Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

HỒI ỨC TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.28 KB, 103 trang )


1


1.1. Từ những tác phẩm đầu tiên đặt nền móng ở đầu thế kỉ XX cho đến
nay, trải qua quá trình hình thành và phát triển, văn học thiếu nhi Việt Nam
đã có những bước tiến dài về lực lượng sáng tác, đề tài và thể loại tác phẩm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng không thể phủ nhận
thực trạng sáng tác cho các em hiện nay ngày càng khó khăn hơn. Trong
thời đại “thế giới phẳng” của giao lưu và hội nhập, văn học Việt Nam nói
chung, văn học thiếu nhi nói riêng không tránh khỏi quy luật cạnh tranh
khốc liệt cả về phương thức lưu hành lẫn chất lượng nghệ thuật với các tác
phẩm văn ngoại nhập. Truyện tranh dài tập Nhật Bản (manga) như
Doraemon của Fujikô hay truyện huyễn tưởng, kì ảo như Harry Potter của
J.K Rowling, Chúa tể những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings) của J. R.
R. Tolkien…. xuất hiện ồ ạt, có lúc lấn lướt sáng tác “nội địa”. Sự tràn
ngập của các tác phẩm văn học dịch đã và đang không ngừng tạo nên những
làn sóng đáp ứng thị hiếu độc giả nhỏ khiến con đường cạnh tranh và giành
được cảm tình người đọc của văn học Việt vẫn còn là một hành trình dài.
Trên con đường đó cần sự nỗ lực, hăng say lao động của những nhà văn có
trái tim nhiệt thành, sống trọn từng nhịp với suy tư tuổi thơ.
Trước hoàn cảnh khó khăn, gai góc, nhiều tác giả văn học thiếu nhi
Việt Nam đã vươn lên tự khẳng định mình và gặt hái thành công. Trong số
đó phải kể đến Nguyễn Nhật Ánh. Được coi là "hoàng tử bé" trong thế giới
trẻ thơ, tác giả đã vượt qua những cuộc "thử lửa" khốc liệt và chinh phục
độc giả nhỏ tuổi. Nguyễn Nhật Ánh có thể xem là nhà văn có bút lực khá
mạnh hiện nay với sức sáng tạo dồi dào, đạt nhiều giải thưởng cả trong
nước và quốc tế. Hầu hết các sáng tác của anh như Mắt biếc, Kính vạn hoa,
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ đều tạo được dấu ấn trong lòng công chúng,
được tái bản nhiều lần và một số còn được dịch ra tiếng nước ngoài. Là nhà
2


sư phạm, hoạt động đoàn, nhà báo và viết văn, dường như cuộc tao phùng
giữa tác giả và văn học thiếu nhi là một sự bén duyên đầy hữu ý. Nhà văn
đã gieo hạt trên cánh đồng trẻ thơ, nuôi dưỡng nhiều giá trị tinh thần quý
báu, giúp các em chống lại nguy cơ bị lãnh cảm, bị cằn cỗi trong tác động
của kinh tế thị trường.
1.2. Từ sau đổi mới, nhiều nhà văn đã chọn hồi ức làm chất liệu sáng tác.
Hồi ức được gợi lại từ những năm tháng đã xa không chỉ tái hiện quá khứ
mà còn mang ý nghĩa sâu sắc. Đặc biệt, hồi ức về tuổi thơ và tuổi mới lớn
chất chứa nhiều rung cảm. Với mỗi con người, tuổi thơ là quãng thời gian
đầu đời có ý nghĩa vô cùng quan trọng để định hình nên một nhân cách.
Tuổi thơ đong đầy kỷ niệm, tuổi mới lớn vụng dại, thơ ngây tuy ngày một
lùi xa nhưng vẫn không ngừng quay trở về trong hiện tại. Với văn chương,
hồi ức không chỉ là chất liệu mà còn là nhu cầu chiêm nghiệm, nhận thức
lại các vấn đề của quá khứ, là cách thức bộc lộ cái tôi sâu kín.
Trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, hồi ức có vai trò quan
trọng, đặc biệt là hồi ức tuổi thơ và tuổi mới lớn vốn đã xa xôi. Hồi ức có
khi là một nỗi nhớ bất chợt của hiện tại mở ra câu chuyện quá khứ hay là sự
hiện hữu song song của quá khứ và hiện tại mà sợi dây kết nối tưởng đứt lìa
vẫn bền chặt một cách vô hình. Từ hồi ức, khung cảnh về một làng quê tươi
đẹp, thế giới trẻ thơ và tuổi mới lớn hiện lên sinh động mà chẳng cần ngôn
từ hoa mĩ. Đó không chỉ là đích đến, nó còn là cuộc hành trình tìm lại bản
thể. Tìm về quá khứ qua màn sương hoài niệm cũng là tìm lại sự vô tư, tìm
lại con người thơ dại. Bên cạnh đó, nó là sự chiêm nghiệm, nghĩ suy về quá
khứ với cái nhìn từng trải và sâu sắc hơn. Phải chăng đó cũng là lí do khiến
tác phẩm neo lại bền lâu trong trái tim nhiều thế hệ độc giả?
1.3. Chúng tôi thực sự ấn tượng với truyện viết cho tuổi thơ và tuổi mới lớn
của Nguyễn Nhật Ánh. Những tác phẩm đó cuốn hút chúng tôi vào hành
trình khám phá truyện Nguyễn Nhật Ánh, để rồi nhận thấy sức hấp dẫn từ
3
lòng nhiệt thành của một tâm hồn người lớn mang trái tim thơ trẻ sáng

trong, từ những trang văn hóm hỉnh giàu ý nghĩa nhân sinh. Từ hồi ức về
một thời đã xa trong sáng tác của nhà văn, chúng tôi tìm thấy chính mình ở
trong đó. Bởi vậy, người viết yêu thích tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh một
cách tự nhiên và chân thành. Thực hiện đề tài này cũng là cách thể hiện
lòng ngưỡng mộ của tác giả với nhà văn nguyễn Nhật Ánh – một “hiện
tượng” của văn học thiếu nhi Việt Nam.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: "Hồi ức trong truyện
của Nguyễn Nhật Ánh" với mong muốn có thêm một góc nhìn mới về nhà
văn vốn có nhiều đóng góp cho văn học thiếu nhi Việt Nam, cũng như lí
giải sức sống mãnh liệt của tác phẩm trong lòng bạn đọc.

