Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - thực tiễn tại thành phối Hải Phòng Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI QUỐC DÂN

b¶o vƯ quyền của ng-ời ch-a thành niên phạm tội
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thực tiễn tại thành phố hải phòng
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Quốc Dân



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................... 7
1.1.

Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết vụ
án đối với người chưa thành niên..................................................... 7

1.1.1.

Người chưa thành niên phạm tội ......................................................... 7

1.1.2.

Thủ tục giải quyết vụ án đối với người chưa thành niên ................... 12

1.2.

Pháp luật quốc tế về quyền của người chưa thành niên
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ....................................... 15

1.2.1.


Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự ............................... 15

1.2.2.

Các quyền riêng biệt đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................................ 18

1.3.

Lược sử hình thành và phát triển những quy định của
pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên phạm tội .................................................................................... 23

1.3.1.

Pháp luật Việt Nam thời kỳ Phong kiến (thế kỷ X đến giữa thế
kỷ XIX) về bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội ........ 23

1.3.2.

Pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc về bảo vệ quyền của
người chưa thành niên phạm tội ........................................................ 24


1.3.3.

Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên phạm tội từ năm 1945 đến 1985 ................................................ 26


1.3.4.

Pháp luật Việt Nam từ năm 1985 đến nay về bảo vệ quyền của
người chưa thành niên phạm tội ........................................................ 29

Kết luận chương 1 ......................................................................................... 32
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI HẢI PHÒNG .............................................. 33
2.1.

Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo
vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội trong điều
tra vụ án hình sự .............................................................................. 33

2.1.1.

Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội ........................... 33

2.1.2.

Đối tượng chứng minh trong vụ án có người bị tạm giữ, bị can
là người chưa thành niên.................................................................... 38

2.1.3.

Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong
những vụ án có người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên...... 43

2.1.4.


Áp dụng biện pháp ngăn chặn và giám sát đối với người bị tạm
giữ, bị can là người chưa thành niên ................................................. 46

2.1.5.

Thủ tục tố tụng trong vụ án có người bị tạm giữ, bị can là
người chưa thành niên ....................................................................... 48

2.1.6.

Bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can là người
chưa thành niên .................................................................................. 51

2.2.

Thực tiễn bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm
tội trong giai đoạn điều tra của Cơ quan điều tra Cơng an
thành phố Hải Phịng trong thời gian qua..................................... 52

2.2.1.

Tình hình người chưa thành niên phạm tội........................................ 52

2.2.2.

Về tính chất mức độ hành vi phạm tội do người chưa thành
niên thực hiện..................................................................................... 53



2.2.3.

Thực tiễn điều tra về điều kiện sống, giáo dục và việc xác định
có hay khơng người thành niên xúi giục ........................................... 55

2.2.4.

Thực tiễn áp dụng quy phạm về quyền bào chữa của người
chưa thành niên .................................................................................. 58

2.2.5.

Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phạm tội ........................................................................... 60

2.2.6.

Thực tiễn hoạt động lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị
can là người chưa thành niên ............................................................. 61

Kết luận chương 2 ......................................................................................... 63
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ...................... 65
3.1.

Hoàn thiện các quy định của luật hình sự về bảo vệ quyền
của người chưa thành niên.............................................................. 65

3.2.


Hoàn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự bảo vệ
quyền cho người chưa thành niên .................................................. 67

3.2.1.

Về phạm vi áp dụng của Bộ luật tố tụng hình sự .............................. 67

3.2.2.

Về điều tra, truy tố và xét xử ............................................................. 68

3.2.3.

Về bắt, tạm giữ, tạm giam ................................................................. 70

3.2.4.

Về giám sát bị can, bị cáo .................................................................. 72

3.2.5.

Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội ....... 74

3.3.

Các giải pháp đảm bảo .................................................................... 77

3.3.1.

Nâng cao hiệu quả mơ hình điều tra thân thiện đối với vụ án do

người chưa thành niên thực hiện ....................................................... 77

3.3.2.

Nâng cao ý thức pháp luật của người chưa thành niên và cho
nhân dân ............................................................................................. 81

3.4.

