Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

HỒI ỨC TUỔI THƠ TRONG TRUYỆNTHIẾU NHI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.36 KB, 108 trang )

MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ những tác phẩm đặt nền móng quãng đầu thế kỉ XX cho đến nay, văn
học thiếu nhi ở Việt Nam đã có những bước tiến dài về mọi mặt. Bên cạnh
thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng không thể phủ nhận thực trạng sáng tác
cho các em hiện nay ngày càng khó khăn hơn. Trong thời đại “thế giới
phẳng”, văn học Việt Nam nói chung, văn học thiếu nhi nói riêng không tránh
khỏi quy luật cạnh tranh khốc liệt cả về phương thức lưu hành lẫn chất lượng
nghệ thuật với các tác phẩm ngoại nhập. Truyện tranh dài tập Nhật Bản
(manga) như Doraemon của Fujikô hay truyện huyễn tưởng, kì ảo như Harry
Potter của J.K Rowling, Chúa tể những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings)
của J. R. R. Tolkien…. xuất hiện ồ ạt, có lúc lấn lướt sáng tác “nội địa”. Sự
tràn ngập của các tác phẩm văn học dịch đã và đang không ngừng tạo nên
những “cơn sốt” trong độc giả nhỏ khiến con đường giành lại cảm tình của
người đọc đối với văn học Việt vẫn còn là một thử thách cam go, đòi hỏi tâm
huyết, tài năng và sự nhạy cảm của những tác giả tận tụy hết mình với trẻ em.
Trong số những cây bút viết cho thiếu nhi hiện nay phải kể đến Nguyễn Nhật
Ánh. Được coi là "hoàng tử bé" trong thế giới trẻ thơ, anh đã có một số đầu
sách kỉ lục về lượng phát hành, có sức chinh phục mạnh mẽ độc giả nhỏ tuổi,
đạt nhiều giải thưởng cả trong nước và quốc tế. Hầu hết các sáng tác của anh
như Mắt biếc, Kính vạn hoa, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ đều tạo được dấu
ấn trong lòng công chúng, được tái bản nhiều lần và một số còn được dịch ra
tiếng nước ngoài. Là nhà sư phạm, người hoạt động đoàn thể kiêm nhà báo ,
dường như cuộc “tao phùng” giữa tác giả và văn học thiếu nhi là một cái
duyên hữu lý. Anh thuộc số những cây bút hiếm hoi được các em luôn ngóng
đến, tin tưởng, yêu quý. Sáng tác của anh cũng thực sự góp phần vào sự đổi
mới diện mạo văn học thiếu nhi nước ta vài chục năm nay.
1.2. Từ sau năm 1975, văn học Việt Nam tồn tại hiện tượng phổ biến là các
2


nhà văn đã chọn hồi ức làm chất liệu sáng tác, đặc biệt là hồi ức tuổi thơ chất
chứa nhiều rung cảm. Với mỗi con người, tuổi thơ là quãng thời gian đầu đời
có ý nghĩa quan trọng để định hình nên nhân cách. Tuổi thơ đong đầy kỷ
niệm, vụng dại, thơ ngây càng lùi xa càng không ngừng quay trở về trong
hiện tại. Với văn chương, hồi ức không chỉ là chất liệu mà còn là nhu cầu
chiêm nghiệm, nhận thức lại các vấn đề của quá khứ, là cách thức bộc lộ cái
tôi sâu kín. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh cũng không nằm ngoài mạch chảy
này.
1.3. Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, hồi ức có vai trò quan trọng, đặc biệt là
hồi ức tuổi thơ và tuổi mới lớn vốn đã xa xôi. Hồi ức có khi là nỗi nhớ bất
chợt từ hiện tại mở ra câu chuyện quá khứ hay sự hiện hữu song song của quá
khứ và hiện tại mà sợi dây kết nối tưởng đứt lìa vẫn bền chặt một cách vô
hình. Từ hồi ức, khung cảnh về một làng quê tươi đẹp, thế giới trẻ thơ và tuổi
mới lớn hiện lên sinh động chẳng cần ngôn từ hoa mĩ. Tìm về quá khứ qua
màn sương hoài niệm cũng là tìm lại sự vô tư, tìm lại con người thơ dại. Đó
không chỉ là đích đến mà còn là cuộc hành trình tìm lại bản thể, là sự chiêm
nghiệm, nghĩ suy về thời quá vãng bằng cái nhìn từng trải và sâu sắc hơn.
Phải chăng đây là một trong những lí do khiến tác phẩm neo lại bền lâu trong
trái tim nhiều thế hệ độc giả?
Chúng tôi thực sự ấn tượng với truyện viết cho tuổi thơ và tuổi mới lớn
của Nguyễn Nhật Ánh bởi những trang văn hóm hỉnh, giàu ý nghĩa nhân sinh.
Từ công việc đang làm là giảng dạy Văn học Việt Nam cho sinh viên Cao đẳng
Sư phạm – những thầy cô giáo tiểu học, THCS tương lai, chúng tôi nhận thức
được ảnh hưởng của tác giả đối với văn học thiếu nhi nên quyết định chọn đề tài:
"Hồi ức trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh" với mong
muốn chiếm lĩnh giá trị nhân văn – thẩm mĩ của ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh,
cũng như lí giải sức sống mãnh liệt của tác phẩm trong lòng bạn đọc.
3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về truyện thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh

Xuất hiện trên văn đàn hơn hai mươi năm nay, với tư cách là nhà văn
viết cho tuổi nhỏ, Nguyễn Nhật Ánh đã góp phần làm khởi sắc văn học thiếu
nhi nước nhà. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, anh nổi lên như một “hiện
tượng tác giả” thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu, phê bình. Đã
có nhiều bài viết đăng tải trên báo, tạp chí, internet, các giáo trình, luận văn,
luận án nhìn nhận, đánh giá tác phẩm của anh ở nhiều phương diện khác
nhau. Do giới hạn thời gian, chúng tôi chưa thể có điều kiện bao quát tất cả
các công trình hiện có. Ở đây là mấy nét chính về tình hình nghiên cứu truyện
viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh.
Bài viết mang tính nghiên cứu tổng quát truyện Nguyễn Nhật Ánh phải
kể đến Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh của
Nguyễn Thị Thanh Xuân đăng trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số
237 (ra ngày 26/12/1996). Theo tác giả bài viết, giá trị độc đáo của truyện
Nguyễn Nhật Ánh trước hết là thái độ vào cuộc của nhà văn, “nghĩa là
Nguyễn Nhật Ánh nắm rõ luật chơi, tuân thủ nghiêm chỉnh các quy ước tự
nhiên giữa những người trẻ tuổi”, “nói các ngôn ngữ họ nói, nghĩ những điều
họ nghĩ và thấy những gì họ nhìn thấy” [; 12]. Bên cạnh đó, yếu tố “cách kể,
cách đối thoại đã vượt lên nội dung câu chuyện (Bằng chứng là truyện
Nguyễn Nhật Ánh có nhiều cốt truyện gần giống nhau nhưng vẫn không bị
nhàm lặp)” và “ngôn ngữ văn chương chuẩn mực” [102; 28] cũng góp phần
tạo nên thành công của truyện Nguyễn Nhật Ánh.
Vũ Ân Thy trong Nguyễn Nhật Ánh – người bạn thân mến của độc giả
trẻ đăng trên báo Sài Gòn giải phóng (1997) đề cao tác phẩm của nhà văn xứ
Quảng “có sức hấp dẫn lạ và mới. Nó lôi cuốn thiếu nhi và có sức thuyết phục
người lớn có trách nhiệm với thế hệ trẻ” [85; 52]. Truyện Nguyễn Nhật Ánh
4
“luôn gần gũi như truyện dân gian cổ tích, như ước mơ của tuổi thơ mà lại
mang tính hấp dẫn hiện đại” [85; 52]. Cũng tiếp cận từ phương diện nội dung,
Vân Thanh trong Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của tuổi thơ đăng trên
Tạp chí Văn học số 6- 1998 nhận định: “Nguyễn Nhật Ánh thông qua sự sống

