Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC MÔN TÂM LÍ HỌC THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.35 KB, 132 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài “Tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học
theo tiếp cận năng lực cho sinh viên Trường Đại học Hùng Vương ”, đến nay luận văn
đã hoàn thành. Với tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và Hội đồng
khoa học Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tham gia giảng dạy,
tư vấn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Hoàng Thanh Thúy người đã
tận tình chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các thầy cô Bộ
môn Tâm lí giáo dục Trường Đại học Hùng Vương đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Tôi xin bày tỏ tình cảm sâu sắc tới gia đình ,bạn bè và đồng nghiệp luôn bên tôi
động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn,
song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong các thầy, cô giáo, bạn bè,
đồng nghiệp đóng góp ý kiến.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 7 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hiền
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt Viết đầy đủ
GV Giảng viên
SV Sinh viên
TN Thực nghiệm
ĐC Đối chứng
DH Dạy học
DHTC Dạy học tích cực
CNH- HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


NL Năng lực
GD-ĐT Giáo dục Đào tạo
GD Giáo dục
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Kết quả điểm kiểm tra đầu vào môn Tâm lí học của lớp TN và ĐC theo
mức độ nhận thức 113
Biểu đồ 3.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên 116
Biểu đồ 3.3. Phương pháp tự học của SV ( Sau khi TN) 117
Biểu đồ 3.4: Kết quả điểm kiểm tra hết học phần môn tâm lí học của các lớp TN và
ĐC theo mức độ nhận thức 121
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một nền văn minh tri thức của thế kỷ XXI, thế kỷ
mà sự tiến bộ không ngừng của khoa học- công nghệ với những bước nhảy vượt bậc
một năm bằng hàng thế kỷ trước đó, thời kỳ của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế…để thích ứng với bối cảnh lịch sử mới, đòi hỏi mọi người ở mọi quốc gia, dân
tộc, trong mỗi ngành nghề phải có kiến thức sâu rộng, tư duy khoa học khái quát và
năng lực tự đào tạo.
Hòa mình vào làn sóng phát triển mạnh mẽ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng công tác Giáo dục- Đào tạo, coi đó là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNH-
HĐH đất nước. Điều đó được thể hiện trong nhiều chính sách quan trọng của Đảng
và Nhà nước ta. Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định các nguồn lực tác động đến sự phát triển của xã
hội ta trong giai đoạn hiện nay gồm: Nguồn lực con người; nguồn tài nguyên thiên
nhiên; cơ sở vật chất kỹ thuật; các nguồn lực ngoài nước. Trong các nguồn lực đó,
Đảng ta khẳng định nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất và đóng vai

trò then chốt. Nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy sáng tạo, có ý
chí và có trí tuệ, biết sử dụng và vận dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với
nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng góp phần tác động vào quá trình đổi mới
đất nước.
Để phát huy nguồn lực con người, dạy học được xem là con đường giáo dục
cơ bản nhất để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học
là phương thức cơ bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và
thiết thực. Tự học - tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó
cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua các câu
thành ngữ, tục ngữ "Học một, biết mười", "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn",
"Học thầy không tày học bạn". Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng lên khi
tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về việc "lấy tự học làm gốc" đã được
nhân dân ta luôn coi trọng.
5
Điều 5 của Luật Giáo dục 2005 quy định "Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên"; " đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh phát triển phong trào
tự học, tự đào tạo ."; " tạo ra năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh".
Như vậy, đứng trước bối cảnh của thời đại đặt ra nhiệm vụ dạy học hiện nay
là: Dạy cho thanh niên học nắm lấy kiến thức một cách tự lực Như vậy, rõ ràng là
tự học, là đòi hỏi tất yếu khách quan không thể thiếu được trong quá trình học tập
[9,56].Phải tạo cho người học có thói quen tự học thường xuyên, tự học suốt đời để
đáp ứng những đòi hỏi của công việc trong tương lai.
Dạy học theo tiếp cận năng lực ra đời vào thập niên 1970 tại các nước
phương Tây như một làn gió mới tươi mát làm thay đổi cách nhìn nhận và phương
pháp đào tạo mới đáp ứng yêu cầu của xã hội. Tiếp cận năng lực có những ưu điểm
như sau:
- Cho phép cá nhân hóa người học: Trên cơ sở mô hình năng lực, người học sẽ