Với niềm say mê văn chương, Nguyễn Nhật Ánh đến với nghiệp cầm
bút như một điều tất yếu. Xuất phát điểm từ thơ ca, anh là tác giả của 5 tập
thơ: Thành phố tháng Tư (in chung với Lê Thị Kim, 1984), Đầu xuân ra
sông giặt áo (1986), Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh (1988), Lễ hội của đêm đen
(1994) và Tứ tuyệt cho nàng (1994), trong đó, nhiều bài thơ được phổ nhạc:
Thành phố, tình yêu và nỗi nhớ, Đầu xuân ra sông giặt áo, Như là cổ tích
Đến với văn xuôi từ những năm 80 của thế kỉ XX, cho đến nay, Nguyễn
Nhật Ánh vẫn luôn trung thành với những sáng tác cho tuổi thơ và tuổi mới
lớn. Tác giả viết cho thế hệ trẻ với niềm yêu mến, sự đồng cảm và lòng
nhiệt tình không thay đổi theo thời gian. Sự lao động cần mẫn, nghiêm túc
của nhà văn được thể hiện ở khối lượng tác phẩm đồ sộ: bộ Kính vạn hoa
gồm 54 tập, Chuyện xứ Lang Biang gồm 4 tập, 30 truyện dài, 6 tập truyện
ngắn (tính đến năm 2014). Bên cạnh đó, độc giả còn biết đến nhà văn xứ
Quảng với bút danh Anh Bồ Câu phụ trách chuyên mục gỡ rối tơ lòng cho
tuổi hoa, bút danh Chu Đình Ngạn bình luận thể thao hấp dẫn Nguyễn
Nhật Ánh là cây bút trẻ đa tài, viết ở nhiều lĩnh vực nhưng có thể khẳng
4
định thành công nhất của tác giả vẫn là văn xuôi với những sáng tác cho
thiếu nhi. Anh đã từng vinh dự nhận nhiều giải thưởng: giải văn học Trẻ

hạng A (1995) do Trung ương Đoàn TNCS.HCM trao tặng cho truyện dài
Chú bé rắc rối, giải thưởng văn học (2002) của Hội Nhà văn Việt Nam cho
bộ Kính vạn hoa, huy chương Vì thế hệ trẻ (2003) của Trung ương Đoàn
TNCS.HCM, giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam và giải Sách
hay của Hội xuất bản Việt Nam (2008) cho tác phẩm Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ, giải thưởng văn học ASEAN (2010) tại Thái Lan, giải thưởng
FAHASA (2012) Năm 1995, Nguyễn Nhật Ánh còn được bầu chọn là nhà
văn được yêu thích nhất trong 20 năm (1975 - 1995) và sau này (2005) là
30 năm (1975- 2005) do Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi
trẻ tổ chức.
Truyện Nguyễn Nhật Ánh được nhìn nhận, đánh giá dưới nhiều
phương diện khác nhau trong các bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí,
internet, các công trình nghiên cứu văn học. Do hạn chế nhất định trong quá
trình thu thập tài liệu nên chúng tôi chưa thể khai thác hết tất cả các bài viết,
các công trình nghiên cứu. Trong phần này, luận văn đi vào mô tả tổng
quan tình hình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh để khẳng định những thành
tựu của nhà văn mà các nhà nghiên cứu ghi nhận.
2.1. Truyện Nguyễn Nhật Ánh ở Việt Nam
Mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh được xuất bản đều được quan
tâm thể hiện qua các bài giới thiệu đăng tải trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Có thể kể đến các bài viết: Chú bé rắc rối của Vân Thanh đăng
trên báo Thiếu niên tiền phong (1991), Bong bóng lên trời của Ngọc Cúc
trên báo Người lao động (1991), Hạ đỏ của Đỗ Trung Quân trên Báo Tuổi
trẻ (1991), Nguyễn Nhật Ánh chinh phục thiếu nhi của Ngọc Cúc trên
Người lao động (1995), Nguyễn Nhật Ánh và Kính vạn hoa của Lê Phương
Liên trên Báo Tiền phong (1996), Kính vạn hoa có thể trở thành kịch bản
5
phim truyền hình hay của Kim Ngân trên báo Truyền hình VTV (2002),
Quà xuân của các em – Bộ sách Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh được
tái bản của Lê Hữu Bắc Sơn trên tạp chí Giáo dục (2003) hay Nguyễn Nhật

Ánh, vẫn thế, với “Lá nằm trong lá” của Thụy Anh trên báo điện tử
tuoitre.vn (2011), Nước mắt hồi sinh thế giới của Lưu Khánh Thơ trên
thanhnien.com (2013) Các bài viết đã khẳng định sức lôi cuốn của ngòi
bút Nguyễn Nhật Ánh, cung cấp những thông tin khái quát, những cảm
nhận về tác phẩm cụ thể của nhà văn.
Bài viết mang tính nghiên cứu tổng quát truyện Nguyễn Nhật Ánh
phải kể đến Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh
của Nguyễn Thị Thanh Xuân đăng trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh, số 237 (ra ngày 26/12/1996). Theo tác giả bài viết, giá trị độc đáo
của truyện Nguyễn Nhật Ánh trước hết là thái độ vào cuộc của nhà văn,
“nghĩa là Nguyễn Nhật Ánh nắm rõ luật chơi, tuân thủ nghiêm chỉnh các
quy ước tự nhiên giữa những người trẻ tuổi”, “nói các ngôn ngữ họ nói,
nghĩ những điều họ nghĩ và thấy những gì họ nhìn thấy” [102; 12]. Nhà văn
nắm bắt những nét tâm lí trong thế giới nội tâm của nhân vật, thể hiện
những bâng khuâng rung cảm đầu đời. Nguyễn Thị Thanh Xuân rất tinh tế
trong sự phát hiện: “Chắc hẳn rằng dù không đa dạng như ở người lớn,
trạng thái tinh thần này ở lứa tuổi thiếu niên vẫn đòi hỏi được thê hiện ở
nhiều cung bậc, sắc thái, mà Nguyễn Nhật Ánh thì còn tựa quá nhiều vào
quá khứ. Qua màn sương hoài niệm, những mối tình mới chớm đều buồn,
dở dang và gắn liền với một nhân dáng” [102; 13]. Bên cạnh đó, yếu tố
cách kể, ngôn ngữ cũng góp phần tạo nên thành công của truyện Nguyễn
Nhật Ánh: “Cái cách kể, cách đối thoại đã vượt lên nội dung câu chuyện
(Bằng chứng là truyện Nguyễn Nhật Ánh có nhiều cốt truyện gần giống
nhau nhưng vẫn không bị nhàm lặp)”, “Nguyễn Nhật Ánh có một ngôn ngữ
văn chương chuẩn mực” [102; 28].
6
Vũ Ân Thy trong Nguyễn Nhật Ánh – người bạn thân mến của độc
giả trẻ đăng trên báo Sài Gòn giải phóng (1997) đề cao tác phẩm của nhà
văn xứ Quảng “có sức hấp dẫn lạ và mới. Nó lôi cuốn thiếu nhi và có sức
thuyết phục người lớn có trách nhiệm với thế hệ trẻ” [85; 52]. Tác giả bài