dung dị và trẻ trung, giúp ta tiếp nhận được nhiều vấn đề: lí tưởng sống, tình
bạn, tình yêu nam nữ, tình thầy trò, tình yêu quê hương” [81; 78].
Nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi Văn Hồng dành sự chú ý tới hiện
tượng Nguyễn Nhật Ánh từ sớm. Ông coi Nguyễn Nhật Ánh là “cây bút mến
mộ nhất của tuổi học trò”. Trong Kính vạn hoa – phép lạ giữa đời thường
(1996), Văn Hồng tiếp cận bộ sách nổi tiếng từ nghệ thuật dẫn truyện theo
phong cách tân cổ điển, nhân vật và chất hài ở nhiều cung bậc. Năm 2002,
Văn Hồng với bài viết Nguyễn Nhật Ánh – một mình một chợ khẳng định vị
trí nhà văn trong dòng văn học thiếu nhi, nhất là trong hoàn cảnh truyện tranh
Nhật và các tác phẩm văn học dịch xuất hiện ồ ạt hiện nay. Sự khẳng định ấy
càng được nhấn mạnh trong Nguyễn Nhật Ánh như một ví dụ (2004): “ với
cách kết hợp truyền thống và hiện đại, tinh hoa thế giới và bản sắc Việt Nam,
vốn văn hóa – thẩm mĩ rộng và tay nghề cao, nhắm tới một đối tượng xác
định, Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành một hiện tượng độc đáo trong văn học
thiếu nhi”. Như vậy, “không còn là ví dụ, mà thực sự Nguyễn Nhật Ánh đã trở
thành một bông hoa tươi thắm trong vườn hoa 30 năm Hòa Bình – Thống
Nhất” [48; 202].
Công trình nghiên cứu Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 của Lã
Thị Bắc Lý đề cập đến truyện Nguyễn Nhật Ánh, đặc biệt là bộ Kính vạn hoa
như những minh chứng cho sự đổi mới của truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam
sau 1975 ở các phương diện: đề tài, quan niệm về con người và nghệ thuật.
Sau này, trong bài viết Cảm nhận về văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỉ
XXI, tác giả tiếp tục nhắc tới Nguyễn Nhật Ánh với tư cách là một trong
5
những “nhà văn giao thời của hai thế kỉ”, “là tác giả tiêu biểu nhất của văn
học thiếu nhi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX” [63]. Sang thế kỉ XXI,
Nguyễn Nhật Ánh tiếp tục thể hiện bút bực dồi dào với nhiều tác phẩm hay.
Trong đó, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ vẫn “với lối viết dí dỏm kiểu Kính
vạn hoa, Tôi là Bê tô nhưng dấu ấn tâm trạng tác giả đã in đậm nét hơn, tâm
trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về tuổi thơ” [67].

Tiếp cận truyện Nguyễn Nhật Ánh từ vai trò, ý nghĩa giáo dục, Nguyễn
Hương Giang coi nhà văn xứ Quảng là Người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ:
“Tính giáo dục sâu sắc trong các tác phẩm của anh rất tự nhiên, không khiên
cưỡng, bởi vì được viết với thái độ của người trong cuộc, giản dị, đầy trách
nhiệm” [39; 106]. Nhà văn của tuổi nhỏ mong muốn nuôi dưỡng tình cảm quê
hương, gia đình, bạn bè và di dưỡng phần tinh thần ấy trong tâm hồn trẻ thơ.
“Truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói từ chính tâm hồn anh – một tâm hồn
còn trong sáng, thơ trẻ cho đến tận bây giờ” [39; 109]. Điều đó, theo Nguyễn
Hương Giang chính là điểm hấp dẫn, là sức lôi cuốn rất riêng để các em tìm
đến với tác giả.
Tại Hội thảo khoa học về ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự phát
triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế do Đại học
Sư phạm Hà Nội tổ chức năm 2009, tên tuổi Nguyễn Nhật Ánh được nhắc tới
trong các bài tham luận như một cây bút tiêu biểu viết cho thiếu nhi. Lê
Phương Liên trong Viết cho thiếu nhi là viết cho tương lai khẳng định sức hút
của Nguyễn Nhật Ánh: “với tài năng mô tả tâm lí trẻ em và trình bày đời sống
sinh hoạt thiếu nhi học sinh vui tươi, hóm hỉnh, Nguyễn Nhật Ánh đã thực sự
là nhà văn được trẻ em cả nước đọc nhiều nhất” [57].
Cũng tại Hội thảo, với tham luận Từ “Thằng quỷ nhỏ” của Nguyễn
Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi, Trần
Văn Toàn tiếp cận truyện Nguyễn Nhật Ánh từ hình tượng nhân vật trong một
6
tác phẩm cụ thể để đưa ra kiến giải về phẩm chất cần có của sáng tác cho trẻ
thơ. Viết về Quỳnh – nhân vật chính trong Thằng quỷ nhỏ, tác giả nhận định:
“sự bất bình thường trong nhân dạng đã mặc nhiên ấn định cho sinh thể bé
nhỏ ấy sự bất bình thường trong nhân cách và vì thế ấn định vị thế của một kẻ
lạc loài trong mắt đồng loại” [92].
Năm 2013, cuốn Nguyễn Nhật Ánh – hoàng tử bé trong thế giới tuổi
thơ (Lê Minh Quốc biên soạn) ra đời giúp người đọc có cái nhìn khá đầy đủ
về tiểu sử, hành trình văn chương Nguyễn Nhật Ánh. Với tình cảm nồng hậu

dành cho bạn văn đồng hương xứ Quảng, tác giả tập sách nhận định: “Với
dòng văn học dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn, hiện nay anh (Nguyễn Nhật
Ánh – Lê Minh Quốc) đang giữ một vị trí đặc biệt. Khó có người thay thế.
Khi liệt kê tên tuổi và tác phẩm của một thế hệ nhà văn, hội đồng văn học sử
có thể nhớ người này và quên béng người kia. Có thể chọn người này và bỏ
sót người kia. Nhưng với Nguyễn Nhật Ánh, người ta không thể, dù cố tình
hoặc vô tâm” [72; 51]. Cùng với sự khẳng định vị trí nhà văn, Lê Minh Quốc
còn giải thích nguyên nhân tạo ra “ma lực Nguyễn Nhật Ánh”. Đó là nhờ
“cách viết phù hợp với tâm lí đối tượng bạn đọc”, “Câu văn trong sáng như nó
vốn có, như lời ăn tiếng nói ta tiếp nhận hàng ngày ” [72; 52]. Các tác phẩm
“kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố giải trí và giáo dục” hướng trẻ thơ tới những
giá trị nhân bản. Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, “yếu tố hóm hỉnh đóng vai
trò rất quan trọng” [72; 54] thể hiện qua những câu thoại, những tình huống
gây cười. Viết về thế giới sinh động của tuổi thơ và tuổi mới lớn, nhà văn
“đồng hành cùng với nhân vật, chứ không phải đứng ở ngoài quan sát” [72;
61] nên tạo được hứng thú, sự đồng tình của độc giả.
Thái Phan Vàng Anh với bài viết Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện
của thiếu nhi đăng trên Tạp chí Non nước (số 187 – 2013) đã góp thêm một
cách nhìn cho việc nghiên cứu truyện Nguyễn Nhật Ánh ở góc độ nghệ thuật
7
kể chuyện. Nhà văn hòa vào thế giới trẻ thơ, sống cùng với các em nhỏ để rồi
kể chuyện về thiếu nhi cho chính thiếu nhi. Thái Phan Vàng Anh cho rằng dù
không quá chú ý đến cách kể, đến kĩ thuật dựng truyện nhưng “Cái hấp dẫn,
cái “duyên” của truyện Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu nhờ vào sự hồn nhiên, tươi
tắn ở ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật” [1; 61].
Mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh được xuất bản đều được quan tâm
thể hiện thông qua bài giới thiệu đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Có thể kể đến: Chú bé rắc rối của Vân Thanh đăng trên báo Thiếu
niên tiền phong (1991), Bong bóng lên trời của Ngọc Cúc trên báo Người lao
động (1991), Nguyễn Nhật Ánh chinh phục thiếu nhi của Ngọc Cúc trên