Tăng cường hợp tác quốc tế ............................................................ 82

Kết luận chương 3 ......................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA

Bộ Cơng an

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luât tố tụng hình sự

ĐTTT


Điều tra thân thiện

NCTN

Người chưa thành niên

NXB

Nhà xuất bản

PLHS

Pháp luật hình sự

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

TANDTC

Tịa án nhân dân Tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng


Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Bảng thống kê số lượng bị can là người chưa thành
niên trong tổng số bị can bị khởi tố điều tra

53

Bảng 2.2: Bảng cơ cấu loại tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện

54

Bảng 2.3: Bảng số liệu về người chưa thành niên bị khởi tố đã bỏ
học và lang thang trong tổng số người chưa thành niên
bị khởi tố

56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và
ln ln là khát vọng của tồn thể nhân loại. Quyền con người từ khi được
sinh ra và được bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho nên, nó khơng
chỉ là vấn đề của một quốc gia, một dân tộc mà là trách nhiệm của cả nhân
loại trong việc bảo vệ quyền thiêng liêng ấy.
Ở Việt Nam, Tuyên ngơn độc lập năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí minh

đọc tại Quảng trường Ba Đình có đoạn: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”. Trên tinh thần đó các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và
Hiến pháp 2013 ở những mức độ khác nhau đó ghi nhận và cam kết tôn trọng,
bảo vệ quyền con người.
Quyền con người địi hỏi được bảo vệ khơng chỉ khi họ chấp hành tốt
pháp luật, khi họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước, xã hội mà
ngay cả khi họ vi phạm pháp luật, hay phạm tội phải chịu những biện pháp
cưỡng chế của cơ quan bảo vệ pháp luật thì những quyền ấy vẫn cần phải
được bảo vệ. Đó là bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền với hệ thống
pháp luật vì con người, con người là trung tâm của xã hội.
Quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo đảm
thực hiện nó khơng phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con người mà cần
phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành, mọi người
tham gia. Trong đó, hoạt động điều tra tội phạm của cơ quan điều tra đóng vai
trị hết sức quan trọng. Bởi vì, hoạt động điều tra là giai đoạn đầu của quá
trình tố tụng hình sự, nhiệm vụ là thu thập tài liệu về tình tiết ngoại phạm và

1


hành vi phạm tội của con người, tác động trực tiếp đến bảo vệ quyền con
người đối với bên bị hại và một bên là người nghi vấn thực hiện tội phạm - là
những người mà quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại.
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại trong
tất cả các xã hội, tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn
biến rất phức tạp, tăng cả về số vụ án và số bị can là người chưa thành niên.
Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế
về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện

về bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ
bị lơi kéo vào hoạt động tội phạm. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm về người chưa thành niên không phải
chỉ giải quyết vụ án, trừng trị tội phạm mà mục đích để giáo dục người phạm
tội, ngăn ngừa tội phạm không để hành vi phạm tội tiếp tục xảy ra. Quán triệt
tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đó dành nguyên một
chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng áp dụng trong quá trình điều, tra truy tố,
xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội. Song, thực tế các hoạt động
điều tra vẫn còn những hạn chế, còn vướng mắc, bất cập. Bên cạnh đó đội ngũ
cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp cịn thiếu, trình độ nghiệp vụ và sự hiểu biết về
khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên còn yếu, các điều kiện về
kinh tế, văn hóa, cơ sở vật chất cũng cịn những khó khăn nhất định trong q
trình thực thi pháp luật bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
Như vậy, thực tiễn đặt ra cho cơ quan điều tra ngoài việc đấu tranh hiệu
quả với tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm hại thì
đồng thời phải có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can là
người chưa thành niên trong các vụ án hình sự. Chính vì vậy trên cả hai

2


phương diện lý luận và thực tiễn tôi chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - thực tiễn
tại thành phố Hải Phòng” cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, việc điều tra đối với những vụ
án mà người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên là một trong những
nội dung quan trọng. Bởi vì, ngồi việc áp dụng các biện pháp điều tra làm rõ

nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, truy tố bị can trước pháp luật. Cơ quan
điều tra cũng phải thực hiện việc giáo dục họ để nhận thức, sửa chữa lỗi lầm,
phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, tạo điều kiện giúp họ sớm hịa
nhập cuộc sống bình thường.
Trước khi chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm
tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - thực tiễn tại thành phố Hải
Phòng” cho luận văn thạc sĩ của mình, tác giả đã tham khảo một số nghiên
cứu về lĩnh vực tư pháp đối với người chưa thành niên như: Nguyễn Trần
Bích Phượng "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội", Luận văn cử
nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Khánh Toàn - "Thủ tục tố
tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn", Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2003; Đỗ Thị Phượng "Thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", Luận án tiến sĩ
Luật học, Khoa Luật Hà Nội, ĐHQG Hà nội, 2008; Nguyễn Thị Thanh“Bảo
vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam”, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia hà Nội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến thủ tục tố tụng
hình sự trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án mà bị can, bị cáo