viết đã khái quát giá trị truyện Nguyễn Nhật Ánh: “Nhỏ nhắn, hóm hỉnh và
sâu sắc, trữ tình; duyên dáng và bất ngờ truyện kể Nguyễn Nhật Ánh luôn
gần gũi như truyện dân gian cổ tích, như ước mơ của tuổi thơ mà lại mang
tính hấp dẫn hiện đại” [85; 52].
Vân Thanh trong Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của tuổi thơ
đăng trên Tạp chí Văn học số 6- 1998 nhận định: “Nguyễn Nhật Ánh đã nói
được tiếng nói, đã nghĩ theo cách nghĩ của lứa tuổi thơ” [81; 75]. Đó cũng
là yêu cầu trong những sáng tác cho thiếu nhi – điều tưởng như đơn giản
nhưng không dễ thực hiện. Truyện của Nguyễn Nhật Ánh “’thông qua sự
sống dung dị và trẻ trung, giúp ta tiếp nhận được nhiều vấn đề: lí tưởng sống,
tình bạn, tình yêu nam nữ, tình thầy trò, tình yêu quê hương. Hình ảnh một
làng quê yên tĩnh cũng có vị trí đáng kể trong tác phẩm của anh” [81; 78].
Nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi Văn Hồng dành sự chú ý tới hiện
tượng Nguyễn Nhật Ánh từ sớm. Ông coi Nguyễn Nhật là “cây bút mến mộ
nhất của tuổi học trò”. Trong bài viết Kính vạn hoa – phép lạ giữa đời
thường (1996), Văn Hồng tiếp cận bộ sách nổi tiếng của nhà văn từ nghệ
thuật dẫn truyện theo phong cách tân cổ điển: “Kính vạn hoa viết theo lối
chương hồi, mỗi tập là một sự tích. Những sự tích ở đây đâu dễ tóm tắt, bởi
không triển khai theo chủ đề, không kết cấu theo lối tầng lớp như cổ tích”
[48; 63] cho đến nhân vật “nhân vật trẻ em của anh có ưu, có khuyết nhưng
không xấu, không hư” và chất hài ở nhiều cung bậc.
Năm 2002, Văn Hồng với bài viết Nguyễn Nhật Ánh – một mình một
chợ đã khẳng định vị trí của nhà văn trong dòng văn học thiếu nhi, nhất là
trong hoàn cảnh truyện tranh Nhật và các tác phẩm văn học dịch xuất hiện ồ
7
ạt hiện nay. Và sự khẳng định ấy càng được nhấn mạnh trong bài Nguyễn
Nhật Ánh như một ví dụ (2004). Bài viết đã mang đến một các nhìn toàn
diện hơn về con người, tính cách Nguyễn Nhật Ánh qua phần trò chuyện
với nhà văn cũng như phân tích sâu hơn về cấu trúc đặc biệt của truyện
Nguyễn Nhật Ánh qua tác phẩm Chuyện xứ Lang Biang. Từ đó, Văn Hồng

nhận định: “ với cách kết hợp truyền thống và hiện đại, tinh hoa thế giới
và bản sắc Việt Nam, vốn văn hóa – thẩm mĩ rộng và tay nghề cao, nhắm
tới một đối tượng xác định, nguyễn Nhật Ánh đã trở thành một hiện tượng
độc đáo trong văn học thiếu nhi”. Như vậy, “không còn là ví dụ, mà thực sự
Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành một bông hoa tươi thắm trong vườn hoa 30
năm Hòa Bình – Thống Nhất” [48; 202].
Trong công trình nghiên cứu Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975,
Lã Thị Bắc Lý đã đề cập đến truyện Nguyễn Nhật Ánh, đặc biệt là bộ Kính
vạn hoa như những minh chứng cho sự đổi mới của truyện viết cho thiếu
nhi sau 1975 ở các phương diện: đề tài, quan niệm về con người và nghệ
thuật. Sau này, trong bài viết Cảm nhận về văn học thiếu nhi Việt Nam đầu
thế kỉ XXI, tác giả tiếp tục nhắc tới Nguyễn Nhật Ánh với tư cách là một
trong những “nhà văn giao thời của hai thế kỉ”, “nổi lên từ những năm cuối
thế kỉ XX” và “vẫn giữ được phong độ và cảm hứng sáng tạo trong thế kỉ
mới” [63]. Nhà văn “được bình chọn là tác giả tiêu biểu nhất của văn học
thiếu nhi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX” [63]. Sang thế kỉ XXI,
Nguyễn Nhật Ánh tiếp tục thể hiện bút bực dồi dào với nhiều tác phẩm hay.
Trong đó, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ vẫn “với lối viết dí dỏm kiểu Kính
vạn hoa, Tôi là Bê tô nhưng dấu ấn tâm trạng tác giả đã in đậm nét hơn, tâm
trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về tuổi thơ” [67].
Tiếp cận truyện Nguyễn Nhật Ánh từ vai trò, ý nghĩa giáo dục,
Nguyễn Hương Giang coi nhà văn xứ Quảng là Người nuôi dưỡng tâm hồn
trẻ thơ: “Tính giáo dục sâu sắc trong các tác phẩm của anh rất tự nhiên,
8
không khiên cưỡng, bởi vì được viết với thái độ của người trong cuộc, giản
dị, đầy trách nhiệm” [39; 106]. Tác giả của thiếu nhi mong muốn nuôi
dưỡng tình cảm quê hương, gia đình, bạn bè và di dưỡng phần tinh thần ấy
trong tâm hồn trẻ thơ. “Truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói từ chính tâm
hồn anh – một tâm hồn còn trong sáng, thơ trẻ cho đến tận bây giờ” [39;
109]. Điều đó, theo Nguyễn Hương Giang chính là điểm hấp dẫn, là sức lôi

cuốn rất riêng để các em tìm đến với nhà văn.
Tại Hội thảo khoa học về ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự
phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế do Đại
học Sư phạm Hà Nội tổ chức năm 2009, tên tuổi Nguyễn Nhật Ánh được
nhắc tới trong các bài tham luận như một cây bút tiêu biểu viết cho thiếu
nhi. Lê Phương Liên trong Viết cho thiếu nhi là viết cho tương lai đã xác
định các giai đoạn của văn học viết cho thiếu nhi thời kì đổi mới và hội
nhập quốc tế ở nước ta. Trong giai đoạn từ 1995 – 2005, khi internet phát
triển với sự phổ biến của trò chơi điện tử (game online), sách của nguyễn
Nhật Ánh vẫn tạo sức hút đối với độc giả nhỏ tuổi: “với tài năng mô tả tâm
lí trẻ em và trình bày đời sống sinh hoạt thiếu nhi học sinh vui tươi, hóm
hỉnh, Nguyễn Nhật Ánh đã thực sự là nhà văn được trẻ em cả nước đọc
nhiều nhất” [57]. Những năm gần đây, tác phẩm viết cho thiếu nhi vẫn thủy
chung với phong cách nghệ thuật “ về nhận thức và   về nghệ
thuật” mà Nguyễn Nhật Ánh là minh chứng cụ thể. Sau bộ Kính vạn hoa,
tác giả “vẫn bật lên với Tôi là Bêtô và Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” [57].
Cũng tại Hội thảo, với tham luận Từ “Thằng quỷ nhỏ” của Nguyễn
Nhật Ánh nghĩ về những phẩm chất của một tác phẩm viết cho thiếu nhi,
Trần Văn Toàn tiếp cận truyện Nguyễn Nhật Ánh từ việc tìm hiểu hình
tượng nhân vật trong một tác phẩm cụ thể để đưa ra kiến giải về phẩm chất
cần có của những sáng tác cho trẻ thơ. Viết về Quỳnh – nhân vật chính trong
Thằng quỷ nhỏ, tác giả nhận định: “sự bất bình thường trong nhân dạng đã
9
mặc nhiên ấn định cho sinh thể bé nhỏ ấy sự bất bình thường trong nhân cách
và vì thế ấn định vị thế của một kẻ lạc loài trong mắt đồng loại” [92].
Năm 2013, cuốn Nguyễn Nhật Ánh – hoàng tử bé trong thế giới tuổi
thơ (Lê Minh Quốc biên soạn) ra đời giúp người đọc có cái nhìn khá đầy đủ
về tiểu sử, hành trình văn chương của Nguyễn Nhật Ánh. Với tình cảm
nồng hậu dành cho bạn văn đồng hương xứ Quảng, tác giả tập sách nhận
định: “Với dòng văn học dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn, hiện nay anh