Người lao động (1995), Nguyễn Nhật Ánh và Kính vạn hoa của Lê Phương
Liên trên Báo Tiền phong (1996), Quà xuân của các em – Bộ sách Kính vạn
hoa của Nguyễn Nhật Ánh được tái bản của Lê Hữu Bắc Sơn trên tạp chí
Giáo dục (2003) hay Nguyễn Nhật Ánh, vẫn thế, với “Lá nằm trong lá” của
Thụy Anh trên báo điện tử tuoitre.vn (2011), Nước mắt hồi sinh thế giới của
Lưu Khánh Thơ trên thanhnien.com (2013) Các bài viết khẳng định sức lôi
cuốn của ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh, cung cấp những thông tin khái quát,
những cảm nhận về tác phẩm cụ thể của nhà văn.
Bên cạnh những bài viết, công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã điểm
qua ở trên, trong những năm gần đây có không ít tiểu luận, luận văn của sinh viên
đại học, cao học chọn truyện Nguyễn Nhật Ánh làm đề tài nghiên cứu.
Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện
Kính vạn hoa (2005) của Phạm Thị Bền là công trình chuyên biệt đầu tiên
nghiên cứu về văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh, đặc biệt về Kính vạn hoa. Lấy trẻ
thơ làm hệ quy chiếu, nhà văn thể hiện nhận thức về thế giới xung quanh (tự
nhiên, xã hội và nội tâm con người) qua điểm nhìn của nhân vật trẻ em với
các phương thức tiếp cận đặc thù (tiếp cận trẻ từ sân chơi, cuộc chơi, từ các
8
vùng miền, hoàn cảnh khác nhau). Luận văn còn tìm hiểu nghệ thuật thể hiện
thế giới trẻ thơ trong bộ Kính vạn hoa trên các phương diện: ngôn ngữ trẻ thơ,
nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật và âm sắc trẻ thơ trong giọng điệu
trần thuật.
Luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về truyện Nguyễn Nhật Ánh còn có Thế
giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh (2009) của Vũ Thị Hương, Yếu tố
huyền thoại trong truyện Nguyễn Nhật Ánh (2011) của Lê Thị Diệu Phương,
Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh (2011) của Bùi Thị Thu Thủy Các luận
văn có nhiều điểm gặp gỡ nhau nhưng không có đề tài nào đề cập đến vấn đề
mà chúng tôi khảo sát.
Không chỉ chinh phục độc giả trong nước, truyện của Nguyễn Nhật
Ánh còn được dịch ra một số ngôn ngữ khác, là cầu nối đưa tác giả và văn

học thiếu nhi Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Năm 2004, truyện Mắt biếc
được dịch sang tiếng Nhật (do Nhà xuất bản Terrainc ấn hành). Dịch giả Kato
Sakae tự tin cho rằng tác phẩm tái hiện không gian làng quê Việt Nam đậm đà
bản sắc dân tộc nên không chỉ lớp trẻ mà cả độc giả trung niên Nhật cũng sẽ
yêu thích tác phẩm này. Theo nhà thơ Takatsuki Fumiko, tác phẩm cuốn hút
bởi giọng văn “rất hay và nhẹ nhàng. Câu chuyện tình cảm trong sáng” [dẫn
theo 72; 77]. Còn nhà phê bình nhà phê bình văn học Sakai Tazuko thì ấn
tượng với lối kết cấu của Nguyễn Nhật Ánh. Với ông, kết cục “vượt ra ngoài
những sự đoán về cuộc đời đã để lại dư âm sâu đậm” [dẫn theo 72; 77].
Năm 2008, tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua được Tiến sĩ Maxim
Synnerberg – người biên soạn Từ điển Nga – Việt đề nghị đưa vào giáo trình
giảng dạy tiếng Việt của Đại học Moscow, Nga. Dịch giả của cuốn sách đã
nói: “Tôi rất thích cách viết của Nguyễn Nhật Ánh. Tôi nghĩ sinh viên cũng sẽ
thích truyện này nên bắt đầu đưa tác phẩm đó vào quá trình giảng dạy tiếng
Việt” [dẫn theo 72; 74].
9
Việc Nguyễn Nhật Ánh tham dự Hội thảo quốc tế về văn học thiếu nhi
tại Stockhom năm 2009 và giải thưởng Văn học ASEAN năm 2010 đã tạo cơ
hội thuận lợi để tác phẩm của anh đến với độc giả nhiều nước trên thế giới.
Trang web www.boklogger.se, Thụy Điển nhận xét: “Tác phẩm của ông
thường lấy bối cảnh đô thị hiện đại, vì vậy sẽ là một bổ sung tốt cho Tô Hoài
cổ kính và Nguyễn Ngọc Thuần của tuổi thơ nông thôn” [dẫn theo 72; 74].
Bangkok Post cũng giới thiệu tên tuổi Nguyễn Nhật Ánh tới công chúng đất
nước Chùa vàng: “Nguyễn Nhật Ánh là tác giả của những truyện sắc sảo cho trẻ
em và người lớn ( ) Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất
về đề tài thanh thiếu niên” [dẫn theo 72; 73].
Sau thành công của giải thưởng ASEAN (2010), Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Tác phẩm được dịch sang tiếng Thái và
được nhà xuất bản Nanmeebooks phát hành. Montira Rato tâm sự lí do chọn
dịch Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ: “thứ nhất là vì tôi biết ở Việt Nam cuốn