3


là người chưa thành niên. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu sâu về sự
tác động của các quy định thủ tục tố tụng đó, vai trị của cơ quan điều tra và
các yếu tố khác tác động đến đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can là người chưa thành niên. Từ đó, khẳng định sự cần thiết bảo đảm
quyền con người của bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều tra.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá thực trạng của quá
trình điều tra vụ án mà người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên, luận
văn góp phần làm sáng tỏ sự tác động các quy định của pháp luật tố tụng hình và
các yếu tố khác trong việc đảm bảo quyền con người của bị can là người chưa
thành niên trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Qua đó khẳng định sự cần
thiết bảo đảm quyền con người của bị can là người chưa thành niên trong hoạt
động điều tra và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đánh giá cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn
hoạt động điều tra các vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên.
Trong đó tập trung nghiên cứu các vấn đề: khái quát về người chưa thành
niên; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người chưa thành niên; những quy định của
pháp luật nói chung về người chưa thành niên; những quy định của luật tố
tụng hình sự trong vụ án mà người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành
niên; thực trạng áp dụng các thủ tụng tố tụng và các yếu tố khác tác động đến
quyền của bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều tra. Thơng
qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị để đảm bảo quyền của bị
can là người chưa thành niên hiệu quả nhất nhằm giáo dục, cải tạo họ thành
người có ích cho xã hội.

4


3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu: Các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến
việc bảo vệ quyền của bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều
tra giai đoạn hiện nay như: thủ tục tố tụng tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội; vai trò của cơ quan điều tra, điều tra viên; yếu tố kinh tế…
Nghiên cứu thực tiễn hoạt động điều tra đối với bị can là người chưa thành

niên của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng trong những
năm gần đây.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là các quan
điểm, học thuyết, qui định của pháp luật quốc tế và Việt Nam về quyền con
người và bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong TTHS đặc
biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng giới hạn phạm vi
khảo sát thực tiễn bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong
TTHS tại địa bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây (từ 2009 đến 2013).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp: Hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh pháp
luật… để giải quyết các nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Nội dung của luận văn được trình bày một cách có hệ thống các quy
định pháp luật về việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên, quy định tố
tụng hình sự và thực tiễn hoạt động điều tra vụ án mà người bị tạm giữ, bị can

5


là người chưa thành niên. Ngoài việc nghiên cứu các yếu tố pháp lý, Luận văn
cũng nghiên cứu các yếu tố khác có tác động đến việc bảo vệ quyền của người
bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên trong hoạt động điều tra các vụ án
hình sự, đề xuất những phương hướng, biện pháp để khắc phục hạn chế, nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hình sự về bảo vệ quyền cho

người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trong luận văn có
ý nghĩa quan trọng đối với cơng cuộc bảo vệ quyền trẻ em nói chung, của
người bị tạm giữ, bị can là chưa thành niên trong vụ án hình sự nói riêng.
Thơng qua hệ thống các giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp một phần ý
kiến vào sự phát triển của kho tàng lý luận tư pháp hình sự về bảo vệ quyền
cho người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học tư pháp hình
sự nói riêng cũng như trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu chặt chẽ, khoa học, đúng quy chuẩn. Ngoài phần mở
đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương, cụ thể:
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên phạm tội và thực tiễn áp dụng tại Hải Phòng.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền của người chưa
thành niên phạm tội.
Kết luận

