Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HỮU LONG



TRî GIóP PH¸P Lý T¹I TØNH THANH HO¸

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ




HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Hữu Long


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM 10

1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động trợ giúp pháp lý 10
1.1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý 10
1.1.2. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý 15
1.2. Những căn cứ, cơ sở để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động
trợ giúp pháp lý 26
1.2.1. Khái niệm chung về hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý 26
1.2.2. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý 32
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TẠI THANH HÓA (Từ 01/01/2007 đến nay) 34
2.1. Một số nét về đặc điểm kinh tế, xã hội ở tỉnh Thanh Hoá ảnh
hưởng đến hoạt động trợ giúp pháp lý 34
2.1.1. Về địa lý 34
2.1.2. Về dân cư 35
2.1.3. Về đặc điểm truyền thống 36
2.2. Hoạt động trợ giúp pháp lý ở Tỉnh Thanh Hoá 37
2.2.1. Thực trạng về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý 39
2.2.2. Thực trạng về đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý 44
2.2.3. Thực trạng về đối tượng được trợ giúp pháp lý 50
2.2.4. Thực trạng về các nguồn lực bảo đảm cho hoạt động trợ giúp pháp lý 52
2.2.5. Kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý 55
2.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý 72
2.3.1. Hiệu quả đã đạt được 72
2.3.2. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động trợ giúp pháp lý tại
Thanh Hóa 76
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở THANH HÓA 82
3.1. Quan điểm chỉ đạo về nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp
pháp lý ở Thanh Hóa 82
3.1.1. Trợ giúp pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về các vấn đề xã hội, bảo đảm công

bằng xã hội 82
3.1.2. Trợ giúp pháp lý phải đảm bảo quyền, lợi ích của các đối tượng
được trợ giúp pháp lý 83
3.1.3. Xác định vai trò, trách nhiệm của nhà nước về trợ giúp pháp lý 84
3.1.4. Trợ giúp pháp lý góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm
nghèo, phát triển bền vững 85
3.1.5. Trợ giúp pháp lý nhằm xây dựng ý thức pháp luật, nâng cao
nhận thức về quyền, nghĩa vụ, tôn trọng và tuân thủ pháp luật
của người được trợ giúp pháp lý 86
3.1.6. Đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách theo hướng xã hội hoá " và "từng bước xã hội
hoá hoạt động bổ trợ tư pháp" 86
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý 87
3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trợ giúp pháp luật 88
3.2.2. Xây dựng và thực hiện chính sách, tiêu chuẩn, chế độ đối với
người thực hiện trợ giúp pháp lý 89
3.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, về trợ giúp pháp lý nói
riêng cho người dân và cán bộ, công chức 90
3.2.4. Tiếp tục củng cố, kiện toàn, phát triển mạng lưới các tổ chức
thực hiện trợ giúp pháp lý theo định hướng chung của cả nước và
đặc thù riêng của Thanh Hóa 91
3.2.5. Nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý 93
3.2.6. Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý 95
3.2.7. Thực hiện có hiệu quả cơ chế phối hợp thực hiện trợ giúp pháp
lý giữa các cơ quan, ban, ngành, các cấp với tổ chức thực hiện
trợ giúp pháp lý 96
3.2.8. Bảo đảm các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện,
trang thiết bị làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý của
nhà nước 96
3.2.9. Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức Đảng cơ sở đối với

công tác trợ giúp pháp lý 97
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BTXH: Bảo trợ xã hội
CLB: Câu lạc bộ
PT-TH : Phát tranh – truyền hình
TGPL: Trợ giúp pháp lý
UBND: Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Tổng hợp số liệu về tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ trợ
giúp pháp lý từ năm 2007 đến 9/2014
48
Bảng 2.2:
Tổng hợp số liệu kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý từ