bổ sung những thiếu hụt của cá nhân để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của mình.
- Chú trọng vào kết quả ( outcomes) đầu ra.
- Phương pháp đào tạo linh hoạt phù hợp với năng lực và hoàn cảnh của cá nhân.
- Xác định tiêu chuẩn đo lường khách quan kết quả của những năng lực cần
thiết để tạo ra kết quả này.
Hiện nay, việc chuyển hình thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ thì
việc tự học, tự nghiên cứu của SV được coi là nhân tố quan trọng, quyết định việc
đẩy mạnh chất lượng đào tạo của trường. Vì vậy, một trong những hoạt động cần
thay đổi mạnh mẽ nhất chính là hoạt động tự học. Tổ chức hoạt động tự học làm sao
đem lại cho SV những năng lực và kĩ năng nền tảng đáp ứng yêu cầu đào tạo, qua
đó nâng cao khả năng tự trau rồi kiến thức, học suốt đời, nhất là để các em tồn tại
được trong thế giới việc làm sau này.
Thực tế hoạt động dạy và học môn Tâm lí học ở Trường Đại học Hùng
Vương trong những năm vừa qua đã có nhiều thay đổi tích cực.Tuy nhiên vẫn còn
6
rất nhiều hạn chế:Việc tổ chức tự học cho SV của GV mới chỉ dừng lại ở mức độ
động viên, khuyến khích, nhắc nhở chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu, hướng dẫn các
biện pháp tự học để đạt được kết quả cao. Điều này đã làm hạn chế rất nhiều đến
chất lượng học tập, SV ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu của cơ sở đào tạo,
phải mất một thời gian tự đào tạo để rèn luyện bổ sung các kĩ năng hành nghề, kĩ
năng sư phạm.
Xuất phát từ những cơ sở nêu trên chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tổ
chức hoạt động tự học môn Tâm lí học theo tiếp cận năng lực cho sinh viên Trường
Đại học Hùng Vương”.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng cách tiếp cận năng lực vào tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học
cho SV Trường Đại học Hùng Vương nhằm phát triển năng lực tự học cho SV,
góp phần đáp ứng yêu cầu đào tạo, đồng thời tạo ra nguồn nhân lực chủ động, sáng
tạo, có khả năng thích ứng trong cuộc sống hiện đại.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động học tập môn Tâm lí học của SV Trường Đại
học Hùng Vương.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học
theo tiếp cận năng lực cho SV Trường Đại học Hùng Vương.
4.Giả thuyết nghiên cứu:
Nếu đề xuất được những biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Tâm líhọc
theo tiếp cận năng lực phù hợp với đặc điểm môn học và trình độ của SV sẽ phát
triển năng lực tự học cho SV, hình thành năng lực tương ứng với nghề một cách
nhanh chóng và bền vững.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức tự học cho SV theo tiếp cận năng lực.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng tự học và thực trạng tổ chức tự học môn Tâm lí
học theo tiếp cận năng lực cho SV Trường Đại học Hùng Vương.
7
5.3. Xây dựng hệ thống các biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học
theo tiếp cận năng lựccho SV Trường Đại học Hùng Vương đồng thời thực nghiệm
sư phạm kiểm chứng tính khả thi và hiệu quả của biện pháp.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các biện
pháp tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học cho SV Trường Đại học Hùng
Vương theo tiếp cận năng lực và tiến hành thực nghiệm sư phạm kiểm chứng một
số biện pháp trong tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học theo tiếp cận năng lực.
- Khách thể điều tra:+ 110SV thuộc 4 khoa trong trường Đại học Hùng
Vương, bao gồm các khoa: Khoa Giáo dục tiểu học và mầm non, Khoa Xã hội và
Nhân văn, Khoa Khoa học tự nhiên, Khoa Ngoại ngữ.
+ 10 GV của Bộ môn Tâm lý giáo dục Trường Đại học Hùng Vương.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, hệ thống hóa; Phương pháp minh họa; Phương pháp mô hình hóa để xây
dựng cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động tự học theo tiếp cận năng lực.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát: Dự giờ, quan sát các hoạt động tự học của sinh viên
trong quá trình học tập môn Tâm lí học.
7.2.2. Phương pháp điều tra viết: Sử dụng bảng hỏi để thu thập thông tin về những
vấn đề có liên quan đến tổ chức tự học của sinh viên Trường Đại học Hùng Vương
theo tiếp cận năng lực.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các giảng viên
giảng dạy môn Tâm lí học để có thêm thông tin tin cậy, đảm bảo tính khách quan
cho các kết quả nghiên cứu. Đặc biệt xin ý kiến đóng góp cho những đề xuất biện
pháp nhằm tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lí học có hiệu quả, xây dựng bài tập
theo tiếp cận năng lực.
8
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi
và hiệu quả của các biện pháp tổ chức hoạt động tự môn Tâm lí học theo tiếp cận
năng lực cho SV Trường Đại học Hùng Vương.
7.2. 6. Nhóm phương pháp hỗ trợ:Sử dụng phương pháp thống kê toán học, chương
trình phần mềm SPSS và Exel để xử lý số liệu nhằm đảm bảo độ tin cậy của kết quả
khảo sát và thực nghiệm.
8. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động tự môn Tâm lí học cho SV
theo tiếp cận năng lực.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động tự học và thực trạng tự học theo
tiếp cận năng lực môn Tâm lí học của SV Trường Đại học Hùng Vương.
Chương 3: Biện pháp tổ chức hoạt động tự môn Tâm lí học theo tiếp cận
năng lực cho SV Trường Đại học Hùng Vương.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC

MÔN TÂM LÍ HỌC THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC
1.1.Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1.Một số công trình nghiên cứu về tự học theo hướng tiếp cận NL ở nước ngoài.
Tự học là một vấn đề được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau
quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là các nhà khoa học sư phạm. Ngay từ thời cổ đại,
vấn đề tự học đã được các nhà giáo dục quan tâm.Ở phương Đông, Khổng Tử
( 551-479TCN) nhà giáo dục kiệt xuất của Trung Hoa cổ đại rất coi trọng và đề cao
vai trò tự học. Trong dạy học ông luôn đòi hỏi học trò phải tích cực suy nghĩ, phải
huy động sự chủ động sáng tạo trong học tập. Ông đã từng nói: “ Bất phẫn, bất khả,
bất phì, bất phát. Cử nhất ngung tam dĩ bất ngung phản, tắc bất phục dã” có nghĩa
là: Kẻ nào không tức giận vì không muốn biết thì không cho hiểu thông; không cố
gắng bày tỏ ý kiến thì chẳng giúp cho phát triển được. Một vật mà có bốn góc chỉ
cho một góc mà không suy ra ba góc còn lại thì chẳng dạy cho[24, Tr20].Như vậy,
theo Khổng Tử thì thầy giáo chỉ giú học trò cái mấu chốt nhất, còn mọi vấn đề khác
thì học trò phải tự tìm ra. Ở phương Tây, Socrat ( 469- 399 TCN) cho rằng:Kiến
thức là nghệ thuật của sự ham thích và ông khẳng định ông ham thích sự thông thái.
Muốn học tập phải xuất phát từ chính bản thân, phải có nhu cầu và phải tự học. Câu
châm ngôn nổi tiếng Hãy tự biết mình [24, Tr8] của ông là một định hướng có giá
trị to lớn trong giáo dục mọi thời đại, con người phải biết mình đang có những gì,
cần có những gì mà tìm tòi, khắc phục, bù đắp, bổ sung.
Khi giáo dục trở thành một khoa học thực sự và người đặt nền móng cho sự
ra đời và phát triển của nhà trường hiện đại chính là nhà sư phạm vĩ đại người Tiệp
Khắc: Jan Amos Komenxki (1592- 1670), ông đã từng khẳng định “Không có khát
vọng học tập, không có khát vọng suy nghĩ thì không thể trở thành tài năng” [37, Tr.
6]. Đến thế kỷ XVIII - XIX nhiều nhà giáo dục nổi tiếng như J.J.Rutxo (1712-
1778), IG.Petxtalogi (1746- 1827) và K.Đ.Usinxki (1824- 1870) đã nhấn mạnh đến
10
tính tích cực học tập và tính độc lập sáng tạo của học sinh. Conxtantin Đmitrevic
Usinxki (1824- 1890)…đều nhấn mạnh tới cách thức học tập bằng sự tích cực tìm
tòi, khám phá của bản thân giành lấy tri thức. Những tư tưởng đó tiếp tục được các