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết vụ án
đối với người chưa thành niên.
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội
1.1.1.1. Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là thuật ngữ phổ biến được sử dụng trong đời
sống cũng như trong các ngành khoa học nghiên cứu. Dưới nhiều góc độ
nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu khác nhau mà ở mỗi ngành khoa
học lại có cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vị
thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay nói cách khác là người chưa đủ 18 tuổi”.
Định nghĩa này phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em thông qua ngày 20/11/1989: “Trong phạm vi của Cơng ước này,
trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [4, Điều 1, tr.1]. Theo
cách hiểu thông thường, từ “trẻ em” nghĩa là người chưa thành niên, hay vị
thành niên. Thế nhưng trong Công ước này trẻ em lại bao gồm tất cả những
người chưa phải người lớn. Công ước nhấn mạnh rằng tất cả những ai dưới 18
tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi đã được ghi nhận trong Công ước.
Tuy nhiên, những quy định khác nhau về khái niệm người chưa thành
niên lại nằm trong các văn bản pháp luật truyền thống của các quốc gia trên
thế giới. Sở dĩ có sự quy định khác nhau như vậy là do xuất phát từ truyền
thống lịch sử văn hóa cũng như các quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán

7


của các quốc gia khác nhau. Mặt khác, còn do điều kiện kinh tế - xã hội, sự
phát triển về sinh học của con người, đặc biệt là chính sách pháp luật và yêu
cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phịng chống tội phạm của mỗi quốc gia
cũng có sự khác nhau.

Trong phạm vi một quốc gia, thì tùy vào từng ngành khoa học mà
người ta cũng có khái niệm khác nhau về người chưa thành niên. Ở Việt Nam,
Điều 1 Luật giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em Việt Nam quy định rõ: “Trẻ
em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [23]. Bộ luật
dân sự năm 2005 cũng có quy định tương tự: “Người chưa đủ 18 tuổi là người
chưa thành niên” [28, Điều 18]. Như vậy, theo nghĩa chung nhất thì người
chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi.
Ở độ tuổi này, người chưa thành niên có những đặc điểm tâm sinh lý
đặc trưng và chính vì thế mà bất cứ ngành luật nào cũng dành những quy định
đặc biệt để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
Bất kể một công dân nào sinh ra cũng có sẵn một cơ sở vật chất giống
nhau đó là bộ não. Đây là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Trong qua trình lớn
lên, trưởng thành, bộ não của con người tiếp nhận, chọn lọc những kỹ năng
sống, tri thức để phát triển qua gia đình, nhà trường, xã hội xung quanh. Đúng
như F. Ăngghen đã từng nói: Ý thức từ ban đầu đã là sản phẩm của xã hội và
vẫn là sản phẩm của xã hội chừng nào xã hội còn tồn tại và chỉ trong tự ý thức
con người mới tách mình độc lập với thế giới xung quanh, xác định vị trí của
mình trong những quan hệ tự nhiên và xã hội. Đây là điều kiện đủ để một
người đạt đến ngưỡng gọi là “trưởng thành” hay “đã thành niên”. Dưới
ngưỡng này đồng nghĩa với việc chưa phát triển đầy đủ, khả năng thích ứng
với xã hội còn kém và rất dễ bị thương tổn tâm lý, nếu khơng khéo léo “chạy
chữa” thì người đó sẽ khơng thể trở thành một người trưởng thành thật sự.
Người chưa thành niên chính là những người đang ở vị thế như vậy.

8


1.1.1.2. Người chưa thành niên phạm tội
Như đã phân tích ở trên, năng lực trách nhiệm hình sự chỉ hình thành
khi con người đạt đến một độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ được hồn

thiện ở một độ tuổi tiếp theo. Người chưa thành niên, hay vị thành niên hoặc
có nơi coi là trẻ em về thể chất và tâm sinh lý đã có sự phát triển đáng kể, có
khả năng hiểu biết nhất định để có những xử sự phù hợp với quy định của
pháp luật. Theo nguyên tắc công bằng của pháp luật, họ phải chịu trách nhiệm
về hành vi do chính mình thực hiện.
“Người chưa thành niên phạm tội” là thuật ngữ sử dụng trong khoa học
PLHS, PLTTHS và các khoa học gần gũi khác. Mặc dù BLTTHS và BLHS
đều có dành một chương riêng để quy định về người chưa thành niên phạm
tội, nhưng lại đều khơng có khái niệm lập pháp chính thức thế nào là người
chưa thành niên phạm tội. BLHS 1985 cũng như BLHS 1999 khi nói tới
người chưa thành niên phạm tội chỉ đưa ra một khái niệm gián tiếp thơng qua
việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 12 BLHS năm 1999 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. BLHS năm 1999 cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của chương này” [25, Điều 68].
Với quy định trong các điều khoản trên có thể hiểu người chưa thành
niên phạm tội bao gồm những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi.
Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng: Người chưa thành niên trong pháp luật hình
sự Việt Nam phải được nhìn nhận chính xác từ hai góc độ, không nên đồng
nhất thuật ngữ “người chưa thành niên” trong pháp luật hình sự với thuật ngữ
“người chưa thành niên phạm tội”. Ở góc độ thứ nhất, người chưa thành niên