(Nguyễn Nhật Ánh – Lê Minh Quốc) đang giữ một vị trí đặc biệt. Khó có
người thay thế. Khi liệt kê tên tuổi và tác phẩm của một thế hệ nhà văn, hội
đồng văn học sử có thể nhớ người này và quên béng người kia. Có thể chọn
người này và bỏ sót người kia. Nhưng với Nguyễn Nhật Ánh, người ta
không thể, dù cố tình hoặc vô tâm” [72; 51].
Cùng với sự khẳng định vị trí nhà văn, Lê Minh Quốc còn giải thích
nguyên nhân tạo ra “ma lực Nguyễn Nhật Ánh”. Đó là nhờ “cách viết phù
hợp với tâm lí đối tượng bạn đọc”, “Câu văn trong sáng như nó vốn có, như
lời ăn tiếng nói ta tiếp nhận hàng ngày ” [72; 52]. Các tác phẩm kết hợp
nhuần nhuyễn yếu tố giải trí và giáo dục” hướng trẻ thơ tới những giá trị
nhân bản. Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, “yếu tố hóm hỉnh đóng vai trò
rất quan trọng” [72; 54] thể hiện qua những câu thoại, những tình huống
gây cười. Bên cạnh đó, “vốn sở hữu tư duy của một nhà thơ nên khi viết về
kỷ niệm, trang viết của anh được dịp phiêu lãng, nhẹ nhàng và giàu cảm xúc
như thơ” [72; 57]. Ngoài các yếu tố kể trên, Nguyễn Nhật Ánh luôn có “ý
thức tiếp cận với cái mới, phong cách viết mới để qua đó làm mới chính
mình’ [72; 58]. Vì vậy, tác phẩm của anh vẫn gần gũi, phù hợp với tâm sinh
lí thế hệ trẻ thời hiện đại hôm nay. Viết về thế giới sinh động của tuổi thơ
và tuổi mới lớn, nhà văn “đồng hành cùng với nhân vật, chứ không phải
đứng ở ngoài quan sát” [72; 61] nên tạo được hứng thú, sự đồng tình của
độc giả.
10
Thái Phan Vàng Anh với bài viết Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện
của thiếu nhi đăng trên Tạp chí Non nước Số 187 - 2013 đã góp thêm một
cách nhìn cho việc nghiên cứu truyện Nguyễn Nhật Ánh ở góc độ nghệ
thuật kể chuyện. Điều quan trọng là tác giả hòa vào thế giới trẻ thơ, sống cùng
với các em nhỏ để rồi kể chuyện về thiếu nhi cho chính thiếu nhi. Thái Phan
Vàng Anh cho rằng dù không quá chú ý đến cách kể, đến kĩ thuật dựng truyện
nhưng “Cái hấp dẫn, cái “duyên” của truyện Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu nhờ
vào sự hồn nhiên, tươi tắn ở ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật” [1; 61].

Bên cạnh những bài viết, công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã
điểm qua ở trên, trong những năm gần đây đã có không ít tiểu luận, luận
văn của sinh viên đại học, cao học chọn truyện của Nguyễn Nhật Ánh làm
đề tài nghiên cứu.
Luận văn Thạc sĩ Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật
Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa (2005) của Phạm Thị Bền là công trình
chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh, đặc biệt về
tác phẩn được coi là một hiện tượng trong văn học thiếu nhi gần đây. Theo
tác giả luận văn, tuổi thơ là hệ quy chiếu của nhận thức và sáng tạo trong
Kính vạn hoa. Khi lấy trẻ thơ làm hệ quy chiếu, Nguyễn Nhật Ánh thể hiện
nhận thức về thế giới xung quanh (tự nhiên, xã hội và nội tâm con người)
qua điểm nhìn của nhân vật trẻ em với các phương thức tiếp cận đặc thù
(tiếp cận trẻ từ sân chơi, cuộc chơi, từ các vùng miền, hoàn cảnh khác
nhau). Luận văn còn đi vào khai thác, tìm hiểu nghệ thuật thể hiện thế giới trẻ
thơ trong bộ Kính vạn hoa trên các phương diện: ngôn ngữ trẻ thơ, nghệ thuật
khắc họa chân dung nhân vật và âm sắc trẻ thơ trong giọng điệu trần thuật.
Ngoài ra, luận văn nghiên cứu về truyện Nguyễn Nhật Ánh còn có
thể kể đến Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh (2009) của Vũ Thị
Hương, Yếu tố huyền thoại trong truyện Nguyễn Nhật Ánh (2011) của Lê
Thị Diệu Phương, Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh (2011) của Bùi Thị
Thu Thủy và chắc chắn trên thực tế, số lượng tiểu luận, luận văn còn
nhiều hơn so với những gì chúng tôi thu thập, tìm hiểu được.
11
2.2. Truyện Nguyễn Nhật Ánh và dư luận nước ngoài
Không chỉ chinh phục độc giả trong nước, truyện của Nguyễn Nhật
Ánh còn được dịch ra các ngôn ngữ khác, là cầu nối đưa tên tuổi tác giả và
văn học thiếu nhi Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Năm 2004, truyện Mắt
biếc được Kato Sakae dịch sang tiếng Nhật do Nhà xuất bản Terrainc ấn
hành. Tác phẩm tái hiện không gian làng quê Việt Nam đậm đà bản sắc dân
tộc. Bởi vậy, dịch giả Kato Sakae tự tin cho rằng không chỉ lớp trẻ mà cả

