
tiêu và khả năng của tổ chức (Deming, 1982, Feurer and Chaharbaghi, 1995). Các nghiên
cứu gần đây nhấn mạnh mối quan hệ giữa các giải pháp và mục tiêu chiến lược, chiến
thuật. Tuy nhiên, hệ thống đo lường/thang đo trong kinh doanh chỉ có mục tiêu hoạt động
chưa liên kết được với chiến lược. Hơn nữa, một tập hợp các khoản mục tài chính chắc
chắn là một bản báo cáo kết quả kinh doanh, và do đó các hệ thống sản sinh ra nó là một
hệ thống đo lường hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, không có mục tiêu thực hiện cụ thể,
chiến lược hay không, mà các tài khoản này được thiết phải liên kết.

Vai trò của hệ thống BPM
Mười bảy vai trò khác nhau của một hệ thống BPM đã được xác định. Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng chỉ có những vai trò thiết yếu mới được sử dụng cho các hệ thống BPM để "đo lường
hiệu suất". Việc xem xét các vai trò nào thiết yếu lại là một sự lặp thừa. Đây có lẽ là lý do tại sao
nhiều tác giả không đề cập đến nó trong định nghĩa của họ. Chúng tôi chấp nhận điều này mặc
dù thực tế ở một số nghiên cứu cho thấy giá trị to lớn từ quá trình thiết kế các phương pháp đo
lường hiệu suất, không phụ thuộc các giai đoạn thực hiện và thu thập dữ liệu (Neely cùng cộng
sự, 2000). Phần còn lại của các vai trò trích từ những phân tích của chúng tôi có thể được xem
xét ở bối cảnh cụ thể. Vì vậy, điều vô cùng quan trọng mà các nhà nghiên cứu cần làm rõ trong
các nghiên cứu của họ về vai trò khác nhau mà hệ thống BPM đóng vai trò/thể hiện trong các
doanh nghiệp họ đang điều tra.
17
Điều thú vị cần lưu ý đến việc tổ chức học tập (Senge, 1990) là không trực tiếp dẫn đến một
vai trò của hệ thống BPM, mặc dù một vài định nghĩa dựa trên một số yếu tố của quá trình học
tập. Điều này là đáng ngạc nhiên, vì yếu tố học tập có vai trò trọng tâm trong Balanced
Scorecard (Sim và Koh, 2001) và trong nhiều lĩnh vực quản lý khác như chiến lược (Fuerer và
Chaharbaghi, 1995). Quan điểm của chúng tôi là, mặc dù nó có thể thiết kế, duy trì và sử dụng
một hệ thống BPM mà không tổ chức học tập xảy ra, kết quả như vậy là vô cùng khó. Một trong
những tác nhân chính của các kiểu “tự phân tích" thực hiện trong quá trình thiết kế hệ thống là
cải thiện kiến thức của tổ chức này, và do tác động lặp đi lặp lại và tích lũy kinh nghiệm với một
hệ thống BPM, điều đó dẫn đến việc học tập có thể tiến hành (Neely cùng cộng sự, 2000).
Để giúp các nhà nghiên cứu trong quá trình xác định và lựa chọn các vai trò của hệ thống
BPM trọng tâm ở doanh nghiệp được điều tra, chúng tôi đề xuất năm loại khác nhau về vai trò hệ
thống BPM. Đó là: (1) "đo lường hiệu suất", loại này bao gồm giám sát tiến độ và đo lường /
đánh giá hiệu suất; (2) "Quản lý chiến lược", loại này bao gồm vai trò của hoạch định, xây dựng
chiến lược, triển khai / thực hiện chiến lược, và tập trung sự quan tâm / cung cấp sự liên kết; (3)
"truyền thông", trong đó bao gồm vai trò của truyền thông nội bộ và bên ngoài, chấm điểm và
việc tuân thủ với quy định; (4) "ảnh hưởng hành vi", loại này bao gồm vai trò của các hành vi
đáng được khen thưởng hoặc phải bồi thường, quản lý các mối quan hệ và sự kiểm soát; và (5)
"Học tập và cải thiện" bao gồm vai trò của thông tin phản hồi, học tập vòng lặp đôi và cải thiện