9


là người bị hại, người xúi giục, “người chưa thành niên” sẽ bao gồm tất cả
những người ở độ tuổi dưới 18 tuổi. Nhìn từ góc độ thứ hai, “người chưa

thành niên” bằng năng lực, nhận thức của mình thực hiện hành vi bị pháp luật
cấm, tức là người chưa thành niên phạm tội. Tại thời điểm họ thực hiện hành
vi phạm tội, pháp luật quy định họ phải đang ở độ tuổi 14 tuổi đến dưới 18
tuổi mà không ở trong tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự (tình
trạng bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hoạt động của
mình do bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác).
Một câu hỏi mà bất cứ một người nào mới tiếp xúc với pháp luật hình
sự cũng sẽ đặt ra trong trường hợp này là: tại sao pháp luật hình sự lại quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi? Ở một số quốc gia trên thế
giới quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự rất khác nhau; ví dụ: Singapo:
7 tuổi; Anh: 10 tuổi; Canada: 12 tuổi; Nhật Bản, Nga: 14 tuổi; Thụy Điển: 15
tuổi; Cuba: 16 tuổi… Sở dĩ, pháp luật hình sự của các nước quy định khác
nhau như vậy là do phụ thuộc vào điều kiện phát triển của từng nước.
Ở nước ta, pháp luật hình sự quy định 14 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong độ
tuổi này, người chưa thành niên đã bắt đầu phát triển nhanh về tâm sinh lý.
Họ đã tự ý thức được những hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng,
đâu là sai, ý thức được phần nào những việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai
trái, bị pháp luật cấm. Vì lẽ đó, họ cũng đã có sự cân nhắc, dù cẩn thận hay
không trước khi thực hiện hành vi của mình. Từ đó, họ có nghĩa vụ phải chịu
trách nhiệm về chính hành vi do mình thực hiện ấy.
Như vậy, khái niệm về người chưa thành niên phạm tội do BLHS quy
định có ý nghĩa pháp lý sâu sắc. Đó là cơ sở xác định tính chất tội phạm đối
với những hành vi do người chưa thành niên thực hiện và tạo điều kiện cho
việc áp dụng hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội

10


của hành vi trên cơ sở những đặc điểm tâm sinh lý vào thời điểm họ phạm tội.

Không những thế, khái niệm trên cịn mang ý nghĩa chính trị - xã hội bởi nó
phù hợp với nội dung điều ước quốc tế, tiến bộ của nhân loại mà chúng ta đã
gia nhập vừa phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, sự phát triển về thể chất,
tinh thần con người Việt Nam và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội
phạm ở nước ta.
Thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” vốn đã phức tạp lại càng
phức tạp thêm vì vấn đề này khơng chỉ có ý nghĩa về phương diện đạo đức,
pháp lý mà cịn có ý nghĩa về phương diện thực tế hoặc thống kê. Trong thực
tế, còn tồn tại nhiều vướng mắc gây tranh cãi khi xác định một cá nhân có phải
là người chưa thành niên phạm tội hay khơng. Trước hết, phải kể đến khó khăn
vướng mắc trong việc xác định độ tuổi của một người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong những trường hợp không rõ ràng về ngày, tháng,
năm sinh. Thứ hai là khó khăn trong việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà người chưa thành niên thực hiện có phải là tội phạm hay khơng phải tội
phạm vì rất khó phân biệt tội phạm với các loại vi phạm khác. Chẳng hạn, hành
vi trộm cắp một chiếc xe đạp của người khác chỉ trở thành tội phạm khi xác
định chính xác giá trị của chiếc xe từ hai triệu đồng trở lên, nếu không, hành vi
đó chỉ là một vi phạm hành chính. Cuối cùng là khó khăn, vướng mắc trong
việc xác định một cách chính xác, phù hợp với thực tế tổng số vụ và người
chưa thành niên phạm tội hàng năm. Con số người chưa thành niên phạm tội
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết là mức độ kiểm soát tội phạm, hiệu quả
của công tác phát hiện, xử lý tội phạm. Các tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện được phát hiện chỉ là một phần mà chúng ta biết được trong số rất
nhiều vụ phạm pháp hình sự đã và đang xảy ra. Mặt khác, các vụ phạm tội
được ghi nhận vào sổ thống kê lại chưa bằng một nửa số vụ người chưa thành
niên phạm tội bị phát hiện. Mặc dù các con số thống kê hình sự về số lượng các