sách này được nhiều độc giả yêu mến, nhất là các độc giả trẻ. Thứ hai vì năm
trước, năm 2010, cuốn sách này được giải thưởng văn học ASEAN (SEA
Write Award), trước đây cũng có nhiều cuốn sách của Việt Nam được giải
thưởng văn học ASEAN, nhưng những tác phẩm đó đa số có nội dung về
chiến tranh là chính, còn tôi thấy cuốn sách Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là
một bước đi rất hay khi tìm hiểu về xã hội Việt Nam” [93]. Theo Emme
Achara (Nxb Nameebooks), tác phẩm “phản chiếu thế giới kì diệu của tuổi
thơ và trí tưởng tượng của con trẻ, những điều mà người lớn không bao giờ
biết tới hay không bao giờ nghĩ đến, đó là đời sống thật của trẻ em, nơi có
mọi điều tốt lành mà chúng ta cần học hỏi” [93]. Với nhà văn Binlah Son,
cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh cho thấy “Khác biệt giữa thế giới trẻ em và
thế giới người lớn. Khác biệt giữa trẻ em Việt Nam và trẻ em Thái Lan. Cuối
cùng là khác biệt giữa những người đã đọc cuốn sách và những người chưa
đọc cuốn sách này” [dẫn theo 72; 75].
10
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ còn được dịch sang tiếng Hàn (nhà xuất
bản Dasan Books tại Seoul ấn hành) năm 2013. Và đầu tháng 10 -2014, cuốn
sách sẽ ra mắt ấn bản tiếng Anh với tên Give me a ticket to childhood do
William Naythons chuyển ngữ (nhà xuất bản Overlook, Mỹ phát hành). Trong
lời giới thiệu sách đăng trên trang web Amazon, Give me a ticket to
childhood được nhắc đến là tác phẩm có thể khiến người lớn lẫn trẻ em xúc
động. Sách hứa hẹn chinh phục trái tim độc giả Mỹ nhờ kĩ thuật viết điêu
luyện, vẽ nên một thế giới tuổi thơ phong phú, giàu có, được dệt nên từ niềm
vui, nỗi buồn, bất hạnh lẫn hạnh phúc.
Như vậy, tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh viết cho thiếu nhi không chỉ
chạm tới trái tim của bạn đọc trong nước mà đã vượt qua khoảng cách địa lý,
tạo được sự đồng cảm với độc giả nước ngoài. Văn chương là con đường đẹp
đẽ để dân tộc này đến với dân tộc khác. Với ý nghĩa đó, truyện Nguyễn Nhật
Ánh là nhịp cầu hòa bình nối kết tâm hồn độc giả, nối kết văn học Việt Nam
với thế giới.

Những ý kiến của các dịch giả, bạn đọc nước ngoài mới chỉ là những
cảm nhận mang tính khái quát, bước đầu, chưa có tính hệ thống, toàn diện về
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Nhưng đó cũng là những tín hiệu
đáng mừng, là niềm vinh dự mà không phải cây bút nào cũng đạt được.
Tương lai văn học của tác giả vẫn còn dài và chúng ta có thể tin tưởng vào
kinh nghiệm sống, sức sáng tạo dồi dào của nhà văn.
Nhìn một cách tổng thể, chúng tôi nhận thấy hầu như không có sự đối
lập trong các nhận xét, đánh giá về Nguyễn Nhật Ánh. Nhà văn được xem là
hiện tượng nổi bật trong dòng văn học thiếu nhi, là “nhà ảo thuật”, người tạo
ra “phép lạ giữa đời thường”. Số lượng ý kiến phong phú chứng tỏ sự quan
tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn và độc giả đối
với “hiện tượng” Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm của anh được tiếp cận, soi
11
chiếu từ nhiều góc độ: tính giáo dục, thế giới trẻ thơ đa dạng, nghệ thuật kể
chuyện Đây sẽ là những gợi ý quý báu giúp chúng tôi có cái nhìn bao quát
về văn nghiệp Nguyễn Nhật Ánh.
2.2. Nghiên cứu về hồi ức trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh
Sau năm 1975, truyện thiếu nhi lấy hồi ức tuổi thơ làm chất liệu nở rộ
với số lượng tác phẩm phong phú, gặt hái nhiều thành công. Lã Thị Bắc Lý
trong công trình Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 nhận xét: “mảng
truyện viết về kí ức tuổi thơ đặc biết phát triển, khẳng định vị trí ưu thế của nó
trong văn học thiếu nhi nếu trước kia, quá khứ thường trở về với người ta
trong những hồi ức về chiến tranh thì ở giai đoạn này, kí ức tuổi thơ trở về với
rất nhiều dáng vẻ. Không chỉ là chiến tranh mà còn là phong tục, văn hóa, đặc
biệt là kí ức về thế sự và đời tư” [; 34]. Ở chương 3, khi khảo sát thể loại tự
truyện, tác giả lưu ý: “kí ức được coi là một chất liệu quan trọng để nhà văn
kiến tạo nên cấu trúc tác phẩm Cái căn cốt của tự truyện là đời tư của chất
hồi cố. Xuất phát điểm từ cuộc sống hôm nay, nhà văn khai thác con người
quá khứ” [], “thường thì tự truyện được viết về thời thơ ấu – quãng đời đẹp
nhất, có sức ám ảnh lâu nhất của con người” [108]. Như vậy, nối tiếp mạch

chảy hồi ức bị đứt quãng nửa thế kỉ (kể từ Những ngày thơ ấu – Nguyên
Hồng, Cỏ dại – Tô Hoài), truyện viết về kí ức tuổi thơ phát triển trên bình
diện rộng, có nhiều đóng góp đáng kể cho văn học thiếu nhi.
Nghiên cứu về hồi ức trong truyện thiếu nhi Nguyễn Nhật Ánh rất ít ỏi,
mới chỉ dừng lại ở nhận xét ngắn gọn trong các bài viết. Theo Lê Minh Quốc,
“quê nhà là sự ám ảnh lâu dài trong tâm trí nhà văn” [55], “khi viết về kỉ
niệm, trang viết của anh được dịp phiêu lãng nhẹ nhàng và giàu cảm xúc như
thơ” [57]. Thái Phan Vàng Anh khi nghiên cứu người kể chuyện trong văn
Nguyễn Nhật Ánh nhận xét: “nhà văn thường chọn cách kể từ ngôi thứ nhất-
người kể chuyện “tôi”, khiến cho truyện Nguyễn Nhật Ánh có tính chất hồi
12
ức”. Còn Nguyễn Thị Thanh Xuân chỉ ra khi viết về những bâng khuâng rung
cảm đầu đời, Nguyễn Nhật Ánh “tựa quá nhiều vào quá khứ. Quan màn
sương hoài niệm, những mối tình mới chớm đề buồn, dở dang và gắn liền với
một nhân dáng” [; 28].
Từ việc tóm lược các ý kiến trên, có thể thấy truyện Nguyễn Nhật Ánh
dùng hồi ức làm chất liệu không nằm ngoài dòng chảy văn học thiếu nhi Việt
Nam sau 1975. Tuy nhiên, các ý kiến nhận định về vấn đề này còn rất ít ỏi,
chưa khái quát. Cho đến nay, chưa có bài viết, công trình nào nghiên cứu hồi
ức trong sáng tác Nguyễn Nhật Ánh như một đối tượng khoa học thực sự. Do
vậy, thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn góp thêm một cách tiếp cận
văn chương Nguyễn Nhật Ánh và có thêm những tri thức quý báu cho công
việc giảng dạy mà chúng tôi đảm nhiệm.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung tìm hiểu hồi ức tuổi thơ và
tuổi mới lớn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh với hai bình diện: nội dung hồi
ức và nghệ thuật thể hiện hồi ức, từ đó góp phần khẳng định đóng góp độc
đáo của Nguyễn Nhật Ánh trong văn học thiếu nhi ở nước ta.
Ngoài ra, là người giảng dạy, người viết thực hiện đề tài này cũng nhằm

mục đích rèn luyện cho mình kỹ năng, phương pháp nghiên cứu khoa học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tìm hiểu hồi ức tuổi thơ và tuổi mới lớn trong truyện của
Nguyễn Nhật Ánh trên các phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nhiều vào các tác phẩm sử dụng nhiều chất liệu hồi ức của
Nguyễn Nhật Ánh như:
13
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp liên ngành: đối tượng miêu tả trong truyện Nguyễn Nhật
Ánh là tuổi thơ và tuổi mới lớn – những đối tượng phức tạp trong văn chương
và ngoài đời thực. Do vậy, khi thực hiện đề tài, chúng tôi kết hợp với phương
pháp của các ngành khoa học khác như: văn hóa học, giáo dục học và đặc biệt
là tâm lí học.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: được dùng trong việc phân tích
các luận chứng, từ đó có những đánh giá và kết luận khách quan, khoa học.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: nhằm chỉ ra những nét chung và nét
độc đáo riêng của Nguyễn Nhật Ánh so với các nhà văn khác cùng viết cho
thiếu nhi.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Nhận diện sự đổi mới của văn học Việt Nam nói chung, văn học thiếu
nhi Việt Nam sau 1975 nói riêng qua việc sử dụng chất liệu “hồi ức”.
- Khảo sát một cách có hệ thống những chủ đề gắn với hòi ức tuổi thơ
và nghệ thuật thể hiện hồi ức tuổi thơ trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
- Góp phần khẳng định phong cách Nguyễn Nhật Ánh trong văn học
thiếu nhi Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn dược triển
khai trên ba chương:

Chương 1: Hồi ức và truyện viết cho thiếu nhi giai đoạn sau năm 1975
Chương 2: Hồi ức và những chủ đề chính trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hồi ức trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
14
Chương 1
HỒI ỨC VÀ TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI
GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1975
1.1. Khái niệm “hồi ức” và quan niệm về đề tài
Trong tiếng Hán, “về, đi rồi trở lại nghĩa là hồi” [33; 124], “ức” có nghĩa: 1.
Nhớ tương ức: cùng nhớ nhau; 2. Ghi nhớ, nhớ chôn vào tim óc gọi là kí ức [33;
257]. “Hồi ức” hiểu một cách đơn giản là nhớ lại những điều đã qua.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa “hồi ức” là “nhớ lại điều bản thân đã trải
qua hoặc một cách có chủ định” [68; 594].
Như vậy, nếu đặt trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai, hồi
ức thuộc về quá khứ, là cái đã qua. Trong Marcel Proust và vấn đề thời gian
nghệ thuật, Lê Phong Tuyết cho rằng: “để tìm lại thời gian đã mất, nhà văn
phải nhớ đến Hồi ức. Hồi ức là cái cớ để đi ngược dòng thời gian. Nhờ hồi ức,
tác giả đã tái tạo lại quá khứ, nhờ hồi ức, quá khứ và hiện tại luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau” [96; 49].
Con người - chủ thể của hồi ức làm sống lại những hình ảnh, sự việc
trong quá khứ từ trí nhớ của mình. Do đó, hồi ức thuộc về kinh nghiệm cá
nhân, in đậm dấu ấn chủ thể. Cùng một sự vật nhưng do sự quan tâm khác
nhau, những mối liên hệ khác nhau mà hồi ức về nó trong mỗi cá nhân không
giống nhau. Âm thanh và cuồng nộ - thiên tiểu thuyết nổi tiếng của William
Faulkner dày đặc những hoài nhớ. Nhân vật chính Caddy không xuất hiện
trực tiếp trong hiện tại mà chỉ hiện tồn qua hồi ức của các nhân vật khác. Với
Benjy, Caddy là nguồn động viên, sự chở che, vỗ về nên hình ảnh của chị luôn
gắn với ngọn lửa ấm áp, yêu thương. Hình ảnh của Caddy trong tâm trí Quentin
lại luôn đi kèm với mùi hương kim ngân, gắn với tình yêu tội lỗi Quentin dành
cho em gái. Rõ ràng, do xúc cảm chi phối, hoài niệm về Caddy trong mỗi nhân vật

có sự khác biệt, gắn với cái nhìn cá nhân.
15
Hồi ức có vai trò rất quan trọng trong sáng tạo văn học. Hồi ức thường
là những ấn tượng, những kỉ niệm sâu sắc trong quá khứ nhưng có sức ám ảnh
lâu bền đối với con người. Nó có thể là những bước ngoặt làm thay đổi số
phận hoặc thay đổi tư tưởng, nhận thức của con người trước đó thành con
người hiện tại. Vì vậy, hồi ức góp phần thể hiện thế giới nội tâm của người kể.
Mặt khác, tái hiện lại quá khứ cũng là cách tự nhận thức những điều đã qua.
Hồi ức, do đó là hành vi tìm lại chính mình cũng như chiêm nghiệm, suy tư về
cuộc đời.
Hồi ức có thể được thể hiện thông qua những kỉ niệm, giấc mơ hay qua
sự liên tưởng. Sự hoài nhớ có thể bắt đầu từ một số hình ảnh, sự kiện gợi nhắc
đến quá khứ (hồi ức không chủ ý). Chẳng hạn, ở chương một của Âm thanh
và cuồng nộ, trong ngày sinh nhật lần thứ ba mươi ở hiện tại, khi nghe tiếng
gọi "caddie" của người chơi golf, Benjy nhớ đến người chị Caddy yêu quý;
khi chui qua hàng rào bị vướng, Benjy đột ngột lùi vào quá khứ - lúc còn nhỏ
hắn cũng bị vướng rào như thế khi cùng chị Caddy mang lá thư tình của cậu
Maury cho bà Patterson. Dòng hồi ức cứ lan dần, tỏa rộng, qua đó người đọc
nhận ra hai sự kiện chính: đám tang bà nội khi Caddy bảy tuổi và đám cưới
của Caddy sau này. Xuất phát từ một cái cớ ngẫu nhiên, không có gì quan
trọng trong hiện tại, quá khứ lan rộng, khơi sâu theo dòng hồi ức, mở rộng
thời gian và không gian, trở thành “quá khứ trong quá khứ” hay “hồi ức trong
hồi ức”.
Cũng có khi người kể nhớ lại những sự việc, kỉ niệm một cách có chủ
định (hồi ức chủ ý). Trong Cái trống thiếc của Gunter Grass, nhân vật chính
Oskar ba mươi tuổi, trốn tránh xã hội trong trại tâm thần viết một cuốn tiểu
thuyết tái hiện lại quá khứ gia đình và bản thân. Hồi ức của nhân vật bắt đầu
bằng hình ảnh bà ngoại Anna với bốn tầng váy ngồi dưới cánh đồng khoai tây,
cuộc hôn nhân của cha mẹ. Dòng kí ức xuôi theo từng chặng đời đã qua của
nhân vật: sinh nhật lần thứ ba và quyết định ngừng lớn, ngày đầu tiên đến