độc giả trung niên Nhật cũng sẽ yêu thích tác phẩm này. Cách xây dựng
nhân vật với nội tâm tinh tế tạo ra sự đồng cảm với người đọc: “Tôi rất
đồng cảm với nội tâm của nhân vật Ngạn trong tác phẩm Mắt biếc. Tôi đã
rơi nước mắt trước tâm hồn vô tư và sự hi sinh của Trà Long, qua đó tôi suy
nghĩ nhiều về bối cảnh xã hội Việt Nam” (nhà văn Inazawa Junko) [dẫn
theo 72; 76). Bên cạnh đó, tác phẩm còn cuốn hút bởi giọng văn “rất hay và
nhẹ nhàng. Câu chuyện tình cảm trong sáng” (nhà thơ Takatsuki Fumiko) [dẫn
theo 72; 77] và kết cục “vượt ra ngoài những sự đoán về cuộc đời đã để lại dư
âm sâu đậm” (nhà phê bình văn học Sakai Tazuko) [dẫn theo 72; 77].
Năm 2008, tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua được Tiến sĩ Maxim
Synnerberg - người biên soạn Từ điển Nga – Việt đề nghị đưa vào giáo
trình giảng dạy tiếng Việt của Đại học Moscow, Nga. Dịch giả của cuốn
sách đã nói: “Tôi rất thích cách viết của Nguyễn Nhật Ánh. Tôi nghĩ sinh
viên cũng sẽ thích truyện này nên bắt đầu đưa tác phẩm đó (Cô gái đến từ
hôm qua) vào quá trình giảng dạy tiếng Việt” [dẫn theo 72; 74]. Và cho đến
nay, cuốn giáo trình có sử dụng truyện của Nguyễn Nhật Ánh “đã được xuất
bản và lưu hành ở các trường đại học của Nga, phục vụ việc giảng dạy tiếng
việt cho sinh viên Nga” [72; 72].
Việc Nguyễn Nhật Ánh tham dự Hội thảo quốc tế về văn học thiếu
nhi tại Stockhom năm 2009 và sự thành công với giải thưởng Văn học
ASEAN năm 2010 đã tạo cơ hội đưa tác phẩm của anh đến với độc giả tại
nhiều nước trên thế giới.
12
Trang web www.boklogger.se, Thụy Điển đã nhận xét: “Tác phẩm
của ông thường lấy bối cảnh đô thị hiện đại, vì vậy sẽ là một bổ sung tốt
cho Tô Hoài cổ kính và Nguyễn Ngọc Thuần của tuổi thơ nông thôn” [dẫn
theo 72; 74]. Xuất thân từ làng Đo Đo nghèo ở tỉnh Quảng Nam, Nguyễn
Nhật Ánh luôn nặng lòng với thôn quê. Ngòi bút của anh đã tái hiện làng
quê khốn khó, yên bình, mang đậm hồn Việt. Nhưng bên cạnh một làng quê
yên bình, thơ mộng, không gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh còn là

những thành phố hiện đại. Do vậy, tác phẩm của anh vẫn gần gũi với độc
giả trẻ hôm nay, nhất là các em thiếu nhi thành thị.
Giới thiệu tên tuổi Nguyễn Nhật Ánh với công chúng đất nước Chùa
vàng, Bangkok Post đã nhận định: “Nguyễn Nhật Ánh là tác giả của những
truyện sắc sảo cho trẻ em và người lớn ( ) Ông được coi là một trong những
nhà văn thành công nhất về đề tài thanh thiếu niên” [dẫn theo 72; 73].
Sau thành công của giải thưởng ASEAN (2011), Cho tôi xin một vé
đi tuổi thơ trở thành tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Nhật Ánh và được dịch
ra nhiều ngôn ngữ. Tác phẩm được sang tiếng Thái và được nhà xuất bản
Nanmeebooks phát hành. Dịch giả Montira Rato đã tâm sự lí do chọn Cho
tôi xin một vé đi tuổi thơ: “Lí do thứ nhất là vì tôi biết ở Việt nam cuốn sách
này được nhiều độc giả yêu mến, nhất là các độc giả trẻ. Thứ hai vì năm
trước, năm 2010, cuốn sách này được giải thưởng ASEAN SEA Writer
Award, trước đây cũng có nhiều cuốn sách của Việt Nam được giải thưởng
ASEAN hay giải thưởng SEA Writer, nhưng những tác phẩm đó đa số có
nội dung về chiến tranh là chính, còn tôi thấy cuốn sách Cho tôi xin một vé
đi tuổi thơ là một bước đi rất hay khi tìm hiểu về xã hội Việt Nam” [93].
Tác phẩm “phản chiếu thế giới kì diệu của tuổi thơ và trí tưởng tượng của
con trẻ, những điều mà người lớn không bao giờ biết tới hay không bao giờ
nghĩ đến, đó là đời sống thật của trẻ em, nơi có mọi điều tốt lành mà chúng
ta cần học hỏi” (Emme Achara, Nxb Nameebooks) [93]. Đồng thời, nó còn
13
giúp độc giả nhận ra những khác biệt: “Khác biệt giữa thế giới trẻ em và thế
giới người lớn. Khác biệt giữa trẻ em Việt Nam và trẻ em Thái Lan. Cuối
cùng là khác biệt giữa những người đã đọc cuốn sách và những người chưa
đọc cuốn sách này” (nhà văn Binlah Son) [dẫn theo 72; 75].
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ còn được dịch sang tiếng Hàn do nhà
xuất bản Dasan Books tại Seoul ấn hành năm 2013. Và đầu tháng
10.2014, cuốn sách sẽ ra mắt ấn bản tiếng Anh với tên Give me a ticket
to childhood do dịch giả William Naythons chuyển ngữ, nhà xuất bản

Overlook, Mỹ phát hành. Trong lời giới thiệu sách đăng trên trang web
Amazon, Give me a ticket to childhood được nhắc đến là tác phẩm có thể
khiến người lớn lẫn trẻ em xúc động. Sách hứa hẹn chinh phục trái tim độc
giả Mỹ nhờ kĩ thuật viết điêu luyện, vẽ nên một thế giới tuổi thơ phong phú,
giàu có, được dệt nên từ niềm vui, nỗi buồn, bất hạnh lẫn hạnh phúc.
Truyện Nguyễn Nhật Ánh không chỉ chạm tới trái tim của bạn đọc
trong nước mà đã vượt qua khoảng cách địa lý, tạo được sự đồng cảm với
độc giả nước ngoài. Văn chương là con đường để dân tộc này đến với dân
tộc khác một cách hòa bình. Với ý nghĩa đó, truyện Nguyễn Nhật Ánh là
một nhịp cầu nối kết những tâm hồn độc giả, nối kết văn học thiếu nhi Việt
Nam với thế giới.
Những ý kiến của các dịch giả, bạn đọc nước ngoài mới chỉ là những
cảm nhận mang tính khái quát, bước đầu, chưa có tính hệ thống, toàn diện
về tác phẩm và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Nhưng đó cũng
là những tín hiệu đáng mừng, là niềm vinh dự mà không phải tác giả nào
cũng đạt được. Con đường chinh phục đông đảo độc giả nước ngoài của
Nguyễn Nhật Ánh vẫn còn dài và chúng ta có thể tin tưởng vào kinh
nghiệm sống, sức sáng tạo dồi dào của nhà văn.
Nhìn một cách tổng thể, chúng tôi nhận thấy hầu như không có sự đối
lập trong các nhận xét, đánh giá về Nguyễn Nhật Ánh. Nhà văn được xem
14
là hiện tượng nổi bật trong dòng văn học thiếu nhi, là “nhà ảo thuật”, người
tạo ra “phép lạ giữa đời thường”. Tác phẩm của anh được tiếp cận, soi chiếu
từ nhiều góc độ: tính giáo dục, thế giới trẻ thơ đa dạng, nghệ thuật kể
chuyện Đây sẽ là những gợi ý quý báu giúp chúng tôi có cái nhìn bao quát
về văn nghiệp Nguyễn Nhật Ánh. Mặt khác, chúng tôi nhận thấy chưa có
công trình, bài viết nào nghiên cứu về hồi ức trong truyện của nhà văn một
cách hệ thống. Do vậy, với việc lựa chọn đề tài này, chúng tôi hi vọng đưa
ra thêm một cách tiếp cận giá trị văn chương Nguyễn Nhật Ánh để có thêm
những kinh nghiệm quý báu cho công việc giảng dạy và giáo dục về sau.