nhà giáo dục sau này phát triển thành các phương pháp dạy học tích cực, phát huy
tính tích cực chủ động của người học. Trong tác phẩm Tự học như thế nào của
N.A.Rubakin ( 1862- 1946) được Nguyễn Đình Khôi dịch, nhấn mạnh vai trò và
thái độ tích cực tự học của học sinh. Muốn học có hiệu quả thì nhà giáo dục phải
giúp cho người học có động cơ đúng đắn trong tự học. Rubakin kết luận rằng: hãy
mạnh dạn tự mình đặt ra câu hỏi rồi tự mình tìm lấy câu trả lời đó chính là phương
pháp tự học. Tuy nhiên chỉ có động cơ thôi là chưa đủ, mà người học phải có kỹ
năng tự học [ 36].
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học- kỹ thuật vào những năm cuối của thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo ra áp lực đòi hỏi phải gia tăng năng suất lao động.
Tri thức nhân loại không ngừng tăng lên mạnh mẽ. Vì vậy, người ta nhận ra rằng
việc giảng dạy theo kiểu thầy truyền đạt tri thức tới người học sẽ không đem lại kết
quả cao, không đáp ứng được nhu cầu của xã hội.Trước sức ép về nguồn lao động
buộc các nhà giáo dục phải suy nghĩ về cách dạy và cách học như thế nào sao cho
hiệu quả đáp ứng yêu cầu người sử dụng lao động. Thầy giáo bây giờ phải đóng vai
trò người tổ chức, hướng dẫn học sinh cách học hiệu quả. DH phải dựa trên sự phân
tích nghề để khám phá ra những quy tắc, những cách thức tốt nhất giúp cho việc học
ngày càng hiệu quả. Mọi người nhất trí và chú trọng tập trung vào chủ đề chính: “
Học tập và nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ” (Weinberger 1998
trang 78).Chính vì vậy mà mô hình năng lực đã ra đời để thực hiện nhiệm vụ trên.
Đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở Bắc Mĩ, mô hình năng lực được phát triển
mạnh mẽ, đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực thực hiện được xem như là phương
tiện gắn kết những đòi hỏi của thực tiễn với các chương trình giáo dục và đào tạo.
Đào tạo theo cách này, không dùng thời gian quy định cho khóa học mà dùng lượng
kiến thức, kỹ năng theo tiêu chuẩn chuyên môn đã được quy định(standard of
Profession) cho một nghề làm đơn vị đo. Thời gian này, hầu hết các nhà nghiên cứu ở
11
Bắc Mĩ đã thừa nhận rằng: Giáo dục đào tạo dựa trên năng lực có gốc rễtrong đào
tạo và bồi dưỡng giáo viên có đặc điểm là tạo ra các sản phẩm giống nhau theo
khuân mẫu đã định, hơn nữa chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên có nét độc

đáo, dễ định ra chuẩn mực và đào tạo theo những chuẩn mực đón[56].
Sự ra đời và phát triển của nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật cùng với sự
phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại nên tạo thành một guồng
quay là làm thế nào để tạo ra sản phẩm là nguồn nhân lực có chất lượng cao.Vì vậy,
người ta nhận thấy rằng đào tạo truyền thống theo hệ bài- lớp; khóa học niên chế
nhiều khi đã không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Nhiều nước, nhiều ngành
nghề đã thực hiện nguyên tắc Cần gì học nấy không nhất thiết phải học hoàn chỉnh
một nghề. Người học có nhu cầu đến đâu thì học đến đó không quy định cứng nhắc
về thời gian, hình thức học tập mềm dẻo và linh hoạt.
Các mô hình NL đã được phát triển rộng khắp trên thế giới với Hệ thống chất
lượng quốc gia về đào tạo nghề nghiệp (Vocatioal – NVQS) ở Anh và xứ Wales.
Khung chất lượng quốc gia của New(NewZealand Qualifications Framework), các
tiêu chuẩn năng lực được tán thành, khẳng định bởi Hội đồng đào tạo quốc gia
Australia về đào tạo (Training Board- NTB), và Hội đồng thư ký về những kỹ năng
cần thiết phải đạt được ( The Secretary is Commission on Achieving Necessary –)
và những tiêu chuẩn kỹ năng quốc gia ( The National Skill Standards) ở Mỹ, các bộ
NL này được coi là các bộ năng lực kinh điển. Nổi bật hơn là cả là bộ năng lực
SCANS của Hội đồng thư ký về những kỹ năng cần thiết phải đạt được. Ở đó người
ta đưa ra 5 nhóm NL cần thiết mà người lao động ở thế kỷ XXI phải có và nhà
trường phải tạo ra ở người học bao gồm:
- Năng lực tổ chức các nguồn lực (năng lực lập kế hoạch và phân bổ thời
gian, tài chính, nguyên vật liệu, phương tiện và nhân lực).
- Năng lực hợp tác trong lao động.
- Năng lực khai thác và sử dụng thông tin.
- Năng lực thông hiểu những mối quan hệ nội bộ.
- Năng lực làm việc trong môi trường đa dạng về kỹ thuật [67], [68].
12
Nghiên cứu tự học, chúng tôi rút ra một số nhận xét: Tự học là cần thiết đối
với tất cả mọi người, như một chìa khóa mở cửa đi vào thế kỷ XXI- thế giới của nền
kinh tế tri thức, là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.Vấn đề