2007đến tháng 9/2014
54








1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ năm 1986, Việt Nam chính thức tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước. Cùng với việc đẩy mạnh cải cách kinh tế, đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân, Nhà nước Việt Nam đã thông qua Chiến lược toàn diện về tăng trưởng
và xóa đói giảm nghèo, trong đó có chính sách trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “thực
hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân”, “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”

[26, tr.7]. Để góp phần thực hiện các mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước
đã quan tâm chỉ đạo “cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông,
đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân cần nghiên
cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân
dân sống và làm việc theo pháp luật”


[25, tr.1].
Đáp ứng nhu cầu tất yếu của xã hội, đồng thời cụ thể hóa chủ trương
của Đảng vào cuộc sống, hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo và đối tượng chính sách được ra đời vào năm 1997 trên cơ sở Quyết
định số 734/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trải qua thời gian hình thành và
phát triển, đến nay công tác trợ giúp pháp lý đã phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu, đạt được những kết quả quan trọng và đang ngày càng khẳng định
được vị trí, vai trò và ý nghĩa của mình trong đời sống xã hội.
Tại Thanh Hóa, hoạt động trợ giúp pháp lý chính thức được hình
thành và đi vào hoạt động bằng việc ban hành Quyết định số 452/ QĐ - UB
ngày 23/3/1999 của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Trung tâm Trợ
giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách thuộc Sở Tư

2
pháp Thanh Hoá gọi tắt là Trung tâm Trợ giúp pháp lý Thanh Hoá [66].
Trung tâm có chức năng thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo, người dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách và những người có
hoàn cảnh đặc biệt khác. Trải qua 15 năm hoạt động, công tác trợ giúp pháp
lý tại Thanh Hóa đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và các tổ chức đoàn thể ghi nhận, đánh giá cao. Hoạt động trợ
giúp pháp lý cũng góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý, nâng cao hiểu biết pháp luật
cho người dân nói chung và các đối tượng được trợ giúp pháp lý nói riêng;
góp phần ổn định tình hình trật tự, an ninh xã hội, hạn chế, giảm thiểu các
tranh chấp mâu thuẫn ngay từ cấp cơ sở.
Với những cố gắng, nỗ lực không ngừng trong việc giải quyết các vụ
việc trợ giúp pháp lý liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người nghèo,
người có công, người dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác, tính
đến tháng 9/2014 Trung tâm Trợ giúp pháp lý đã thực hiện được 20.979 vụ
việc, trong đó có 18.924 vụ tư vấn, 964 vụ tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố

tụng. Các vụ việc chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực pháp luật dân sự, hôn
nhân gia đình, đất đai, hình sự, chế độ chính sách và an sinh xã hội.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được tiếp cận và
hưởng thụ các dịch vụ pháp lý miễn phí ngay tại cơ sở, hàng năm Trung tâm
phối hợp với Phòng Tư pháp các huyện và UBND các xã trên địa bàn tỉnh tổ
chức hàng trăm đợt trợ giúp pháp lý lưu động về các xã vùng sâu, vùng xa,
các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn… Mỗi đợt trợ giúp lưu
động đều có sự kết hợp, lồng ghép giới thiệu các chuyên đề pháp luật với nội
dung phong phú, đa dạng sát với thực tiễn đời sống nhân dân, hình thức
truyền tải sinh động thông qua các tình huống, vụ việc cụ thể xảy ra tại các
địa phương. Thông qua các đợt trợ giúp pháp lý lưu động người dân nói