!"#$%&'()*+,
3.1. M%c đ'ch nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung tìm hiểu hồi ức tuổi thơ và
tuổi mới lớn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh với hai bình diện: nội dung hồi
ức và nghệ thuật thể hiện hồi ức. Từ đó chúng tôi góp phần làm sáng tỏ
những đóng góp độc đáo của Nguyễn Nhật Ánh trong các tác phẩm viết cho
thiếu nhi.
Ngoài ra, là người giảng dạy, người viết thực hiện đề tài này cũng
nhằm mục đích rèn luyện cho mình những kỹ năng nhận thức, chuyên môn
nghiệp vụ và cách tiếp cận thế giới trẻ thơ.
3.2. Đ*i tư+ng nghiên cứu
Chúng tôi tìm hiểu hồi ức tuổi thơ và tuổi mới lớn trong truyện của
Nguyễn Nhật Ánh trên các phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.3. Ph-m vi nghiên cứu
Khảo sát các sáng tác viết cho tuổi thơ và tuổi mới lớn của Nguyễn
Nhật Ánh.
-.%/''*+,
Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
15
- Phương pháp liên ngành: đối tượng miêu tả trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh là tuổi thơ và tuổi mới lớn – những đối tượng phức tạp trong văn
chương và ngoài đời thực. Do vậy, khi thực hiện đề tài, chúng tôi kết hợp
với phương pháp của các ngành khoa học khác như: văn hóa học, giáo dục
học và đặc biệt là tâm lí học.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: được dùng trong việc phân
tích các luận chứng, từ đó có những đánh giá và kết luận khách quan,
khoa học.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: nhằm chỉ ra những nét chung và
nét độc đáo riêng của Nguyễn Nhật Ánh so với các nhà văn khác cùng viết
cho thiếu nhi.

011')2345,67
Từ việc tiếp nhận những thành tựu của người đi trước, với sự cố gắng
làm việc nghiêm túc, người viết hy vọng bước đầu đưa ra được một số
hướng tiếp cận có hệ thống các vấn đề sau:
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những thông tin về nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh với tư cách là một tác gia văn học thiếu nhi.
- Khảo sát và nhận diện một cách có hệ thống những nội dung và
nghệ thuật thể hiện hồi ức tuổi thơ qua truyện của Nguyễn Nhật Ánh.
- Từ những khảo sát, nhận xét, đánh giá có hệ thống, luận văn góp
phần khẳng định những đóng góp giá trị của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đối
với văn học thiếu nhi Việt Nam đương đại.
8, 95,67
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn dược
triển khai trên ba chương:
Chương 1: Nguyễn Nhật Ánh và hồi ức trong văn học
Chương 2: Hồi ức và những chủ đề chính trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hồi ức trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
16
%/
:;<=::>?@A:>BC>DEF@GH:;BI:>J
KL)M+
Trong tiếng Hán, “về, đi rồi trở lại nghĩa là hồi” [33; 124], “ức” có
nghĩa: 1. Nhớ tương ức: cùng nhớ nhau; 2. Ghi nhớ, nhớ chôn vào tim óc
gọi là kí ức [33; 257]. “Hồi ức” hiểu một cách đơn giản là nhớ lại những
điều đã qua.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa “hồi ức” là “nhớ lại điều bản thân đã
trải qua hoặc một cách có chủ định” [68; 594].
Như vậy, nếu đặt trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai, hồi
ức thuộc về quá khứ, là cái đã qua. Trong Marcel Proust và vấn đề thời
gian nghệ thuật, Lê Phong Tuyết cho rằng: “để tìm lại thời gian đã mất, nhà

văn phải nhớ đến Hồi ức. Hồi ức là cái cớ để đi ngược dòng thời gian. Nhờ
hồi ức, tác giả đã tái tạo lại quá khứ, nhờ hồi ức, quá khứ và hiện tại luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau” [96; 49].
Con người - chủ thể của hồi ức làm sống lại những hình ảnh, sự việc
trong quá khứ từ trí nhớ của mình. Do đó, hồi ức thuộc về kinh nghiệm cá
nhân, in đậm dấu ấn chủ thể. Cùng một sự vật nhưng do sự quan tâm khác
nhau, những mối liên hệ khác nhau mà hồi ức về nó trong mỗi cá nhân
không giống nhau. Âm thanh và cuồng nộ - thiên tiểu thuyết nổi tiếng của
William Faulkner dày đặc những hoài nhớ. Nhân vật chính Caddy không
xuất hiện trực tiếp trong hiện tại mà chỉ hiện tồn qua hồi ức của các nhân
vật khác. Với Benjy, Caddy là nguồn động viên, sự chở che, vỗ về nên hình
ảnh của chị luôn gắn với ngọn lửa ấm áp, yêu thương. Hình ảnh của Caddy
trong tâm trí Quentin lại luôn đi kèm với mùi hương kim ngân, gắn với tình
yêu tội lỗi của Quentin dành cho em gái. Rõ ràng, hoài niệm về Caddy
trong các nhân do sự chi phối tình cảm nên có sự khác nhau.
17
Hồi ức có vai trò quan trọng trong sáng tạo văn học. Hồi ức thường là
những ấn tượng, những kỉ niệm sâu sắc trong quá khứ nhưng có sức ám ảnh
lâu bền đối với con người. Nó có thể là những bước ngoặt làm thay đổi số
phận hoặc tư tưởng, nhận thức của con người trước đó thành con người hiện
tại. Vì vậy, hồi ức góp phần thể hiện thế giới nội tâm của người kể. Mặt
khác, tái hiện lại quá khứ cũng là cách suy ngẫm về những điều đã qua. Hồi
ức, do đó là hành vi tìm lại chính mình cũng như chiêm nghiệm, suy tư về
cuộc đời.
Hồi ức có thể được thể hiện thông qua những kỉ niệm, giấc mơ hay
qua sự liên tưởng. Sự hoài nhớ có thể bắt đầu từ một số hình ảnh, sự kiện
gợi nhắc đến quá khứ (hồi ức không chủ ý). Chẳng hạn, ở chương một của
Âm thanh và cuồng nộ, ở hiện tại, trong ngày sinh nhật lần thứ ba mươi, khi
nghe tiếng gọi "caddie" của người chơi golf, Benjy nhớ đến người chị
Caddy yêu quý; khi chui qua hàng rào bị vướng, Benjy đột ngột lùi vào