hiệu suất.
Quy trình của hệ thống BPM:
Dựa trên phân tích của chúng tôi, hệ thống BPM bao gồm 12 bước khác nhau, trong đó chỉ
có 3 bước cần thiết. Đó là: "cung cấp thông tin" "thiết kế và lựa chọn thước đo" và "thu thập dữ
liệu" (bất kể dữ liệu được thu thập ntn). Dù một công ty không có một quy trình cụ thể cho việc
lựa chọn các thước đo, thì công ty vẫn phải thực hiện việc đánh giá hiệu suất (ngay cả khi những
biện pháp được áp đặt bởi các bên liên quan bên ngoài); nếu nó không có một quy trình thu thập
các dữ liệu để tính toán thì nó phải lựa chọn thước đo hiệu suất; và nếu nó không có một quy
trình phân phối các kết quả của việc thực hiện đo lường hiệu suất (ngay cả khi đó là một bảng
tính Excel đơn giản); do đó, nó có thể lập luận rằng công ty này không có một hệ thống BPM.
18
Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng mặc dù chúng ta xem xét ba quy trình như các quy trình
cần thiết , nhưng chắc chắn rằng một số loại "phân tích dữ liệu" hoặc thao tác sẽ không được
thực hiện để sắp xếp dữ liệu sang một định dạng có ý nghĩa và có thể sử dụng. Nếu không có
thao tác thậm chí hạn chế thì quy trình đo sẽ không có giá trị gì. Theo ý kiến của chúng tôi, phần
còn lại của các quy trình trong Bảng 4 không được quan tâm 1 cách cần thiết như việc họ không
phê phán các chức năng của một hệ thống BPM. Chúng có thể mang lại lợi ích cho tính hiệu quả
của một hệ thống BPM, nhưng vấn đề này là ngoài phạm vi của bài viết này.
Tiếp tục phân tích, chúng tôi đã được nhóm các quy trình thành năm loại: (1) "lựa chọn và
thiết kế các thước đo", loại này bao gồm các quy trình xá định nhu cầu, mong muốn của các bên
liên quan, hoạch định, thiết lập mục tiêu chiến lược, thiết kế thước đo và lựa chọn và thiết lập
mục tiêu ; (2) "thu thập và xử lý dữ liệu", loại này bao gồm các quá trình thu thập dữ liệu và
phân tích dữ liệu; (3) "quản lý thông tin", loại này bao gồm các quy trình cung cấp thông tin, giải
thích, việc ra quyết định; (4) "đánh giá hiệu suất và phần thưởng", loại này bao gồm các quy
trình đánh giá hiệu suất và kết nối nó với phần thưởng; và (5) "đánh giá lại hệ thống", loại này
bao gồm các thủ tục đánh giá khác nhau (các thủ tục này sẽ đảm bảo rằng có một vòng lặp thông
tin phản hồi trong hệ thống). Tất cả các quy trình này có thể diễn ra tại tổ chức, nhóm hoặc từng
cá nhân.
Các nhà nghiên cứu cần phải nhớ rằng khi chúng xác định rõ chức năng, vai trò và quy trình
hiện tại trong hệ thống BPM đang nghiên cứu, các thông số kỹ thuật sẽ xác định ranh giới của hệ

thống, và do đó các nghiên cứu đang được tiến hành. Việc có nhiều tính năng, vai trò hoặc các
quy trình trong định nghĩa, sẽ khó khăn hơn để phân biệt việc đo lường hiệu suất ở các quy trình
quản lý khác, đặc biệt là quản lý hiệu quả.
Hạn chế
Nghiên cứu này đã xem xét nhiều khía cạnh của hệ thống BPM mà các nhà nghiên cứu đã đề
cập đến một cách rõ ràng trong định nghĩa của họ, và nó đã được thực hiện bởi một nhóm tám
nhà nghiên cứu, tất cả trong số họ có kiến thức và kinh nghiệm được công nhận trong lĩnh vực đo
lường hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng loại phương pháp để xác định các đặc điểm
chính của một hệ thống BPM cũng tạo ra một số hạn chế.
19
Thứ nhất, chúng tôi chỉ nhìn vào định nghĩa rõ ràng của hệ thống BPM. Mặc dù chúng tôi
không tuyên bố đã phát triển danh sách đầy đủ các tính năng, vai trò và quy trình trong một hệ
thống BPM, nhưng chúng tôi đã phát triển một danh sách rất toàn diện về đặc điểm của hệ thống
BPM mà các nhà nghiên cứu có thể sử dụng để xác định ranh giới trong các nghiên cứu của họ
và làm cho công việc của họ minh bạch và dễ so sánh hơn. Thứ hai, bằng cách chỉ xem xét các
định nghĩa được tạo ra bởi các tác giả hơn là ý nghĩa tổng thể của bài nghiên cứu, chúng tôi đã
bỏ lỡ nhiều sắc thái cung cấp bởi mỗi bài nghiên cứu. Ở cách tiếp cận toàn diện hơn, mặc dù
mang nhiều yếu tố chủ quan, có thể cung cấp những hiểu biết lớn hơn. Nghiên cứu sau về lĩnh
vực này có thể cải thiện sự vững mạnh từ kết quả của chúng tôi.
Kết luận
Các vấn đề liên quan đến việc so sánh và khái quát của nghiên cứu phải được giải quyết nếu
chúng ta muốn làm cho các lĩnh vực đo lường hiệu suất phù hợp hơn với lý thuyết và thực hành.
Như chúng tôi đã trình bày trong bài này, các nhà nghiên cứu khi xem xét hệ thống BPM, thường
không có mô tả một cách rõ ràng các khía cạnh cụ thể của hệ thống BPM được nghiên cứu.
Trong các tài liệu/lý thuyết bằng cách nào đó nó được giả định rằng hệ thống cụm từ BPM là
univocal. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, không có sự đồng thuận về ý nghĩa của cụm từ này,
và tình trạng này tạo ra sự nhầm lẫn và ức chế sự phát triển của lĩnh vực này. Vì vậy, chúng tôi
đề nghị rằng các nhà nghiên cứu cần phải được cụ thể hơn và rõ ràng về đặc điểm của các hệ
thống đo lường hiệu suất họ điều tra. Để bắt đầu làm như vậy, chúng ta đã xem xét một số định
nghĩa của hệ thống BPM tìm thấy trong lý thuyết/tài liệu, và chúng tôi đã thảo luận về một số

đặc điểm của một hệ thống BPM mà từ đó các nhà nghiên cứu có thể lựa chọn cho nghiên cứu
của họ. Với danh sách các điều kiện này, chúng tôi hy vọng sẽ khuyến khích một cuộc tranh luận
trọng tâm trong lĩnh vực đo lường hiệu suất, và để đạt được sự rõ ràng hơn trong các nghiên cứu
trong tương lai.

×