3
chung và đối tượng trợ giúp nói riêng được cập nhận kiến thức pháp luật kịp
thời, chính xác giúp họ giải tỏa các vướng mắc, mâu thuẫn; các hành vi, ứng
xử trái pháp luật, đạo đức trong đời sống xã hội được hạn chế đáng kể. Đồng
thời, mỗi đợt trợ giúp lưu động cũng đã tiếp nhận và trợ giúp hàng chục vụ
việc thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau.
Sau 15 năm đi vào hoạt động, công tác trợ giúp pháp lý trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá đã đạt được những kết quả quan trọng khẳng định chủ
chương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Hoạt động trợ giúp pháp lý đã có
tác động sâu sắc đến người dân và toàn xã hội, góp phần tích cực thực hiện
chiến lược xoá đói giảm nghèo của Nhà nước, thực hiện bình đẳng giữa các
dân tộc, mang lại công bằng cho người nghèo và đối tượng được hưởng ưu
đãi trong hiểu biết pháp luật. Mạng lưới tổ chức trợ giúp pháp lý ngày càng
được củng cố, kiện toàn đến tận cơ sở, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm trợ giúp
pháp lý đã từng bước được tăng cường về số lượng và năng lực chuyên môn.
Trợ giúp pháp lý đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc giúp
đỡ pháp lý cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng
bào dân tộc thiểu số và một số đối tượng khác. Đồng thời, đã góp phần hỗ trợ

hoạt động tố tụng để vụ việc được giải quyết chính xác, khách quan, công
bằng và đúng pháp luật; tác động tích cực đến đời sống pháp luật của xã hội,
góp phần làm cho vai trò của pháp luật được phát huy, thực sự là công cụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Tuy đã đạt được những kết quả tích cực nêu trên nhưng so với yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra, hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
cũng còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải được nghiên cứu và khắc phục trong
thời gian tới:
- Thanh Hoá có đặc điểm địa lý, dân cư như là một Việt Nam thu nhỏ

4
với đầy đủ các vùng miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển, có biên giới
giáp danh nước bạn Lào. Các đơn vị hành chính bao gồm 01 thành phố trực
thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện, trong đó có tới 11 huyện miền núi; diện tích
11.133,4km
2
; dân số 3,405 triệu người với 7 dân tộc Kinh, Mường, Thái,
H'mông, Dao, Thổ, Khơ-mú, trong đó có trên 1 triệu đồng bào là người dân
tộc. Đặc điểm này cho thấy nhu cầu về trợ giúp pháp lý là rất lớn, trong khi
thực tế mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ cho một số ít đối tượng và
trong một phạm vi hạn hẹp;
- Mạng lưới Chi nhánh, Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý còn chậm đưa vào
hoạt động, quá trình hoạt động còn lỏng lẻo, công tác kiện toàn chưa kịp thời
khi có thay đổi, chưa được theo dõi kiểm tra, giám sát chặt chẽ;
- Đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý còn thiếu về số lượng, yếu
về chất lượng; Cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm cho hoạt động còn thiếu thốn
và hạn chế chưa tương xứng với nhiệm vụ, số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý
bằng hình thức tham gia tố tụng còn rất ít, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý
chưa cao; Công tác đánh giá chất lượng vụ việc còn nhiều hạn chế chưa được

quan tâm đúng mức
- Công tác phối hợp với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt
động trợ giúp pháp lý chưa thực sự hiệu quả. Việc thu hút người thực hiện trợ
giúp pháp lý và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia hoạt động này còn
yếu. Công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý chưa được sắp xếp, quy
định một cách cụ thể
- Về phía người thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý như người có công,
người nghèo, người dân tộc và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác chưa
thực sự được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí một cách đầy đủ
và kịp thời. Hoạt động giới thiệu, truyền thông còn hạn chế, nhiều nơi, người
dân chưa biết về trợ giúp pháp lý để tìm đến yêu cầu giúp đỡ khi cần thiết.