tự học đã được các học giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau như:Phát huy tính tích cực học tập ở người học, sử dụng kỹ thuật DH, áp
dụng công nghệ thông tin, DH theo dự án, tổ chức tự học theo tiếp cận NL …
1.1.2 Một số công trình nghiên cứu về tự học theo tiếp cận NL ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về việc giáo dục tinh thầntự giác
học tập đã được đề cập đến khá nhiều.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa kiệt xuất, một nhà giáo, một nhà sư
phạm thực thụ, một tấm gương sáng về mọi mặt, trong đó có tấm gương về tự học.
Người đã dạy: Phải học suốt đời ngay cả khi đã đi làm việc [10].Với phương châm
“ Về cách học phải lấy tự học làm gốc”, “ Về cách dạy thì phải tránh lối dạy nhồi
sọ”,“ Về học tập tránh lối học vẹt” [ 33,44].
Vào những năm 80, nhóm nghiên cứu của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn đã
hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục về hệ đào tạo sư phạm vừa học, vừa
làm và đã đưa ra phương pháp dạy học hiện đại phù hợp với thực tiễn nước ta hiện
nay là dạy- tự học [39].
Bằng kinh nghiệm tự học của bản thân và những kết quả nghiên cứu cả trên
phương diện lý luận lẫn thực tiễn của GS.TSKH. Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, tác
giả đã phát hiện nhiều vấn đề về tự học đáng để chúng ta quan tâm như: Tự học là
khả năng vốn có của mỗi con người, khả năng này tiềm ẩn trong mỗi con người, các
dạng tự học như tự học không có thầy hoặc có thầy nhưng không giáp mặt thầy –
“Tự học có hướng dẫn qua tài liệu in”, tác giả đã thử nghiệm quy trình đào tạo giáo
viên theo hướng này: “Đào tạo giáo viên theo hướng vừa học vừa tập làm giáo
viên”, các điều kiện để tự học có hướng dẫn thành công và những khó khăn, trở
ngại khi tự học có hướng dẫn và những biện pháp khắc phục… Tuy nhiên, trong các
công trình nghiên cứu của mình, tác giả chỉ đầu tư nghiên cứu dạng “tự học” trong
hoạt động “từ xa” – học mà không có thầy hướng dẫn trực tiếp. Trong khi đó, đối
tượng học này ở nước ta còn rất ít so với đối tượng học có sự hướng dẫn trực tiếp
của thầy giáo.
13
Tác giả Lê Khánh Bằng khi nghiên cứu về phương pháp DH ở đại học đã đề

cập đến việc tổ chức công tác tự học cho học sinh. Tác giả đã đi sâu vào một số biện
pháp cụ thể như: Nghe giảng, ghi chép, đọc sách, giúp đỡ riêng, nghiên cứu vạch kế
hoạch và tổ chức lao động trí óc cho học sinh.
Tác giả Trần Bá Hoành đã nhấn mạnh ý nghĩa của kỹ năng tự học trong đào
tạo sinh viên: “Nói tới phương pháp học thì cốt lõi phải nêu được kỹ năng học tập.
Một yếu tố quan trọng đảm bảo thành công trong học tập và nghiên cứu khoa học là
khả năng phát hiện đúng và giải quyết hợp lý những vấn đề đặt ra… tác dụng chỉ đạo
học của hoạt động dạy bị hạn chế do người dạy thiếu hiểu biết sâu sắc về hoạt động
học. Vì những lý lẽ trên, dạy cách học phải trở thành một bộ phận quan trọng trong
đào tạo của trường Sư phạm” [21].
Một số công trình nghiên cứu về tự học và tổ chức hoạt động tự học thì tính
tích cực, tính độc lập, động cơ học tập của người học giữ một vị trí rất quan trọng
đối với chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học. Các tác giả Nguyễn Ngọc Bảo,
Hà Thị Đức, Đặng Vũ Hoạt, Thái Duy Tuyên… trong các công trình nghiên cứu
đều cho rằng: Kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt nhằm giúp người thầy điều
khiển, điều chỉnh hoạt động dạy của mình, điều khiển, điều chỉnh hoạt động học của
trò, đồng thời giúp người học tự điều khiển hoạt động tự học, nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả của hoạt động dạy và học.
Nghiên cứu về kĩ năng tự học của SV đã được các tác giả Hà Thị Đức, Trịnh
Quang Từ, Nguyễn Thị Tính…công bố trong các công trình nghiên cứu của mình.
Các tác giả đã phân tích các kĩ năng tự học như: Kĩ năng lập kế hoạch tự học, kĩ
năng nghe và ghichép bài giảng, kĩ năng đọc sách, kĩ năng thảo luận…Song các kĩ
năng tự học của SV chưa được nghiên cứu đầy đủ, cụ thể và hệ thống ở từng giai
đoạn, từng công đoạn của hoạt động học tập - nhận thức mang tính nghiên cứu của
SV trong hoạt động dạy học. Vì thế, chưa chỉ ra cách triển khai hoạt động DH ở
trên lớp nhằm thúc đẩy hoạt động tự học và hoàn thiện các kĩ năng tương ứng.
Học độc lập là khái niệm mà tác giả Đặng Thành Hưng đã đề cập đến trong
công trình nghiên cứu của mình. Học độc lập là nhu cầu của người học ngay từ khi
14
còn ngồi trên ghế nhà trường và nếu nhu cầu này phát triển tốt thì độc lập này của

người học sẽ là con đường bảo đảm nhất, hiệu quả nhất việc học thường xuyên, học
suốt đời của học [12] [13] [14] [15].
Luận văn tiến sĩ của Nguyễn Thị Tính về đề tài “ Các biện pháp tổ chức tự
học môn Giáo dục học cho SV các trường ĐHSP”, đưa ra kết luận: Tự học là học
với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Tựhọc môn học mang tính đặc thù của bộ
môn Nghiệp vụ sư phạm, vì vậy tự học môn học là quá trình tự giác, tích cực chiếm
lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và hình
thành tình cảm, thái độ nghề nghiệp của SV dưới vai trò chủ đạo của cán bộ giảng
dạy môn học. Tự học có thể diễn ra ở trên lớp, hoặc trong quá trình tự học ở nhà,
hoặc trong các hoạt động ngoại khóa.Ba khâu này có mối quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau không thể tách rời. Nó bổ sung kết quả cho nhau [35].
Trong luận văn tiến sĩ “Biện pháp hoàn thiện năng lực tự học môn học cho
SV đại học sư phạm theo quan điểm Sư phạm tương tác”, tác giả Nguyễn Thị Bích
Hạnh cho rằng: Tự học của sinh viên là bộ phận cốt lõi của học, là một thành phần
của DH.Tự học của SV ở trên lớp là quá trình SV tự lực giải quyết nhiệm vụ học tập
do GV đề ra trong các tình huống dạy học ở trên lớp. Tự học phản ánh tính chủ
động, tích cực, độc lập và tự chủ nghiên cứu của SV trong quá trình học tập dưới
sự hướng dẫn của GV [32].
Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Xuân Tiến với đề tài “ Tổ chức hoạt động tự
học môn Giáo dục học cho SV trường đại học Đồng Nai theo tiếp cận năng lực thực
hiện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ’. Trong nghiên cứu này tác giả đã trình
bày các vấn đề lí luận và thực tiễn cũng như những biện pháp về vấn đề tổ chức tự
học cho SV Sư phạm Đại học Đồng Nai trong học môn Giáo dục học theo hướng
tiếp cận năng lực thực hiện [12].
Mới đây năm 2012, tác giả Nguyễn Đức Giang đã nghiên cứu luận văn thạc
sĩ“Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên trường ĐHSP Hà Nội theo hướng tiếp
cận năng lực”, tác giả đã kết luận: Tự học theo NL là phương thức tự học dựa chủ
yếu vào tiêu chuẩn quy định cho một nghề và tiêu chuẩn dạy học theo tiêu chuẩn
15
nghề nghiệp đó. Các tiêu chuẩn đầu ra được sử dụng làm cơ sở cho việc xây dựng