trường, đi lưu diễn cùng đoàn xiếc Bebra
16
Hồi ức thuộc về quá khứ - một quá khứ đã xa nên sự việc, hình ảnh
được tái hiện đôi khi không nguyên vẹn, không trùng khít với những gì đã
diễn ra trong thực tế. Mức độ của sự trùng hợp còn phụ thuộc vào tâm trạng
của người kể, vào độ dài của thời gian lâu hay mới diễn ra của sự kiện được
nhớ lại và cả ý nghĩa của nó với người kể.
Nói hồi ức là một chất liệu cũng bao hàm nó là một phương thức biểu
đạt vì thực tế nhà văn chọn chất liệu nào là đã chọn một cách ứng xử với nghệ
thuật, với bạn đọc. Bởi vậy, chất liệu của nghệ thuật không bao giờ đơn giản
chỉ là “vật liệu” khách quan. Nó thấm đẫm tính chủ quan của sự lựa chọn. Với
nhân vật là người lớn, khái niệm “hồi ức” thường chỉ một quá khứ đã lùi xa,
nhưng với nhân vật trẻ em thì “hồi ức” có thể là một quá khứ rất gần như một
vài năm trước đó. Với tuổi nhỏ, mỗi khoảng thời gian đều được cảm nhận
khác người trưởng thành.
1.2. Hồi ức trong truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975
Văn xuôi Việt Nam hiện đại đã bắt đầu biết đến kĩ thuật kể bằng hồi ức
khá sớm và có những tác phẩm thành công. Đầu thế kỉ XX, trong tiểu thuyết
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, mối tình bi thương của Đạm Thủy – Tố Tâm
được tái hiện từ hồi ức của nhân vật Đạm Thủy. Trong văn học thời chống
Mỹ, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu gây ấn tượng mạnh bởi
câu chuyện tình yêu lãng mạn cách mạng được nhân vật kiêm người kể
chuyện nhớ lại và kể vào một đêm mưa trong rừng già Trường Sơn. Hồi ức
phát lộ hết vẻ đẹp trong một số tác phẩm thuộc thể loại hồi kí văn học và tự
truyện như Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Sống nhờ (Mạnh Phú Tứ), Cỏ
dại (Tô Hoài) Tuy vậy, trước năm 1975, đó không phải những thể loại tiêu
biểu. Sau 1975, các thể loại này mới bùng nổ và nhiều tác phẩm được công
chúng đánh giá cao. Không chỉ ở hồi kí, tự truyện (thí dụ Cát bụi chân ai,
Chiều chiều – Tô Hoài, Thượng đế thì cười – Nguyễn Khải, Gia đình bé mọn
17

– Dạ Ngân, Ngược dòng nước lũ – Ma Văn Kháng ) mà chất liệu hồi ức
được sử dụng khá đậm đặc ở các tiểu thuyết nổi tiếng như Nỗi buồn chiến
tranh – Bảo Ninh, Thời xa vắng – Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai, Chim
én bay – Nguyễn Trí Huân Đặc biệt nó gắn chặt với cảm hứng “nhận thức
lại” – một cảm hứng lớn góp phần thay đổi diện mạo văn học Việt Nam thời
đổi mới. Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 cũng xuất hiện nhiều tác
phẩm lấy hồi ức làm chất liệu chính. Hiện tượng này có thể lí giải từ quá trình
vận động, đổi mới văn học.
Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất. Con người bước ra từ hai
cuộc chiến tranh phải đối diện với những vấn đề mới trong cuộc sống: vấn đề
cơm áo gạo tiền, vấn đề lối sống, tư tưởng, quan hệ giữa cái “tôi” cá nhân với
cộng đồng Sự đề cao cái “ta” trong thời kì kháng chiến cứu nước đã không
còn thích hợp với xã hội hôm nay. Trong thời bình, con người có điều kiện
nhìn lại cái “tôi” cá nhân để chiêm nghiệm về chặng đường đã qua và tìm
hướng đi cho tương lai sắp tới. Ý thức mạnh mẽ về cái “tôi” với tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật đã tạo tiền đề cho văn học chuyển từ cái nhìn thế sự
sang cái nhìn đời tư, lấy con người làm hệ quy chiếu đánh giá những vấn đề
xã hội. Dòng chảy văn học thiếu nhi cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung
của văn học Việt Nam. Các nhà văn quay trở về quá khứ của mình như một
con đường để tìm lại bản thể và suy tư cuộc đời. Do đó, hồi ức trong truyện
thiếu nhi sau năm 1975 hầu hết là hồi ức mang màu sắc tự truyện với lối “hồi
thuật” rất phổ biến của người kể. Theo cái nhìn sơ bộ ban đầu, chúng tôi thấy
mạch truyện thiếu nhi sử dụng nhiều hồi ức thường hướng tới mấy mục đích
chính sau đây:
1.2.1. Hồi ức gắn với nhu cầu nhìn lại các sự kiện lịch sử
Mỗi cá nhân dù trưởng thành hay còn thơ dại đều không thể tách rời
với xã hội, cộng đồng. Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 vẫn có những
18
tác phẩm đi theo mạch nguồn lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Hồi ức
của người kể gắn liền với cuộc đấu tranh anh dũng, với những sự kiện lịch sử

không thể nào quên. Đó là hành trình ngược thời gian để tìm lại vẻ đẹp và bài
học từ quá khứ đã qua bằng việc làm sống dậy bức tranh hiện thực thời quá
vãng. Tiêu biểu cho khuynh hướng này có thể kể đến Cơn giông tuổi thơ (Thu
Bồn), Hồi đó ở Sa Kỳ (Bùi Minh Quốc), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán) Dòng
sông thơ ấu (Nguyễn Quang Sáng)
Tuổi thơ dữ dội – “bản di chúc chiến sĩ” của Phùng Quán được viết khi
kháng chiến chống pháp đã lùi xa nhưng dư âm vẫn hằn sâu trong hồi ức tác
giả. Chiến tranh không chỉ tác động tới người lớn, mà còn ảnh hưởng tới số
phận, cuộc đời trẻ thơ. Cả một thế hệ thiếu niên chẳng ngại gian nguy, dấn
thân vào cuộc chiến. Chiến tranh tôi luyện các em từ những đứa trẻ non nớt,
hồn nhiên trở thành những chiến sĩ thực thụ.
Trong Dòng sông thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng, các nhân vật đều
chủ động tham gia hoặc bị chi phối bởi những biến động lịch sử mà bước
ngoặt lớn nhất là cuộc cách mạng tháng Tám - 1945. Hiện thực phức tạp và
dữ dội của làng Mỹ Luông trong quá khứ được sống dậy qua hoài nhớ của
nhân vật Minh: “Nỗi nhớ của con người có lúc nó nằm yên rồi chợt gặp một
dáng đi, giọng nói của ai đó, hoặc gặp một bài hát mà nó hay hát, nỗi nhớ lại
dâng lên cuồn cuộn như sóng. Và kỷ niệm như những con thuyền trăn trở
không yên”. Từ hiện tại, người kể chuyện – nhân vật “tôi” ngược dòng quá
khứ, tái hiện những năm tháng tuổi thơ với cuộc khởi nghĩa chống Pháp,
Nhật, với bạo động của các giáo phái Hòa Hảo, Tin lành Trong thiên sử thi,
sông Cửu Long trở thành một chứng nhân lịch sử. Dòng sông khi đục, khi
trong, khi hiền hòa lặng sóng, khi tràn trề nước lũ, lúc lắng đọng phù sa. Dòng
sông với những chiếc xuồng cắm cờ đỏ sao vàng nối đuôi nhau san sát bập
bềnh trong ngày giành chính quyền. Dòng sông “căng lên nổi màu phù sa
19
ngầu đỏ, vừa hăm hở vừa giục giã vừa cuồn cuộn như muốn cuốn theo cây cỏ
hai bên bờ đổ ra biển” trong trận đánh đầu tiên. Sông Cửu Long đã trở thành
biểu tượng cho hiện thực cách mạng của làng. Từ nguồn sáng kỉ niệm, câu
chuyện đấu tranh giống như một lời tâm tình bình dị mà vẫn bi tráng, hào hùng,