5
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên việc nghiên cứu một cách đầy đủ
và toàn diện về những khó khăn và tồn tại để từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, đáp ứng nhu cầu trợ giúp
pháp lý phong phú, đa dạng và ngày một tăng của nhân dân trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, tôi chọn đề tài: “Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa” để
nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho tới thời điểm hiện nay, đã có một số luận án, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ,
đề tài cấp Bộ và nhiều bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí.
Về đề tài nghiên cứu cấp Bộ:
- Đề tài "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng
thực hiện trong điều kiện hiện nay" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ), do
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: TS.
Tạ Thị Minh Lý [70]. Đề tài đã tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, mục
đích, ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý; thực trạng tổ chức và hoạt động
trợ giúp pháp lý, từ đó đề xuất các phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt

động này trong thời gian tới.
- Đề tài "Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh trợ giúp
pháp lý" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ), do Viện Khoa học pháp lý - Bộ
Tư pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: TS. Tạ Thị Minh Lý [71]. Đề tài
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp lý
thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề có liên quan đến việc
thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trong thời gian qua. Tuy nhiên, Quốc
hội đã cho ý kiến nâng Dự án Pháp lệnh trợ giúp pháp lý lên thành Luật trợ
giúp pháp lý và đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2006.
Đến nay, Luật Trợ giúp pháp lý đã có hiện lưc thi hành đươc gần 8 năm.

6
Các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ:
- Luận án tiến sĩ "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới" của Tạ Thị Minh Lý [32]. Luận án tập trung nghiên
cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về
trợ giúp pháp lý; thực trạng điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý và
phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý trong
điều kiện đổi mới.
- Luận văn thạc sĩ "Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người
nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Đỗ Xuân Lân [30].
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng các hình thức tiếp cận
pháp luật của người nghèo ở Việt Nam, các giải pháp nhằm bảo đảm người
nghèo ở Việt Nam luôn được tiếp cận với pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ: "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở" của tác giả
Đặng Thị Loan [31]. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn
về các mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển
các mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở.
- Luận văn thạc sĩ: “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp
pháp lý” của tác giả Nguyễn Bích Ngọc [34]. Luận văn tập trung nghiên cứu

đánh giá thực trạng và hiệu quả tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất
cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
- Luận văn thạc sĩ: “Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Trịnh Thị Thùy Anh [1]. Luận văn
nghiên cứu đánh giá thực trạng và hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Bài viết, chuyên đề trên các báo, tạp chí nghiên cứu khoa học
Hoàng Thị Kim Quế (2011), “Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp

7
luật ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học pháp lý - Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh [39]; Hoàng Thị Kim Quế (2006) Quyền con người
và giáo dục quyền con người ở Việt nam hiện nay. Tạp chí Khoa học Đa
̣
i học
Quốc gia Ha
̀

̣
i (số 4-2006) [37]; Hoàng Thị Kim Quế, “Hiệu lực trực tiếp
của Hiến pháp và sự cần thiết ghi nhận trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992”, nguồn />tiep-cua-hien-phap-va-su-can-thiet-ghi-nhan-trong-du-thao-sua-111oi-hien-
phap-nam-1992 [44]; Hoàng Thị Kim Quế (11/2012), “Trách nhiệm nhà nước
trong việc thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật [40]; Hoàng Thị Kim Quế (2012), “Văn hóa
hiến pháp, Những giá trị nền tảng của xã hội pháp quyền, dân chủ”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, [41]; Hoàng Thị Kim Quế (2012), “Ý thức hiến pháp trong
nhà nước pháp quyền – nhận thức và những đặc trưng cơ bản”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp [42]. Các bài viết, bài nghiên cứu nêu trên ở nhiều khía

cạnh, mức độ khác nhau đã phân tích, đánh giá về các vấn đề hiệu quả của
pháp luật nói chung và công tác phổ biến giáo dục pháp luật nói riêng; nghiên
cứu các chế định về quyền con người, quyền công dân, xã hội pháp quyền,
nhà nước pháp quyền, trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân qua các bản Hiến pháp của Việt Nam
Những bài viết, công trình nghiên cứu nói trên đều có giá trị tham khảo
ở chừng mực nhất định đối với các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn,
trong đó có các công trình đã nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau của hoạt
động trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách chuyên sâu và toàn diện về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý ở
Thanh Hoá. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh
Hóa” là rất cần thiết có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn góp phần tìm ra
giải pháp, định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý tại Thanh
Hoá một cách toàn diện trong những năm tiếp theo.