chương trình tự học,lập kế hoạch, tổ chức tự học và đánh giá kết quả tự học [106].
Những bài báo viết về năng lực đăng trên tạp chí giáo dục trong thời gian gần
đây có thể kể đến là: Tác giả Trịnh Xuân Thu với 2 bài viết là: “Đào tạo theo năng
lực thực hiện- cơ sở cấu trúc học phần Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo học chế
tín chỉ” và “ Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên công nghệ theo năng lực thực
hiện”; Tác giả Lê Thùy Linh với “ Thiết kế mục tiêu dạy học môn Giáo dục học
theo hướng tiếp cận năng lực thực hiện”; Tạp chí Quản lý giáo dục có đăng bài viết
“ Vận dụng mô hình năng lực trong phát triển chương trình đào tạo đại học chính
quy ngành Quản lý giáo dục” của PGS.TS Đặng Thị Thanh Huyền.
Tóm lại, các nhà Giáo dục học trong và ngoài nước đều xem tự học của SV
như là một thành phần không thể thiếu được của hoạt động học tập, một bộ phận
của hoạt động DH mà đỉnh cao của tự học là tự tìm tòi, tự khám phá của SV. Các
tác giả đã đưa ra nhiều nguyên tắc, biện pháp, cách tổ chức tự học khá đa dạng và
đã được áp dụng trong thực tiễn dạy học mang lại những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, ở Việt Nam những công trình nghiên cứu về tổ chức tự học theo tiếp cận NL
ở từng môn học cụ thể còn là một vấn đề mới, thiếu bài bản và chưa thống nhất để
thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của trường đại học ngày nay là biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Hoạt động tự học
Học tập ( tiếng la tinh là studere - có nghĩa là cố gắng). Trong cuộc sống hàng
ngày người ta có nhiều cách học khác nhau: Cách học thứ nhất là: Học một cách
ngẫu nhiên trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ: “ Đi một ngày đàng học
một sàng khôn”. Với cách học này thì việc nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh
nghiệm được thực hiện thông qua những hoạt động khác nhau trong cuộc sống. Kết
quả của việc học ngẫu nhiên là người học chỉ lĩnh hội những gì có liên quan trực
tiếp với nhu cầu, hứng thú và các nhiệm vụ trước mắt, còn những cái khác thì bỏ
qua. Bằng cách này, chỉ đưa lại cho người học những tri thức tiền khoa học có tính
chất ngẫu nhiên, rời rạc, không hệ thống, chỉ hình thành cho người học những năng
lực thực tiễn do kinh nghiệm hàng ngày đem lại.

16
Cách học thứ hai là có chủ định: có hai hình thức học có chủ định là học
chính thức và học không chính thức. Học chính thức diễn ra theo chương trình, kế
hoạch được hoạch định trước. Đó là sự học có mục đích, có đối tượng và được điều
khiển một cách có ý thức nhằm tiếp nhận tri thức kỹ năng, kỹ xảo và hình thành cả
phương pháp chiếm lĩnh chúng. Hoạt động học có đối tượng là tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo tương ứng với nó. Mục đích của hoạt động học là chiếm lĩnh kinh nghiệm xã
hội lịch sử thông qua sự tái tạo của cá nhân người học và vận dụng tri thức đó để cải
tạo thực tiễn, cải tạo chính bản thân mình.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về học tập dưới các góc độ khác nhau.
Học tập là sự biến đổi vững chắc trong hành vi, hoặc trong năng lực ứng xử theo
một cách nào đó. Sự biến đổi đó là kết quả của thực hành hoặc của hình thức thể
nghiệm khác [7]. Trong thực tế học tập làm thay đổi cả nhận thức, hành vi và thái
độ của người học.
Nghiên cứu hoạt động học tập dưới góc độ lý thuyết hành vi, tác giả Skiner
quan niệm: Học tập là quá trình lĩnh hội kiến thức mới, hoặc kỹ năng mới, sự học
tập được xác định bởi những hành động mà học sinh cần phải thực hiện được, cách
học là một chuỗi hành động thử và sai [66]. Nhưng trong thực tế học tập là hoạt
động có đích và luôn luôn được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ nhất định…
Đứng trên quan điểm nghiên cứu cấu trúc hệ thống của quá trình dạy học và
mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc đó, đặc biệt là nghiên cứu mối quan hệ thống
nhất biện chứng giữa dạy và học, giữa thầy và trò với nội dung tri thức khái niệm,
tác giả Nguyễn Ngọc Quang quan niệm: Học tập là quá trình tự điều khiển tối ưu
sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, trong và bằng cách đó mà hình thành cấu trúc
tâm lý mới, phát triển nhân cách toàn diện [33,36]. Như vậy, theo tác giả Nguyễn
Ngọc Quang , học tập là quá trình bao gồm cả hoạt động tự học.
Học là hoạt động làm thay đổi kinh nghiệm cá nhân một cách bền vững và có
thể quan sát được nhờ cơ chế lĩnh hội và luyện tập.
Học là công việc của người học, do người học không ai thay thế họ và chỉ có
họ mới tạo ra sự thay đổi cho chính mình vì thế mà học hàm chứa tự học.