đậm lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Hoài niệm tuổi thơ khói lửa mở ra những trang viết bi tráng hào hùng,
nối tiếp mạch nguồn ngợi ca cách mạng. Nhưng như hai mặt của một vấn đề,
đằng sau tấm huy chương rực rỡ của chiến công vẫn tồn tại ít nhiều góc khuất
thương đau mà chỉ khi có độ lùi thời gian, con người mới có điều kiện nhìn
thấu. Trước năm 1975, tác phẩm viết về thiếu nhi tiếp cận trẻ thơ ở quá trình
thức tỉnh cách mạng. Nhân vật mang dáng dấp người anh hùng đặt trong thử
thách chiến tranh khốc liệt, được lí tưởng hóa nên có phần già dặn hơn so với
lứa tuổi. Từ sau khi hòa bình thống nhất, các tác giả vẫn đặt trẻ em trong mối
quan hệ với lịch sử cách mạng nhưng nhìn nhận lại bằng cái nhìn bình tĩnh,
sâu sắc hơn.
Nhà văn không né tránh sự khốc liệt của chiến tranh – điều mà trong
văn học trước đây, chúng ta ngại nhắc đến. Hiện thực cách mạng qua sự
chiêm nghiệm quá khứ không chỉ có hào hùng, cao cả mà còn có sự mất mát,
đau thương và cả cái xô bồ, nghiệt ngã. Tuổi thơ dữ dội tái hiện cảnh thành
phố rực lửa trong đạn trong những câu văn nhói lòng: “Mười giờ tối. Cả Mặt
trận thành Huế phút chốc rung lên trong tiếng gầm nổ dữ dội của các loại
súng đạn cầu vồng. Nửa giờ sau, như không thể chịu nổi sức nổ dồn dập,
quyết liệt của quân ta, một cột lửa đỏ khé vụt dựng lên chính giữa trung tâm
khu vực bọn Pháp chiếm đóng. Cột lửa mỗi lúc dựng cao hơn, tỏa rộng, chiếu
đỏ cả bầu trời thành phố”. Tác phẩm nhìn sâu vào nỗi đau trẻ thơ trong cuộc
chiến để thấy những bi kịch cá nhân đau đớn, day dứt. Nỗi oan ức của khi cậu
bé Mừng bị lãnh đạo nghi trở thành bi kịch cào xé tâm hồn. Mừng lúc hấp hối
20
khẩn cầu: “Anh ơi, anh đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!” - lời cầu xin
khẩn thiết cuối cùng “yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở, nhưng trong khoảnh
khắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn giặc, và cả tỉếng sấm rền của trận địa
mìn đã làm tanh bành hơn hai đại đội giặc” (Tuổi thơ dữ dội). Đó thực sự là
tiếng kêu thống thiết của một tâm hồn trong trắng bị nghi ngờ vô lý.
Cơn giống tuổi thơ là hình ảnh ngôi làng “bị bọn giặc Mỹ san bằng,

chôn sâu”. Các em bị đánh cắp phần hồn nhiên tuổi nhỏ: bọn giặc “bắt mang
đi tất cả những người trong làng để xóa dấu vết làng tôi. Chúng giết tất cả
những con trâu để xóa nhòa đồng ruộng tuổi thơ và dĩ vãng của những đứa
trẻ con làng quê”. Chiến tranh “để lại trên thân mình Lượng những mảng da
nhăn nhíu quăn queo ở ngực, hai bên sườn và suốt một bên chân cái chân
như muốn teo dần lại” (Hồi đó ở Sa Kỳ). Dòng sông thơ ấu đan xen những nốt
nhạc hùng của những con người kiên cường đứng lên chiến đấu với nốt buồn
trầm, lạc điệu. Tư Ghe chao đảo, ngả nghiêng giữa hai ngả đường cách mạng
và giáo phái Hòa Hảo. Ủy viên quân sự đầu tiên của chính quyền cánh mạng
ở làng “vốn là chủ tiệm cầm đồ” hèn nhát, cứng nhắc. Những vết khắc trên
mặt trái tấm huy chương ấy, một thời chúng ta né tránh, kì thị nhưng vẫn tồn
tại âm thầm như một vết thương không liền sẹo, và giờ đây mới có cơ hội để
nhìn lại công bằng hơn.
Hồi ức về đề tài cách mạng vẫn tiếp tục cảm hứng ngợi ca những chiến
công anh hùng của quân dân ta. Tuy nhiên, chiến tranh giờ đây được nhìn
nhận một cách chân thực, sống động và đa nghĩa hơn. Sự trải nghiệm, suy tư
lắng qua thời gian càng làm tăng thêm chiều sâu của hiện thực. Như vậy, hồi
ức chính là phương cách để các nhà văn chiêm nghiệm quá khứ cách mạng
bằng cái nhìn đa chiều.
21
1.2.2. Hồi ức gắn với những giá trị nhân bản trong đời tư con người
Thời đại trước năm 1975, văn học đề cao tính tập thể, con người gạt hết
những tình riêng nhỏ nhặt, hòa chung với cái ta cộng đồng. Tình yêu cách
mạng được ưu tiên đặt lên hàng đầu so với những tình cảm riêng tư. Sau
1975, sự thức tỉnh cái tôi cùng tinh thần nhìn thẳng vào sự thực khiến văn học
có sự chuyển mình. Lùi dần khỏi từ trường của sử thi chiến tranh, văn học
khơi sâu số phận con người với tư cách cá thể. Nói như thế không có nghĩa
phủ nhận hoàn toàn mọi giá trị của văn học giai đoạn trước. Mỗi thời đại, do
yêu cầu khác nhau nên văn học có sự ưu tiên phản ánh không giống nhau.
Trong truyện viết cho thiếu nhi sau hòa bình, hồi ức như một “chỉ dấu” về sự

vận động của tư duy văn học trở lại với đời tư cá nhân, coi trọng các giá trị
nhân bản mà biểu hiện rõ nhất qua tình cảm gia đình.
Gia đình được nhìn nhận trước hết không phải là phần tử của xã hội,
cộng đồng như ở giai đoạn trước mà là nơi hình thành và phát triển nhân cách
trẻ em. Các nhà văn đã thể hiện mối quan tâm này trong một loạt các tác
phẩm như Tuổi thơ im lặng, Miền xanh thẳm, Miền thơ ấu, Tuổi thơ khát
vọng
Đề cao vai trò gia đình, Tuổi thơ im lặng làm hiện diện những gương
mặt người thân với tình cảm trìu mến. Bà nội gầy, vai mỏng tanh, lặng lẽ như
chiếc bóng, hiền như đất nhưng luôn là chỗ dựa tinh thần cho con cháu. Hình
ảnh người bà qua màn sương hoài niệm được nâng lên thành biểu tượng cho
thiên tính, cho sức mạnh thanh trừ cái ác, cái xấu. Những câu ca dao bà hát ru
dạy con cháu nên người. Có một người bà như thế, con cháu không thểbất
lương. Hình như lớp bụi thời gian không làm nhòe mờ gương mặt người thân
mà lại làm chúng càng trở nên sáng tỏ. Người cha có những ngón chân khum
khum - “đôi chân vất vả” dãi nắng dầm sương thành bệnh để giữ cho đôi chân
con thật khỏe, đi thật xa. Người mẹ đôi vai gầy nứt ra rớm máu vì gánh gồng.
22
Chắc chắn, qua bao năm thắng, nhiều thứ đã mờ phai nhưng những dấu vết trên
đôi chân cha, đôi vai mẹ sẽ không thôi ám ảnh, là tấm huy chương của tình
thương vô bờ theo nhân vật “tôi” suốt cuộc đời.
Hồi ức thường bao giờ cũng có nguyên cớ từ hiện tại. Từ hiện tại,
người ta ngược dòng thời gian, gặp lại quá khứ nhưng không nhìn quá khứ
bằng con mắt thời ấu thơ nữa. Những cuộc đời, tính cách, gương mặt người
thân qua khảng cách thời gian – khi người kể (thường là nhân vật “tôi”) có
điều kiện trải nghiệm, suy tư nên đã được làm mới lại trong cái nhìn hiện tại.
Cô Gái (Miền thơ ấu) ra sức nặn đứa cháu – “ một tên nhóc vô thần thành một
con chiên ngoan”. Quá trình tôi luyện đứa cháu có chiều chuộng nhưng chủ
yếu là mắng mỏ. Cô khó tính, lạnh lùng, khó gần nhưng không hẹp bụng. Cô
luôn canh chừng cô Thiệp (vì sợ mất đồ) nhưng sẵn sàng lờ đi khi biết Thư