8
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn về tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp
lý ở Thanh Hóa hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý tại Thanh Hóa để đối tượng
được trợ giúp pháp lý nói chung có nhiều cơ hội được hưởng thụ dịch vụ trợ
giúp pháp lý miễn phí có chất lượng cao.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung chính sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý về tổ chức, hoạt động, hiệu
quả hoạt động trợ giúp pháp lý.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả tổ chức và hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Thanh Hóa trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.

- Nghiên cứu các quan điểm đổi mới, hoàn thiện hoạt động trợ giúp
pháp lý. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp
pháp lý trong thời gian tới.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý, thực trạng về tổ chức và hiệu quả hoạt
động trợ giúp pháp lý tại Thanh Hóa từ khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006
có hiệu lực (01/01/2007) đến nay (9/2014). Trên cơ sở đó có các định hướng,
giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý ở Thanh Hóa
trong thời gian tới.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng

9
sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; Quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về bảo đảm công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo; cải cách tư pháp;
cải cách hành chính và trợ giúp pháp lý; Các báo cáo kết quả hoạt động, các
công trình nghiên cứu khoa học có liên quan cũng được tham khảo và kế
thừa có chọn lọc.
- Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử,
so sánh, đối chiếu. Đồng thời, phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu
thực tiễn để hoàn chỉnh Luận văn.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như
phương diện thực tiễn. Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
về cơ sở lý luận, pháp lý về hoạt động trợ giúp pháp lý, hiệu quả của hoạt
động trợ giúp pháp lý; từ việc phân tích, đánh giá khách quan, khoa học về

thực trạng hiệu quả tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Thanh Hóa từ khi
Luật Trợ giúp pháp lý có hiệu lực (01/01/2007) đến nay, phát hiện những khó
khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động trợ giúp
pháp lý, Luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
trợ giúp pháp lý tại Thanh Hóa trong thời gian tới.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành 03 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý.
Chương 2: Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Thanh Hóa.
Chương 3: Các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Thanh Hóa trong thời gian tới.

10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý
Trước hết để có cơ sở lý luận xác định rõ nội hàm của khái niệm “trợ
giúp pháp lý”, cần phải hiểu khái niệm “Trợ giúp”. Theo Đại Từ điển tiếng
Việt - Nguyễn Như Ý, Nxb. Văn hoá - Thông tin, 1999 thì “Trợ giúp” là “sự
giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó
khăn, đang cần đến”. Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam - Nguyễn Lân, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh thì trợ giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một người
hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công. Với từ điển
tiếng Việt của Nxb. Khoa học xã hội, 1994 thì thuật ngữ “trợ giúp” được hiểu
là “giúp đỡ”. Thuật ngữ “giúp đỡ” lại được giải thích theo nghĩa tích cực là
giúp để làm giảm bớt khó khăn, nghĩa là làm cho ai một việc gì đó hoặc cho ai
cái gì đó mà người ấy đang cần. Cái đang cần ở đây là “pháp lý” theo nghĩa

rộng của từ này. Thuật ngữ “pháp lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20
xuất phát từ tiếng Anh là “legal aid”. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê
Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì “legal aid” có nghĩa là “trợ
cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do
Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì “legal aid” trong cụm từ “legal aid
schem” có nghĩa là “bảo trợ tư pháp”.
Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ
trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về
thuật ngữ này nhưng cụm từ “trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội
dung sự “giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ” và thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đang được