17
Nghiên cứu hoạt động tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở
đại học dựa trên quan điểm tiếp cận công nghệ dạy học và tiếp cận hoạt động, tác
giả Lê Khánh Bằng định nghĩa: Học vềbản chất là quá trình tiếp thu và xử lí thông
tin bằng các hoạt động trí tuệ và chân tay, dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được
của cá nhân, từ đó mà có được tri thức, kỹ năng và thái độ mới [4,8].Theo tác giả,
học tập là quá trình bao gồm cả quá trình tiếp thu và xử lí thông tin, mục đích của
việc học tập là nhằm biến đổi nhân cách người học.
Nhìn chung, tất cả các tác giả đều có quan điểm chung về học tập là quá trình
tiếp nhận và xử lí thông tin có định hướng, bản chất của học tập là quá trình tự giác,
tích cực, độc lập, tự tiến hành các thao tác trí tuệ và thể lực. Như vậy, hoạt động học
là một hoạt động có đối tượng là hệ thống tri thức và những kỹ năng, kỹ xảo thông
qua sự tái tạo của cá nhân. Việc tái tạo này sẽ không thực hiện được nếu bản thân
người học chỉ là khách thể chủ động, chịu sự tác động sư phạm của người dạy.
Muốn học có hiệu quả đòi hỏi người học phải tự tiến hành hoạt động học tập của
mình bằng cả ý chí và năng lực trí tuệ,…để hướng tới làm thay đổi chính mình. Như
vậy, dù ở góc độ nào thì bản thân nó cũng chứa đựng sự tự học. Tính tự giác, tính
tích cực, tính độc lập nhận thức là các yếu tố chuẩn bị về mặt tâm lí cho sự tự học.
Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo đã viết: Bản chất của tính tích cực độc lập nhận thức là
sự chuẩn bị về mặt tâm lí cho sự tự học. Sự chuẩn bị này là tiền đề quan trọngcho
hoạt động học tập có mục đích, có sự tự điều chỉnh và đảm bảo hoạt động đó đạt
hiệu quả cao…tính độc lập nhận thức là năng lực, nhu cầu học tập và tính tổ chức
học tập cho phép học sinh tự học [3,12]. Theo tác giả này cấu trúc của tính tích cực
nhận thức gồm động cơ, năng lực, tổ chức học tập và cả ý chí học tập. Còn thành
phần tổ chức học tập bao gồm phương pháp suy nghĩ, phương pháp hành động, kỹ
năng tổ chức và tự kiểm tra.
Từ những quan niệm nêu trên, chúng tôi đi đến khái niệm về học tập như
sau: Học là quá trình người học tự giác, tích cực độc lập, tiếp thu tri thức, kinh
nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình
thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng

hoàn thiện, và dù trong tình huống nào thì trong bản thân sự học cũng đã chứa
đựng sự tự học.
18
Khi nghiên cứu phương hướng tổ thức tổ chức tự học, tác giả Trịnh Quang
Từ cho rằng: Tự học là quátrình nỗ lực chiếm lĩnh của bản thân người học bằng
các hành động của chính mình, hướng tới mục đích nhất định [40,21]. Theo tác giả,
tự học là có mục đích và bằng sức lực của người học.
Nghiên cứu hoạt động tự học như một hình thức tổ chức hoạt động dạy học ở
đại học, tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng: Tự học là hình thức hoạt động nhận thức
của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính sinh viên tiến
hành ở trên lớp theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy
định. Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học có tính độc lập cao
và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học
[28]. Sự khác biệt về quan niệm tự học nêu trên của các tác giả là do các góc độ
nghiên cứu khác nhau về tự học, có tác giả nghiên cứu tự học là một hoạt động hoàn
toàn độc lập không có sự trợ giúp của thầy. Có tác giả lại nghiên cứu tự học là hoạt
động trong mối quan hệ thống nhất với hoạt động dạy…Trong thực tế, tự học có thể
quan niệm như là một phương pháp dạy học bởi nó liên quan trực tiếp tới cách thức
giảng dạy của thầy và cách học tập của trò. Hiệu quả của hoạt động tự học phụ
thuộc không nhỏ vào phương pháp dạy của giáo viên.
Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng: Tự học là học với sự độc lập và
tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình mà trong đó. Chủ thể người học
tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc
cả chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân. Tự học có thể diễn
ra ở trên lớp, chẳng hạn như giải bài tập ở trên lớp, nảy sinh thắc mắc khi nghe giáo
viên giảng bài, tự sắp xếp những lời giảng của giáo viên để ghi vào vở, tự phân tích
nhận xét câu trả lời của bạn trong quá trình thảo luận…[2] [19] [28] [36] [38] [43].
Như vậy, mỗi tác giả có một cách trình bày khác nhau về tự học, nhưng
chúng ta có thể hiểu về tự học như sau: Tự học là một quá trình, trong đó dưới vai
trò chủ đạo của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo

thông qua các hoạt động trí tuệ ( quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phán
đoán…) và các hoạt động thực hành ( khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học
19
tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí của người học để vượt qua
chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích lũy kiến thức cho bản thân
người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành
kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học.
- Giữa học và tự học có mối quan hệ với nhau, học chỉ có hiệu quả khi có sự
tự học, tự học là kết qủa cuối cùng của học.
- Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GV và ngay cả khi
không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Tự học thực hiện qua nhiều bước
khác nhau: tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh thông tin khác nhau, xử lí thông tin
dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra, tự đánh giá những thông
tin đã thu được để giải quyết các vấn đề cho nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn…Tự
học có thể diễn ra với các hình thưc sau:
+ Tự học ở mức độ cao [43]: Hoạt động học hoàn toàn độc lập mang tính
chất nghiên cứu, không có sự hướng dẫn, điều khiển của thầy. Với hình thức tự học
này người học hoàn toàn độc lập hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mình, vai trò
chủ thể của người học là nhân tố trọng yếu nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
+ Tự học có sự hướng dẫn, điều khiển, chỉ đạo của thầy nhưng không giáp
mặt. Tự học có hướng dẫn, ngoài tính tự chủ của người học, cần có những tác động
khách quan mang tính định hướng, chỉ dẫn để việc học tập đạt kết quả cao ( các bài
giảng trên đài truyền hình, bài học trong các tài liệu hướng dẫn của thầy và trong
máy vi tính…). Trong hình thức tự học này, đòi hỏi người học phải có tính tự giác
và tính tự lực cao, phải tuân thủ theo những chỉ dẫn của thầy. Hiệu quả của hoạt
động học tập ở hình thức tự học trên phụ thuộc vào vai trò của người hướng dẫn và
vai trò tính tích cực chủ động hoàn thành các nhiệm vụ học tập của người học.
+ Tự học diễn ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển trực tiếp
của thầy. Với hình thức tự học này, người học có nhiều thuận lợi hơn rất nhiều so
với hai hình thức tự học ở trên. Đây cũng là hướng chính mà đề tài tập trung nghiên