11



vụ án và số lượng người chưa thành niên chỉ là phần tội phạm rõ trong tổng thể
các tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể
sử dụng con số này làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá, phân tích tình
hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Dựa vào những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Người chưa thành niên
phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm
hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và đã có
lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
BLHS quy định là tội phạm.
1.1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với người chưa thành niên
1.1.2.1. Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
“Người chưa thành niên phạm tội” là khái niệm của luật hình sự và
khơng đồng nghĩa với khái niệm “người chưa thành niên trong Tố tụng hình
sự”, tuy nhiên, hai khái niệm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như
khái niệm “ người chưa thành niên phạm tội” để chỉ người chưa thành niên đã
bị tòa án kết tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì khái niệm “người chưa
thành niên trong TTHS” chỉ người chưa thành niên, mà hành vi của họ có dấu
hiệu tội phạm đang trong quá trình giải quyết vụ án ở những giai đoạn TTHS
khác nhau, đó là người bị bắt, b tm gi, b can, b cỏo. Đây là khái niệm đặc
thù của pháp luật tố tụng hình sự v do đó, luật TTHS qui định thủ tục giải
quyêt vụ án đối với người chưa thành niên chứ không phải là thủ tục giải
quyết vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo qui định của Luật
TTHS Việt Nam thì thủ tục giải quyết vụ án đối với người chưa thành niên
được áp dụng cho các đối tượng sau: (a) Ng-ời bị bắt bao gồm: ng-ời bị bắt
trong tr-ờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, ng-ời bị bắt theo quyết định
truy nÃ; (b) Ng-ời bị tạm giữ: là ng-ời bị bắt trong tr-ờng hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, ng-ời bị bắt theo quyết định truy nà hoặc ng-ời phạm tội tự thú,

12



đầu thú và đối với họ đà có quyết định tạm giữ; (c) Bị can là ng-ời đà bị khởi
tố về hình sự; (d) Bị cáo là ng-ời bị toà án quyết định đ-a ra xét x.
Ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ng-ời ch-a thành niên
thỏa mÃn những quy định pháp lý về ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo nh-ng hä ®ang ë ®é ti tõ ®đ 14 ti ®Õn ch-a đủ 18 tuổi. Vì vậy, những
thủ tục đối với ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ng-ời ch-a
thành niên phải đ-ợc tiến hành theo thủ tục đặc biệt đ-ợc quy định tại ch-ơng
XXXII BLTTHS năm 2003. Do đó, có thể hiểu: ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là ng-ời ch-a thành niên nghĩa là ng-ời đang ở độ tuổi từ ®đ 14
ti ®Õn d-íi 18 ti ë thêi ®iĨm c¸c cơ quan có thẩm quyền tiến hành các
hoạt động tố tụng hình sự đối với họ.
Nh- vậy, khái niệm ng-ời ch-a thành niên phạm tội và khái niệm ng-ời
bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ng-ời ch-a thành niên có những
điểm khác nhau xuất phát từ thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật mà trong
đó ng-ời ch-a thành niên là chủ thể. Quy định đối với ng-ời ch-a thành niên
phạm tội trong BLHS chỉ áp dụng đối với đối t-ợng là ng-ời ch-a thành niên ở
thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội; còn ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là ng-ời ch-a thành niên bị coi là những ng-ời bị tình nghi trong
quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Những quy định áp dụng đối với họ chỉ
đ-ợc thực hiện vào thời điểm họ bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, truy
tố, xét xử và phải vào thời điểm mà họ là ng-ời ch-a thành niªn.
1.1.2.2. Thủ tục giải quyết vụ án là người chưa thnh niờn
Theo Từ điển Tiếng Việt thì Thủ tục được hiểu là những việc cụ thể
phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất
chính thức (nói tổng quát). Tại thời điểm các quy định tố tụng hình sự đ-ợc
áp dụng đối với ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ng-ời bị kết án
là ng-ời ch-a thành niên, họ ®ang ë ®é ti tõ 14 ti ®Õn d-íi 18 tuổi. Mặc
dù Ch-ơng XXXII BLTTHS năm 2003 có tên gọi là Thủ tục đối với người