11
sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật như hiện nay có tính khái quát
hơn cả, thể hiện rõ được bản chất của trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý là một loại hoạt động phúc lợi xã hội đã có lịch sử
trên 500 năm nay và được bắt nguồn tại Anh từ thế kỷ XV – XVI, Đức và Hà
Lan vào những thập niên giữa thế kỷ XIX, sau đó đến Pháp, Mỹ và xuất hiện
muộn hơn vào đầu thế kỷ XX ở Úc và một số nước trong khu vực như:
Singapore, Malaysia, Campuchia, Trung Quốc…. Cùng với xu hướng phát
triển của nhiều quốc gia châu Âu, tư duy về quyền được trợ giúp pháp lý trở
thành trào lưu chung, trợ giúp pháp lý gắn với khái niệm “luật cho người
nghèo”. Với mỗi quốc gia, quan niệm về trợ giúp pháp lý cũng có sự khác
nhau, phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Nhìn chung, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” ở các nước trên thế giới được
thể hiện qua 3 tính chất: kinh tế, pháp lý và nhân đạo. Tính kinh tế và tính
nhân đạo thể hiện ở chỗ hoạt động này nhằm giúp đỡ cho những đối tượng
không có khả năng tài chính hoặc khó khăn về tài chính để chi trả cho các chi
phí khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý thể hiện thông qua sự
giúp đỡ, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật,

bảo vệ quyền và lợi ích được pháp luật quy định.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
(1945) đã có những hoạt động mà xét về bản chất là việc giúp đỡ pháp lý
miễn phí dưới tên gọi “tư pháp bảo trợ” gắn với những quy định về quyền bào
chữa và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo:
Trong việc đại hình, nếu trước Tòa án nhân dân phúc thẩm khu
hoặc thành phố một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ
cử một luật sư bào chữa cho hắn; các luật sư có quyền biện hộ trước
tất cả các Toà án, trừ Tòa án sơ cấp [15, Điều 44, 46].
“Nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp hỗ
trợ” [16]. Các hoạt động mang tính chất trợ giúp pháp lý xuất phát từ bản

12
chất chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người, đặc
biệt cho nhóm người yếu thế trong xã hội.
Tham khảo tài liệu của các nước trên thế giới và theo các nghiên cứu
trước đây, bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý được nhận diện ở những
đặc điểm sau đây:
- Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người
có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm phục vụ
để thoả mãn nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người nghèo và đối tượng chính
sách thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố
tụng, giúp đỡ thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải
quyết khiếu nại
- Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương thức hoạt
động và mục đích hướng tới của nó. Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ, hỗ trợ về
các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa
bảo vệ quyền và lợi ích cho các đối tượng trợ giúp pháp lý theo quy định, góp
phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và tạo cơ hội

tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này.
- Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: trợ giúp pháp lý là
nhiệm vụ trước hết của Nhà nước, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước
nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và
xóa nghèo về pháp luật. Từ đó, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị, bảo vệ
chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm
tin của người dân vào chế độ.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” lần đầu tiên được sử dụng trong các tài
liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được

13
sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp: “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp
lý” đã được sử dụng chính thức trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997
của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, đã có hệ thống văn bản pháp
luật quy định về lĩnh vực này và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác
cũng đề cập đến khái niệm “trợ giúp pháp lý” như Pháp lệnh Luật sư năm
2001, Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm theo Quyết
định số 356b/2002/QĐ-BT ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp…
Ngoài ra, trong nhiều văn bản, chính sách của Nhà nước đã nhắc đến thuật
ngữ “trợ giúp pháp lý”. Tuy nhiên, chỉ đến khi Luật Trợ giúp pháp lý được
ban hành năm 2006 mới quy định về khái niệm trợ giúp pháp lý:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ

công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp
và vi phạm pháp luật 45, tr.2.
Qua đó, đã khái quát hoá được bản chất, thể hiện đặc thù của hoạt động
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam nhằm phân biệt với các hoạt động nghiệp vụ
pháp lý khác.
- "Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này": Dịch vụ pháp lý
miễn phí có chủ thể cung cấp (tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực
hiện trợ giúp pháp lý) và đối tượng cung cấp (người được trợ giúp pháp lý bao