cứu: Thông qua các biện pháp tổ chức, định hướng, điều khiển, thiết kế, chỉ đạo của
thầy nhằm giúp người học tự tổ chức, tự thiết kế, tự thi công hoạt động học của
20
mình bằng các hoạt động tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều chỉnh nhằm
hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Kết quả tự học của sinh viên trong hình thức tự
học này phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa người dạy và người
học, trong đó vai trò hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo của thầy đóng vai trò quan
trọng. Yếu tố đóng vai trò quyết định là tính tích cực, tính tự giác, năng lực tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động của sinh viên . Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của
người thầy trong hình thức tự học này là phải phát huy được tính tích cực, tính tự
giác, năng lực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học của sinh viên, hình thành
phương pháp tự học cho sinh viên để họ có khả năng tự học, tự hoàn thành các
nhiệm vụ học tập.
Bản chất của tự học là quá trình chủ thể người học cá nhân hóa việc học
nhằm thỏa mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hành động học tập ( nhận
thức, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, các hoạt động giao tiếp, các hoạt
động thực hành, các hoạt động kiểm tra đánh giá,…) để thực hiện có hiệu quả mục
đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Hay nói một cách khác tự học là học với sự tự giác
và tích cực ở mức độ cao.
Tự học chỉ thực sự diễn ra trong các tình huống sau:
+ Người học phải thực sự có nhu cầu muốn học. Nhu cầu tự học phải xuất
phát từ mong muốn làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, để hoàn thiện nhân
cách của mình.
+ Tự học chỉ được thực hiện thông qua làm việc. Nhiều công trình nghiên
cứu đã chỉ ra rằng sinh viên chỉ có thể học bằng nghe, bằng quan sát và họ sẽ được
học tốt hơn nhiều nếu họ được tham gia tích cực vào quá trình học tập, nếu họ có cơ
hội để thể nghiệm những gì mà họ đã tiếp thu được trước đó [19,32]. Dixtecvec cho
rằng: Hãy bắt buộc học sinh làm việc, làm việc có sáng kiến cá nhân,hãy dạy các
em thấy rằng không thể có ý nghĩa gì khác hơn là phải tiếp thu được cái gì đó bằng
chính sức mình, dạy các em độc lập suy nghĩ tìm tòi, thi thố tài năng, phát huy

những sức mạnh tiềm năng của mình [19,47].
21
+ Tự học chỉ diễn ra khi người học tiến hành giải quyết vấn đề,giải quyết
tình huống, giải quyết các nhiệm vụ học tập.Đứng trước tình huống, đứng trước vấn
đề buộc người học phải tích cực suy nghĩ, phải tích cực hành động để tìm ra hướng
giải quyết vấn đề. Tác giả Nguyễn Đức Thâm có viết: Muốn học được nhiều thì chủ
yếu là phải tự học, thầy dạy không chỉ dạy tất cả những điểm cần thiết đối với
trò.Vì mỗi học sinh có một vốn tri thức riêng,có một trình độ tư duy riêng.Chỉ có tự
học mới học được tất cả những điều cần học [34,145]
Trong xu thế phát triển của xã hội ngày nay, với sự tăng nhanh của khối
lượng tri thức và thông tin khoa học, sự hiện đại hóa của các phương tiện kỹ thuật
dạy học đã đặt ra yêu cầu soạn thảo nội dung dạy học theo hướng ngày càng được
hiện đại hóa để cập nhật nhanh những thông tin mới của khoa học kỹ thuật. Những
thông tin cập nhật đó không chỉ bao gồm những sự kiện mà chủ yếu là các nguyên
tắc, phương pháp xử lí thông tin và hiện tượng. Điều đó có nghĩa là hoạt động dạy
trong nhà trường nói chung và đặc biệt trong trường đại học nói riêng cần phải
hướng tới cách học, dạy phương pháp học, phương pháp làm việc, giúp sinh viên
biết cách tự nghiên cứu, tự khám phá để giải quyết các vấn đề do nhiệm vụ dạy học
đặt ra. Tự học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV là một phương pháp dạy học ở
đại học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của SV, phát huy tính tích
cực, tự giác, độc lập, sang tạo của sinh viên trong quá trình nhận thức. Trong quá
trình tổ chức, hướng dẫn tự học, người thầy cần phải giú đỡ người học nhận thức rõ
họ phải học cái gì? Và học như thế nào? Học để làm gì?
Để làm được yêu cầu trên, trong hoạt động DH, người thầy cần phải giúp
sinh viên xác định rõ các mục tiêu học tập, các nhiệm vụ cụ thể phải hoàn thành,
hiểu được ý nghĩa của việc hoàn thành các mục tiêu học tập, từ đó xác định nội
dung hoạt động học tập, hình thành các hoạt động học tập, các kỹ năng tự kiểm tra,
tự đánh giá bản thân. Trong các nhiệm vụ trên nhiệm vụ hình thành hoạt động cho
sinh viên là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, tác giả Phan Trọng Ngọ viết: Hình thành
hoạt động học tập cho học sinh là nhiệm vụ cốt cử của giáo viên. Vấn đề này là