quá khứ - lúc còn nhỏ hắn cũng bị vướng rào như thế khi cùng chị Caddy
mang lá thư tình của cậu Maury cho bà Patterson. Dòng hồi ức cứ lan dần,
tỏa rộng để từ đó người đọc nhận ra hai sự kiện chính: đám tang bà nội khi
Caddy bảy tuổi và đám cưới của Caddy sau này. Từ một điểm nhỏ không có
gì quan trọng trong hiện tại, quá khứ lan rộng, sâu theo dòng hồi ức, mở
rộng thời gian và không gian, trở thành “quá khứ trong quá khứ” hay “hồi
ức trong hồi ức”.
Cũng có khi người kể nhớ lại những sự việc, kỉ niệm một cách có chủ
định (hồi ức chủ ý). Trong Cái trống thiếc của Gunter Grass, nhân vật chính
Oskar ba mươi tuổi, trốn tránh xã hội trong trại tâm thần viết một cuốn tiểu
thuyết tái hiện lại quá khứ của cả gia đình và bản thân. Hồi ức của nhân vật bắt
đầu với hình ảnh bà ngoại Anna với bốn tầng váy ngồi dưới cánh đồng khoai
tây, đến cuộc hôn nhân của ba mẹ và từng chặng đường đời của nhân vật.
18
Hồi ức thuộc về quá khứ - một quá khứ đã xa nên sự việc, hình ảnh
được tái hiện đôi khi không nguyên vẹn, không trùng khít với những gì đã
diễn ra trong thực tế. Mức độ của sự trùng hợp còn phụ thuộc vào tâm trạng
của người kể, vào độ dài của thời gian lâu hay mới diễn ra của sự kiện được
nhớ lại và cả ý nghĩa của nó với người kể.
>M+  ,NLOO,4,7)PQ0
Đầu thế kỉ XX, trong tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách,
mối tình bi thương của Đạm Thủy – Tố Tâm được tái hiện từ hồi ức của
nhân vật Đạm Thủy. Trong văn học thời chống Mỹ, Mảnh trăng cuối rừng
của Nguyễn Minh Châu cũng là sự gặp gỡ bất ngờ của Lãm và Nguyệt
trong kí ức thông qua câu chuyện của người kể vào một đêm mưa trong
rừng già Trường Sơn. Như vậy, hồi ức không phải là điều mới mẻ trong văn
học Việt Nam từ xưa đến nay. Điều đáng lưu ý là truyện viết cho thiếu nhi
sau năm 1975 có sự xuất hiện nhiều của hồi ức. Hiện tượng này có thể được
lí giải từ quá trình vận động, đổi mới văn học.
Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất. Con người bước ra từ

hai cuộc chiến tranh phải đối diện với những vấn đề mới trong cuộc sống:
vấn đề cơm áo gạo tiền, vấn đề lối sống, tư tưởng, quan hệ giữa cái “tôi” cá
nhân với cộng đồng Sự đề cao cái “ta” trong thời kì kháng chiến cứu nước
đã không còn thích hợp với xã hội hôm nay. Trong thời bình, con người có
điều kiện nhìn lại cái “tôi” cá nhân để chiêm nghiệm về chặng đường đã
qua và tìm hướng đi cho tương lai sắp tới. Ý thức mạnh mẽ về cái “tôi” với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã tạo tiền đề cho văn học chuyển từ cái
nhìn thế sự sang cái nhìn đời tư, lấy con người làm hệ quy chiếu đánh giá
những vấn đề xã hội. Dòng chảy văn học thiếu nhi cũng không nằm ngoài
quỹ đạo chung của văn học Việt Nam. Các nhà văn quay trở về với hồi ức
như một con đường để tìm lại chính mình và suy tư cuộc đời. Do đó, hồi ức
trong truyện thiếu nhi sau năm 1975 hầu hết là hồi ức có thật trong cuộc đời
19
của người kể. Tuy nhiên, những hồi ức ấy từ đời sống bước vào văn học đã
được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan của nhà văn, không hoàn toàn trùng
khít với hiện thực.
1.2.1. Hồi ức gắn với lịch sử đất nước, dân tộc
Mỗi con người cá nhân dù trưởng thành hay còn thơ dại đều không
thể tách rời với xã hội, cộng đồng. Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975
vẫn có những tác phẩm đi theo mạch nguồn lịch sử đấu tranh hào hùng của
dân tộc. Hồi ức của người kể gắn liền với những cuộc đấu tranh anh dũng,
với những giai đoạn không thể nào quên của đất nước. Đó là một hành trình
ngược thời gian để tìm lại quá khứ đã qua, làm bức tranh hiện thực các
mạng trở nên sống động trước mắt người đọc. Tiêu biểu cho khuynh hướng
này có thể kể đến Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán hay Dòng sông thơ ấu
của Nguyễn Quang Sáng.
Tuổi thơ dữ dội được khởi thảo bên bờ Hồ Tây từ năm 1968 và hoàn
thành trong lều cỏ giữa hồ Tịnh Tâm năm 1986. Phùng Quán đã dành gần
hai mươi năm để viết nên thiên sử thi về những chú bé trinh sát mười ba,
mười bốn tuổi cùng các anh bộ đội bảo vệ chiến khu Hòa Mỹ trong những

ngày kháng chiến chống Pháp ở Huế. “Đối với đề tài tuổi nhỏ anh hùng,
hình như với Phùng Quán không mất thời gian suy nghĩ và lựa chọn mà nó đã
ăn sâu vào máu thịt, vào gan ruột của ông khi kí ức tuổi thơ hiện về” [89]. Bởi
vậy, nhà văn đã gọi Tuổi thơ dữ dội là bản di chúc chiến sĩ của tôi.
Phùng Quán viết tác phẩm khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã lùi
xa nhưng sự khốc liệt của nó mãi dư âm trong hồi ức tác giả. Cảnh thành
phố rực lửa trong đạn bom được tái hiện trong những câu văn nhói lòng:
“Mười giờ tối. Cả Mặt trận thành Huế phút chốc rung lên trong tiếng gầm
nổ dữ dội của các loại súng đạn cầu vồng. Nửa giờ sau, như không thể chịu
nổi sức nổ dồn dập, quyết liệt của quân ta, một cột lửa đỏ khé vụt dựng lên
chính giữa trung tâm khu vực bọn Pháp chiếm đóng.
20
Cột lửa mỗi lúc dựng cao hơn, tỏa rộng, chiếu đỏ rực cả bầu trời thành
phố”. Sự khốc liệt của chiến tranh không chỉ tác động tới người lớn mà còn
ảnh hưởng tới số phận, cuộc đời của trẻ thơ. Trong hoàn cảnh ấy, cả một thế
hệ tuổi thơ của Tổ quốc đã chẳng ngại gian nguy dấn thân vào cuộc chiến.
Ban đầu, Mừng tham gia vào "Vệ quốc đoàn" vì muốn hái lá tầm gửi trong
sân huấn luyện để chữa hen suyễn cho mẹ. Hiền hồi còn đi học thích xem
xiếc, “bao nhiêu gánh xiếc đến Huế không bỏ buổi nào”, đến khi đi chiến
đấu, em vẫn muốn tập xiếc. Quỳnh sơn ca, Lượm, Vịnh sưa đều bỏ nhà đi
theo cách mạng. Các em từ những đứa trẻ non nớt, hồn nhiên dần trưởng
thành. Khói đạn, máu và nước mắt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã
tôi luyện trẻ thơ thành những chiến sĩ thực thụ trong chiến đấu. Số phận các
em gắn bó chặt chẽ với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc, trải qua sóng
gió và cả những mất mát, hi sinh. Cái chết của Mừng, Vịnh sưa đều là khi
đang làm nhiệm vụ. Những em bé Gavroche của Việt Nam đã trở thành
những anh hùng.
Tiểu thuyết Dòng sông thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng cũng tiếp nối
đề tài cách mạng. Các nhân vật đều chủ động tham gia hoặc bị chi phối bởi
những biến động lịch sử mà bước ngoặt lớn nhất là cuộc cách mạng tháng