14
gồm: người nghèo, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số và
những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác); dịch vụ được cung cấp là tư
vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải và thực hiện
những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động
khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đây là dịch vụ pháp lý miễn phí,
đối tượng thụ hưởng dịch vụ không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể
cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và việc thuê luật sư. Các chi phí sẽ do
ngân sách Nhà nước bảo đảm hoặc được huy động trong cộng đồng, sự hỗ trợ
của các tổ chức nước ngoài và quốc tế. Trợ giúp pháp lý miễn phí đã trở thành
nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý được quy định trong Luật Trợ giúp
pháp lý. Đây là điểm đặc thù nổi bật của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và là sự
nỗ lực lớn của chúng ta trong điều kiện đất nước còn khó khăn
- Trợ giúp pháp lý có mục đích giúp người được trợ giúp pháp lý bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và
vi phạm pháp luật.
Khái niệm trợ giúp pháp lý nêu trên của Luật Trợ giúp pháp lý cũng
phù hợp với tính chất của hoạt động này trong lịch sử thế giới. Đó là giúp

đỡ cho những đối tượng có khó khăn (chủ yếu về kinh tế) tiếp cận với các
dịch vụ pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp.
Từ việc nghiên cứu các khái niệm về trợ giúp pháp lý của các nước trên
thế giới và ở Việt Nam, hoạt động trợ giúp pháp lý được hiểu là “hoạt động
của các chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định nhằm cung cấp cung
cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý, giúp họ bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn

15
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh
chấp và vi phạm pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý
Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý được thể hiện thông qua việc tìm
hiểu về chủ thể thực hiện hoạt động, đối tượng mà hoạt động đó hướng đến,
hình thức hoạt động, các lĩnh vực hoạt động và những tính chất, đặc trưng của
hoạt động trợ giúp pháp lý.
1.1.2.1. Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các tổ chức, cá nhân thực hiện
hoạt động trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật.
Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
Luật Trợ giúp pháp lý quy định tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm:
- Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm trợ giúp pháp lý
nhà nước (là đơn vị thuộc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, sự quản
lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp),
các Chi nhánh của Trung tâm.
- Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm:
+ Tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật sư, Công ty luật theo quy

định của pháp luật về luật sư);
+ Tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi
chung là tổ chức tư vấn pháp luật).
Người thực hiện trợ giúp pháp lý
Người thực hiện trợ giúp pháp lý là người cung cấp dịch vụ pháp lý cho
người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Theo Điều 20, Luật

16
Trợ giúp pháp lý thì người thực hiện trợ giúp pháp lý gồm có Trợ giúp viên
pháp lý, Cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn viên pháp luật.
- Trợ giúp viên pháp lý:
Trợ giúp viên pháp lý là viên chức của Trung tâm được Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và cấp thẻ. Để trở thành Trợ giúp viên pháp
lý, viên chức của Trung tâm phải có bằng Cử nhân luật, có Chứng chỉ bồi
dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý sau khi đã hoàn thành khoá bồi dưỡng nghề
luật sư; có thời gian làm công tác pháp luật từ 02 năm trở lên; có phẩm chất
đạo đức tốt và có đủ sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trợ giúp viên pháp lý thực hiện tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng với
tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực
hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự;
người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính; đại diện ngoài tố tụng cho người được
trợ giúp pháp lý để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật, hòa
giải và các hình thức trợ giúp pháp lý khác.
- Cộng tác viên trợ giúp pháp lý
Cộng tác viên trợ giúp pháp lý là những người làm việc trên cơ sở hợp
đồng cộng tác với Trung tâm để thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ
giúp pháp lý. Cộng tác viên có thể là luật sư, Tư vấn viên pháp luật, người có
bằng cử nhân luật, người có bằng đại học khác làm việc trong ngành, nghề

liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân
tộc thiểu số và miền núi người có bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm
công tác pháp luật từ 03 năm trở lên hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín
trong cộng đồng cũng được xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng tác viên trên
cơ sở đơn tham gia của họ.