chìa khóa dẫn đến thành công trong hoạt động dạy học. Nếu hình thành được hành
22
động học tập sẽ hình thành được hoạt động học tập…Bất kỳ khái niệm khoa học
nào cũng phải được hình thành như hoạt động học tập và cũng đều có thể và trở
thành phương tiện để hình thành khái niệm khoa học tiếp theo [30,108].
Hoạt động học tập của SVđược thực hiện bởi một hệ thống những kĩ năng, kĩ
xảo nhất định. Vì vậy, muốn hoạt động tự học đạt hiệu quả cao đòi hỏi người học
phải có kĩ năng tự học. Môi trường học tập gồm có môi trường vật chất và môi
trường tinh thần do giáo viên tạo ra. Ví dụ: giáo viên có thể dùng các phương pháp
“ phá vỡ tảng băng”, “ làm nóng”, “ tấn công não”, sử dụng bài tập tình huống để
tạo hứng thú học tập cho sinh viên, kích thích tính tích cực, tính tự giác học tập của
SV, nhằm phát huy tới mức cao nhất năng lực sẵn có của họ vào việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập đề ra. Hoặc người học cũng có thể tự tạo cho mình môi trường
học tập phù hợp với yêu cầu nội dung môn học.
Yếu tố tâm lí là yếu tố bên trong ảnh hưởng đến kết quả tự học của SV đó là
nhu cầu, động cơ và thái độ tích cực của SV. Muốn tự học có kết quả cao đòi hỏi
chủ thể tự học phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn, phải có nhu cầu và
hứng thú học tập, phải có sự say mê khoa học, phải nhận thức rõ được mục đích của
hoạt động học tập và ý thức một cách đầy đủ về việc học của mình. Bên cạnh đó,
người học không ngừng hoàn thiện các chức năng tâm lí nhận thức để tiến hành
hoạt động học một cách có hiệu quả dưới sự hướng dẫn và điều khiển của thầy. Đó
là các quá trình cảm giác, tri giác, ghi nhớ, tư duy…Đặc biệt là quá trình ghi nhớ và
tư duy bới vì trong quá trình tự học, sinh viên phải tái hiện lại một cách chính xác,
khoa học nội dung những thông tin đã tiếp nhận từ nhiều kênh thông tin khác nhau:
Từ tài liệu tự nghiên cứu, từ truyền hình, từ môi trường lớp học, từ mạng Internet…
đồng thời phải có khả năng phân tích, so sánh, khái quát nội dung tri thức từ các
kênh thông tin đã nghiên cứu thành một dàn ý hay một bản đề cương tóm tắt. Để
hoàn thành nội dung học tập đòi hỏi chủ thể tự học phải có ý chí vượt khó để vượt
qua những vật cản hay chướng ngại vật trong quá trình tự học nhằm đạt được các
mục tiêu học tập đã đề ra.

23
Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi người học có đầy đủ các phương tiện hỗ
trợ cho hoạt động tự học, phương tiện đầu tiên phải kể đến là tài liệu giáo trình, các
tài liệu hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo khác. Ngoài ra còn có các
phương tiện hỗ trợ như băng hình, máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn khác.
Phải có địa điểm tự học với các điều kiện cần thiết về vệ sinh học đường để hoạt
động tự học của SV có hiệu quả. Phải có đủ điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho
sinh hoạt hàng ngày của SV
1.2.2. Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La tinh ( student) có nghĩa là làm
việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó được dùng cùng
nghĩa tương đương với student trong tiếng Anh [45], etudiant trong tiếng Pháp và
Cmgenm trong tiếng Nga. Sinh viên là để chỉ những người theo học ở bậc đại học
và phân biệt với học sinh đang theo học ở bậc phổ thông.
Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ sinh viên được diễn nghĩa ra là người bước vào
cuộc sống, cuộc đời. Còn theo từ điển tiếng Việt, khái niệm sinh viên được dùng để
chỉ người học ở bậc đại học. Theo quy chế công tác Học sinh- Sinh viên trong các
trường đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo [34] thì: Sinh viên là người đang theo
học hệ Đại học và Cao đẳng.
Ta có thể hiểu: Sinh viên là những người đang học tập tại các trường Đại
học, Cao đẳng- nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội.
1.2.3. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên Sư phạm
Theo tác giả Nguyễn Thạc, Phan Thành Nghị [22], sự phát triển tự ý thức là
một trong những đặc điểm tâm lí quan trọng nhất của SV sư phạm. Tự ý thức là ý
thức về sự đánh giá của con người: về hành động và kết quả tác động của mình;
đánh giá về tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức và hứng thú; về tư tưởng và
động cơ của hành vi; là đánh giá toàn diện chính bản thân mình và vị trí của mình
trong cuộc sống. Tự ý thức là một hình thức có ý thức giúp SV có những hiểu biết
và thái độ đối với mình, để chủ động hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Tự
ý thức của SV được hình thành trong quá trình xã hội hóa và liên quan chặt chẽ với

tính tích cực của nhận thức của SV.
24
Hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, niềm tin và nắm vững các
chuẩn giá trị nhân cách của người giáo viên. Đặc điểm này có được là do ảnh hưởng
của việc giảng dạy và học tập các môn khoa học, quá trình rèn luyện chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm.
Trong quá trình học tập, SV sư phạm đã tiếp thu những tri thức lí luận gắn
liền với việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để trở thành cô giáo tương lai. Đối với
họ, học tập không những nhằm mục đích tiếp thu kiến thức thuộc chuyên ngành đào
tạo mà điều quan trọng hơn, khi tốt nghiệp ra trường, họ trở thành thầy cô giáo tham
gia hoạt động giảng dạy, giáo dục học sinh phổ thông bằng chính tri thức chuyên
ngành mà họ đã tiếp thu được ở đại học. Vì vậy, ngoài việc nắm vững, thông hiểu
hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, chuyên ngành, họ còn phải học cách dạy học và
giáo dục, hình thành phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, tình cảm nghề nghiệp
Như vậy, tổ chức hoạt động tự học cho SV sư phạm là quá trình thiết kế, sắp
xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy của thầy nhằm hướng dẫn, điều khiển, chỉ đạo
cách tự thiết kế, sắp xếp các biện pháp hoạt động tự học, tự nghiên cứu của người
học, giúp họ phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu của mình,
thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ học tập đặt ra.
1.3. Cấu trúc tâm lí và quy trình hình thành năng lực tự học
1.3.1. Cơ chế và quy trình hình thành năng lực tự học
Hoạt động bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu và lợi ích, chính nó tạo ra động
cơ hoạt động. Trong hoạt động tự học, SV phải nhận thức được nhu cầu và lợi ích
của việc tự học, có động cơ. Từ đó nhận định, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống
nhất nguồn thông tin, ý tưởng, hướng giải quyết và đánh giá tự học. Động cơ là cơ
chế tâm lí thứ nhất của tự học. Sự tự giác là cơ chế tâm lí đặc thù thứ hai.
Quá trình tự học có sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng, đó là quá
trình tác động tâm lí biện chứng, tương hỗ, tương đồng. Từ đó xuất hiện tình cảm, ý
chí trong việc giải quyết vấn đề, trong sự đồng cảm, hỗ trợ của các thành viên trong
nhóm học tập từ đó hình thành ý thức bản thân mình. Cơ chế đồng cảm là cơ chế

thứ ba.
25

×