13


ch-a thành niên nh-ng trong quy định về phạm vi áp dụng thủ tục này tại
Điều 301 nhà làm luật Việt Nam không hề ghi nhận khái niệm pháp lý thủ tục
đối với ng-ời ch-a thành niên là gì?
BLTTHS nm 2003 quy định: Thủ tục tố tụng đối với ng-ời bị bắt,
ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ng-ời ch-a thành niên đ-ợc áp dụng theo
quy định của Ch-ơng này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật
này không trái với những quy định của Ch-ơng này [27, Điều 301]. Nghĩa là,
khi điều tra, truy tố, xét xử đối với ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là ng-ời ch-a thành niên không chỉ phải thực hiện theo quy định chung về
thủ tục tố tụng mà còn phải thực hiện theo quy định của Ch-ơng XXXII
BLTTHS. Tất cả những thủ tục đặc biệt này đều nhằm mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của một ng-ời ch-a thành niên.
Trong tr-ờng hợp một vụ án bắt đầu bằng thủ tục đặc biệt đối với ng-ời
ch-a thành niên phạm tội nh-ng đến giai đoạn xét xử chẳng hạn, ng-ời ch-a
thành niên đà đủ tuổi thì nên xử lý nh- thế nào tiếp theo? Tiếp tục áp dụng thủ
tục tố tụng đặc biệt đối với ng-ời ch-a thành niên hay áp dụng thủ tục tố tụng
thông th-ờng? Theo quan điểm của chúng tôi thì vẫn nên áp dụng thống nhất
thủ tục tố tụng đặc biệt bởi vì nh- vậy sẽ không gây ra sự rắc rối mất thời gian
do phải có những thủ tục chuyển từ thủ tục đặc biệt sang thủ tục thông th-ờng,
nh- vậy sẽ đảm bảo giải quyết vụ án đ-ợc đúng đắn, khách quan, nhanh
chóng, đồng thời cũng bảo vệ đ-ợc quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo.
Nh- vậy, Thủ tục đối với ng-ời ch-a thành niên theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy định đặc biệt thể hiện nguyên tắc nhân
đạo của chính sách của Nhà n-ớc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đối với những vụ án mà ng-ời bị bắt, ng-ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hoặc bị kết án là ng-ời ch-a thành niên từ đủ 14 tuổi đến d-ới 18 tuổi nhằm giải
quyết một cách khách quan và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững

chắc các quyền lợi hợp pháp của họ trong các hoạt động tố tơng h×nh sù.

14


1.2. Pháp luật quốc tế về quyền của người chưa thành niên trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự
1.2.1. Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự
Quyền con người trong TTHS là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền
dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của con
người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm
quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động TTHS.
Theo các văn bản pháp luật, quyền con người thuộc hai lĩnh vực sau: 1. Các
quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ tham gia tố
tụng với tư cách người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án phải chấp hành
hình phạt hoặc người có tư cách khác khi tham gia tố tụng; 2. Quyền được xét
xử công bằng bởi một Tòa án độc lập… Các quyền này được ghi nhận trong
công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR- Việt Nam
là thành viên từ năm 1982), trong các bình luận chung của cơ quan giám sát
Công ước này, cũng như trong một số hướng dẫn, nguyên tắc đó được cộng
đồng quốc tế thừa nhận liên quan.
Thứ nhất: Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nh©n
trong TTHS.
Đây là quyền của người bị tình nghi phạm tội bị áp dụng những biện
pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam; người bị kết án phải chấp hành
hình phạt tù trong các trại cải tạo và cũng được mở rộng đến những đối tượng
bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những người này ít nhiều đã gây nguy hại
cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã hội và hạn chế tự
do nhưng quyền của họ vẫn được ghi nhận và bảo đảm thi hành bằng biện
pháp pháp luật. Quyền của những người này chiếm một vị trí quan trọng trong

luật nhân quyền quốc tế và luật nhân quyền quốc gia. Các quyền cơ bản của
người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948),