đem gạo giúp chú Khóa. Nhờ kí ức mà Thư nhận ra rằng: con người không
chỉ đơn giản một chiều, mà phong phú, phức tạp đan xen giữa tốt – xấu, thiện
– ác. Do đó, cần nhìn con người từ cái nhìn đa chiều.
Sau năm 1975, với sự trỗi dậy của ý thức cá nhân và tinh thần nhìn
thẳng vào sự thực, các nhà văn đã phản ánh gia đình trong cái nhìn đa diện,
đời tư để thấy cả “những ẩn khuất của mỗi số phận trong gia đình” [Lã Thị
Bắc Lý; 39]. Vững sau trận ốm liệt giường bị tật nguyền hai chân, từ một cậu
bé thông minh, nhanh nhẹn, bỗng trở thành gánh nặng trong mắt người mẹ.
Mẹ rất thương Vững, dẫu em chỉ là con nuôi nhưng gánh nặng cuộc sống
dường như che đi tình thương ấy, luôn cáu kỉnh, quát mắng em (Tuổi thơ khát
vọng). Tâm hồn nhạy cảm của cậu bé Thiện nhận ra những rạn nứt trong ngôi
nhà tưởng như êm ấm, hòa thuận. Đằng sau sự yên bình “suốt trong mấy chục
năm, chưa bao giờ có một câu nói nặng lời, một cử chỉ gì gây xức phạm đối
với người này người khác” là “không khí uể oải, buồn chán, lạnh lùng, một sự
không bằng lòng do một nguyên nhân thầm kín nào đó không dễ nói ra chi
23
phối”. Sự túng quẫn về kinh tế khiến không khí gia đình càng trầm uất, nặng
nề hơn (Miền xanh thẳm). Nhờ hồi ức, nhân vật Bê nhận ra mẹ rất thương em
nhưng không biết lắng nghe Bê. Khi em cãi lại ông thầy dạy thể dục, mẹ xem
Bê là đứa con hư. Sự độc đoán của mẹ gây tổn thương sâu sắc cho cô bé: “Sự
im lặng của mẹ khiến tôi cảm thấy tôi đã chết rồi. Tôi đã chết thật”. Quyết
định bỏ nhà đi tìm bố thực ra là phản ứng mạnh mẽ, đầy uất ức của Bê (Hành
trình ngày thơ ấu). Mâu thuẫn xuất phát từ quan niệm, cách nhìn khác nhau
giữa trẻ em và người lớn. Đi cùng những rạn nứt trong tình cảm gia đình vốn
thiêng liêng, cao đẹp là những đổ vỡ trong tâm hồn trẻ thơ. Thế giới trẻ thơ
không chỉ có màu hồng mà còn những gam buồn, sắc lạnh. Tất cả những màu
sắc ấy sẽ để lại dấu ấn trong cuộc sống sau này của trẻ thơ.
1.2.3. Hồi ức – một cách trình diện của cái tôi cá nhân
Cái tôi cá nhân là tính cách riêng khẳng định dấu ấn không bị mờ nhạt,
tan loãng vào cộng đồng. Nó là cơ sở phân biệt những người xung quanh. Có

bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu cá tính. Văn học lấy con người làm đối
tượng trung tâm, và tùy từng quan niệm nghệ thuật khác nhau mà ở mỗi giai
đoạn, cái tôi cá nhân được khắc họa đậm nét hoặc mờ nhạt. Tác giả viết cho
thiếu nhi lấy hồi ức làm chất liệu thực chất là sự nhìn nhận lại quãng đời đã
qua. Ở đây, hồi ức có vai trò như một “tấm gương” hiển lộ hình ảnh cái tôi cá
nhân con người
Văn học trước năm 1975 là tiếng nói cho ý thức cộng đồng. Trong điều
kiện đất nước còn chiến tranh, mối quan tâm lớn nhất là đánh đuổi kẻ thù xâm
lăng. Cả nước đồng lòng chung sức vừa chi viện cho tiền tuyến, vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tập thể phát huy sức mạnh lớn lao đối với sự nghiệp chung
của dân tộc. Do đó, văn học không thể không phản ánh hình mẫu con người
thời đại – đó là con người hi sinh cái “tôi”’ riêng để phục vụ cái “ta” chung
cộng đồng. Nhân vật thống nhất trong tính cách, nội tâm, thể hiện phẩm chất
24
chung của một thế hệ, một tầng lớp. Văn học thiếu nhi Việt Nam giai đoạn
này cũng nhìn nhận trẻ thơ dưới góc nhìn thế sự. Trẻ em là một phần tử của
cộng đồng, tuân theo quy phạm, chuẩn mực sẵn có của tập thể. Các nhà văn
chưa quan tâm đến cá tính riêng mà chủ yếu đề cao phẩm chất tốt đẹp: dũng
cảm chiến đấu, cần cù học tập lao động sản xuất. Có thể thấy rõ điều này qua
các tác phẩm: Vừ A Dính, Kim Đồng, Đội du kích thiếu niên Đình Bảng, Mẹ
vắng nhà Sau năm 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, văn học bùng nổ ý
thức cá nhân, hướng tới sự phản ánh con người như một thế giới riêng biệt.
Truyện viết cho thiếu nhi cũng hòa chung vào sự chuyển mình của văn học.
Lấy hồi ức làm chất liệu, nhà văn có điều kiện nhìn lại quá khứ, đi sâu vào nội
tâm con người trong tính cá thể.
Nếu như tính cách nhân vật trong văn học giai đoạn trước vận động
xuôi chiều, thống nhất với chuẩn mực xã hội thì sau năm 1975, cái tôi cá nhân
hiển lộ với sự phức tạp, phong phú của nó. Tính cách nhân vật không xuôi
chiều mà vận động theo nhiều chiều hướng. Bởi vậy, sự đánh giá không thể
đơn giản mà phải nhìn từ nhiều góc độ.

Trong Hành trình ngày thơ ấu, Bê là ham học, thông minh, hết lòng vì
bạn bè, có nét ngây thơ con trẻ, sợ hãi vì bị nhốt ở phòng kho trong chùa
nhưng cũng thẳng thắn, dữ dội, ngang tàng, dám một mình mạnh mẽ chống
trả cái ác, cái xấu. Hành động vô lễ với thầy Gia tưởng như rồ dại, bồng bột
nhưng sâu xa đó lại là thái độ trước loại người giả dối, bất công. Đánh giá Bê
nếu chỉ nhìn theo chuẩn mực đạo đức cứng nhắc thông thường sẽ không tránh
khỏi cái nhìn cứng nhắc một phía như mẹ Bê: “người học trò ngoan chỉ có
mỗi nhiệm vụ: lắng nghe và học hỏi thầy”. Từ hành động phản kháng của Bê,
khái niệm “học trò ngoan – hư” được xem xét lại, không chỉ đánh giá hành
động bên ngoài mà truy tìm nguyên cớ xâu xa của hành động ấy.
25

×