17
+ Người có thời gian làm công tác pháp luật là người đã hoặc đang đảm
nhiệm các chức danh như thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Toà án,
Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thanh tra viên, Chấp hành viên, Công chứng
viên, Thẩm tra viên ngành Toà án, Kiểm tra viên ngành Kiểm sát; chuyên
viên pháp lý, cán sự pháp lý trong ngành Tư pháp hoặc tổ chức pháp chế các
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang; công chức tư pháp
hộ tịch xã, phường, thị trấn.
+ Người có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng là người
đã hoặc đang là thành viên tổ hoà giải, thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ
Trợ giúp pháp lý, già làng, trưởng bản, trưởng thôn, trưởng các dòng họ, đại
diện tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở cơ sở.
+ Cộng tác viên không phải là luật sư chỉ tham gia trợ giúp pháp lý
bằng hình thức tư vấn pháp luật. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý Cộng tác viên
được Trung tâm, Chi nhánh thanh toán tiền bồi dưỡng theo vụ việc và các chi
phí hành chính hợp lý khác theo quy định của pháp luật.
- Luật sư:
Luật sư có thể thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên
của Trung tâm hoặc tham gia trợ giúp pháp lý thông qua tổ chức hành nghề
của luật sư (Văn phòng luật sư, Công ty luật) có đăng ký tham gia trợ giúp
pháp lý mà luật sư đó là thành viên, hoặc trợ giúp pháp lý theo nghĩa vụ của
luật sư theo pháp luật về luật sư.
- Tư vấn viên pháp luật:

Tư vấn viên pháp luật làm việc tại các Trung tâm tư vấn pháp luật
thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội nghề nghiệp thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác
viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc tham gia trợ giúp pháp lý
khi Trung tâm tư vấn pháp luật có đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý hoặc

18
thực hiện trợ giúp pháp lý theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008
về tư vấn pháp luật.
Trên thế giới, các chức danh người thực hiện trợ giúp pháp lý tùy
thuộc mô hình trợ giúp pháp lý, thể chế kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi
nước quy định chức danh người thực hiện trợ giúp pháp lý khác nhau.
Nghiên cứu pháp luật các nước có thể khái quát những đối tượng sau được
thực hiện trợ giúp pháp lý:
- Luật sư công/Luật sư Nhà nước/Luật sư trợ giúp pháp lý: Là công
chức Nhà nước hoặc được Nhà nước tuyển dụng vào làm việc tại tổ chức trợ
giúp pháp lý để trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý, hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước và thực hiện vụ việc theo sự phân công của tổ chức trợ giúp pháp
lý. Các chức danh này được nhiều nước áp dụng như: Anh và xứ Wales,
Philippine, Hà Lan, Mỹ, Litva, Israel, Hàn Quốc, Canada, Bang New South
Wales của Úc, Phần Lan….
- Luật sư hành nghề tự do theo pháp luật về luật sư: Các luật sư này là
thành viên của Hiệp hội luật sư (hoặc Đoàn Luật sư), tự nguyện tham gia thực
hiện trợ giúp pháp theo yêu cầu của khách hàng hoặc thực hiện trợ giúp pháp
lý theo yêu cầu của Chính phủ và được Chính phủ chi trả thù lao. Chức danh
này được sử dụng ở hầu hết các nước như Hàn Quốc, Mỹ, Nêpal, Thụy Điển,
Hà Lan, Mỹ, Singapore, Malaysia, Ailen, Thái Lan, Trung Quốc, Đức….
Những luật sư này sẽ ký hợp đồng với tổ chức trợ giúp pháp lý và thực hiện
các vụ việc theo sự phân công của tổ chức đó, khi thực hiện trợ giúp pháp lý
luật sư sẽ chịu trách nhiệm về công việc chuyên môn của mình. Thông thường

luật sư tư sẽ được trả thù lao theo vụ việc và mức quy định cho mỗi vụ việc ở
các nước là khác nhau. Ngoài ra, pháp luật một số nước quy định luật sư có
nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí và nếu luật sư không thể trực
tiếp thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý thì có thể đóng góp bằng tiền và

×