15


Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều
văn kiện khác như "Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị
giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào" được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên
tắc cụ thể); "Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên
bị tước tự do" được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết
45/113 ngày 14/12/1990… Về cơ bản, những người bị tước tự do được bảo
đảm các quyền sau đây: a) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; b) Quyền được bảo vệ để khỏi
bị bắt, giam giữ tùy tiện; c) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân
phẩm của những người bị tước tự do; d) Quyền thông tin, liên lạc với bên
ngồi; e) Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu; g) Quyền đối với người
chưa thành niên.
Thứ hai, quyền được xét xử công bằng;
"Quyền được xét xử công bằng" là một quyền cơ bản và có tính phổ
qt cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều
quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong
mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh
một Nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét
xử cơng bằng đó được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống
như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử
công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên tịa cơng
bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như
quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận… Ngược lại,

trong một x· hội không dân chủ, các quyền cơ bản của con người không được
tôn trọng thì khó cã thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng.
Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ

16


cùng đó được khẳng định chính thức trong Tun ngơn Dakar về quyền được
xét xử công bằng tại Châu Phi. Từ các văn bản pháp luật đó nên “quyền được
xét xử công bằng” được hiểu như sau: Quyền được xét xử công bằng là quyền
cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc
phi hình sự trước cơ quan tư pháp (Cơng an, Cơng tố và Tịa án), được pháp
luật Quốc gia và Quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền, cụ thể:
được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, cơng khai bởi tịa
án độc lập, không thiên vị… nhằm bảo đảm cho việc xét xử được cơng bằng,
cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân.
Quyền được xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể sau:
a) Quyền binh đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập,
không thiên vị, công khai; b) Quyền bào chữa; c) Quyền được xét xử theo thủ
tục riêng của người chưa thành niên; d) Quyền kháng cáo; e) Quyền được bồi
thường khi bị kết án oan; g) Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội
danh; h) Khơng bị truy cứu hình sự với lý do khơng thực hiện được nghĩa vụ
hợp đồng; i) Không bị coi là có tội nếu hành vi khơng cấu thành tội phạm theo
pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; k) Không áp dụng hồi tố cũng
được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng.
Trên đây là những nội dung cơ bản của quyền con người trong TTHS
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật Quốc tế và pháp luật Quốc gia.
Từ những phân tích trên, quyền con người trong TTHS có thể được
hiểu là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục
đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh sự, nhân

phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử cơng
bằng bởi một tịa án độc lập, khách quan đối với những người yếu thế (người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng
khác) khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên Nhà
nước trong các hoạt động TTHS.

17


1.2.2. Các quyền riêng biệt đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
Nội dung các quy định nêu trong các Công ước, quy tắc có tính đến sự
đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần
của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và
thông lệ đối với việc quản lý người chưa thành niên phạm tội; đồng thời đảm
bảo rằng, trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người
chưa thành niên, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội không bị vi phạm.
Để thực hiện được mong muốn và tinh thần nêu trên, Công ước và một
số quy tắc, hướng dẫn khác đó thể hiện khá đầy đủ và tập trung các quyền cụ
thể của người chưa thành niên phạm tội cũng như những lưu ý đối với việc
xây dựng hệ thống pháp luật và việc áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm quyền
con người, quyền trẻ em của người chưa thành niên khi các em phạm tội.
Điều 40 của Công ước yêu cầu các Quốc gia thành viên phải thúc đẩy
việc thành lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên riêng và đặc biệt
là ban hành các đạo luật quy định trình tự, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp
dụng riêng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự. Cơng ước
đưa ra các quy định đảm bảo tối thiểu cho người chưa thành niên (các quy
định đảm bảo tranh tụng) vào thời điểm bị bắt giữ, xét xử và kết án. Công ước
yêu cầu các quốc gia thành viên quy định độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm

hình sự, và các biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình
sự mà khơng phải áp dụng thủ tục tố tụng (xử lý chuyển hướng, thay thế). Các
quốc gia thành viên cũng cần có nhiều biện pháp xử lý khác nhau đối với
người chưa thành niên nhằm đảm bảo các em được xử lý một cách phù hợp
với sự phát triển ở độ tuổi này.
Bên cạnh đó, Điều 37 của Cơng ước quy định người chưa thành niên

18


×