Tám - 1945. Hiện thực phức tạp và dữ dội của làng Mỹ Luông trong những
năm tháng đấu tranh được tạo dựng từ trở về quá khứ trong hoài nhớ của
nhân vật Minh. Hoài niệm dù đã lui vào dĩ vãng nhưng nó vẫn là một phần
của cuộc sống và gắn kết quá khứ với hiện tại hôm nay: “Nỗi nhớ của con
người có lúc nó nằm yên rồi chợt gặp một dáng đi, giọng nói của ai đó, hoặc
gặp một bài hát mà nó hay hát, nỗi nhớ lại dâng lên cuồn cuộn như sóng. Và
kỷ niệm như những con thuyền trăn trở không yên”. Từ hiện tại trở về sau bao
năm tháng xa quê, người kể chuyện – nhân vật “tôi” ngược dòng quá khứ, tái
hiện những năm tháng tuổi thơ với cuộc khởi nghĩa chống Pháp, Nhật, với lá
cờ cách mạng rừng rực trên cột dây thép và những bạo động tôn giáo với Hòa
Hảo Trong nguồn sáng của những kỉ niệm, câu chuyện cách mạng giống như
một lời tâm tình bình dị mà vẫn bi tráng, hào hùng.
21
Làng Mỹ Luông vốn có truyền thống cách mạng. Những năm ba
mươi, lá cờ sao vàng treo trên cột dây thép làm “sáng cả lòng người”.
Nhưng dưới sự đàn áp của địch, làng bị phân rã bởi sự nổi lên của các giáo
phái như Hòa Hảo, Tin lành. Theo mạch hồi tưởng của nhân vật “tôi”, dòng
chảy quá khứ tiếp tục tuôn dài trong những ngày tổng khởi nghĩa, cờ đỏ sao
vàng tung bay “như mùa hoa đến ngày nở rộ”. Khi kháng chiến nổ ra,
những con người chân chất đồng lòng đi theo “tiếng sơn hà nguy biến” như
những cánh buồm trên sông đồng loạt giương lên trong mùa gió chướng. Số
phận người dân làng gắn bó chặt chẽ với mảnh đất nơi họ sinh ra và lớn lên,
mang trong nó sự biến động mạnh mẽ của thời đại.
Trong thiên sử thi này, dòng sông Cửu Long trở thành một chứng
nhân lịch sử. Dòng sông khi đục, khi trong, khi hiền hòa lặng sóng, khi tràn
trề nước lũ lắng đọng phù sa. Dòng sông với những chiếc xuồng cắm cò đỏ
sao vàng nối đuôi nhau san sát bập bềnh trên sóng nước trong ngày giành
chính quyền. Dòng sông “căng lên nổi màu phù sa ngầu đỏ, vừa hăm hở
vừa giục giã vừa cuồn cuộn như muốn cuốn theo cây cỏ hai bên bờ đổ ra
biển” trong trận đánh đầu tiên của làng. Sông Cửu Long đã trở thành biểu

tượng cho hiện thực cách mạng sống động của làng.
Hoài niệm về tuổi thơ khói lửa mở ra những trang viết bi tráng, hào
hùng, nối tiếp mạch nguồn ngợi ca cách mạng. Nhưng như hai mặt của một
vấn đề, đằng sau tấm huy chương rực rỡ mang tên chiến công vẫn tồn tại
góc khuất thương đau. Hồi tưởng lại những năm tháng đã qua cũng là một
phương cách để các nhà văn nhìn thẳng vào cuộc chiến, chiêm nghiệm quá
khứ bằng cái nhìn đa chiều.
Cuộc chiến tranh vệ quốc trong Tuổi thơ dữ dội không chỉ có lòng
quả cảm, chiến công mà còn hiện hữu những sai lầm tác động đến vận
mệnh con người. Cùng với sự trưởng thành của những cậu bé trinh sát anh
hùng là sự quay đầu, ngả về phía địch của Kim. Nỗi oan ức của của cậu bé
22
Mừng bị lãnh đạo nghi là Việt gian trở thành nỗi đau đớn xót xa khi câu nói
trước lúc nằm xuống là nỗi khẩn cầu: “Anh ơi, anh đừng nghi em là Việt
gian nữa anh hí!” - lời cầu xin khẩn thiết cuối cùng “yếu ớt và nhỏ gần như
một hơi thở, nhưng trong khoảnh khắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn
giặc, và cả tỉếng sấm rền của trận địa mìn đã làm tanh bành hơn hai đại đội
giặc”. Ở Dòng sông thơ ấu, xen lẫn những nốt nhạc hùng của những con
người kiên cường đứng lên là những nốt buồn trầm, lạc điệu. Tư Ghe chao
đảo, ngả nghiêng giữa hai ngả đường cách mạng và giáo phái Hòa Hảo. Ủy
viên quân sự đầu tiên của chính quyền cánh mạng ở làng “vốn là chủ tiệm
cầm đồ” hèn nhát, cứng nhắc. Những vết khắc trên mặt trái tấm huy chương
ấy, một thời chúng ta không dám đối diện những vẫn tồn tại trong hiện thực
đã qua và giờ đây mới có cơ hội để nhìn lại, chiêm nghiệm và nghĩ suy.
Với đề tài cách mạng, các tác giả vẫn tiếp tục cảm hứng ngợi ca
những chiến công anh hùng của quân và dân trong những ngày lửa đạn
không thể quên. Tuy nhiên, trong hành trình hoài niệm xuôi dòng về quá
khứ, chiến tranh được nhìn nhận trong cái nhìn đa chiều, không né tránh
mặt trái đau thương hay những góc khuất sự thật. Sự trải nghiệm, suy tư
lắng qua thời gian của các tác giả làm tăng thêm chiều sâu trong cái nhìn

hiện thực.
1.2.2. Hồi ức về quê hương
Lấy hồi ức tuổi thơ làm chất liệu, người kể thường đứng ở vị trí đã xa
cả về không gian và thời gian để hoài niệm về quê hương yêu dấu. Hồi ức
về những miền quê là hồi ức về không gian trong một thời đoạn đã qua, nay
đã khác so với hiện tại. Nếu những trang viết về chiến tranh mang âm
hưởng hào hùng, bi tráng thì những trang viết về miền quê trong kỉ niệm lại
chất chồng nhớ thương, da diết như những vần thơ.
Quê hương – nơi chôn rau cắt rốn không chỉ là chốn đi về mà còn là
bến đỗ bình yên, là điểm tựa tinh thần cho con người trong suốt cuộc đời.
23
Nơi ấy gắn liền với quãng đời thơ bé. Vì vậy, viết về quê hương là nhu cầu
rất đỗi tự nhiên của nhà văn, đặc biệt là những cây bút viết cho thiếu nhi.
Quê hương trong hồi ức của truyện viết cho thiếu nhi thường là không gian
có thực gắn với tuổi thơ của chính tác giả. Tuổi thơ im lặng của Duy Khán
là những mảnh ghép kí ức xa xôi của nhân vật “tôi” từ những ngày đầu thơ
dại đến năm mười lăm tuổi. Hành trình trở ngược thời gian cũng là cuộc tái
tạo hình ảnh làng quê bình dị, thân quen trong cái nhìn trong veo của con
trẻ: từ cái ao cạnh cổng chùa “mùa mưa nước đầy đỏ ngàu màu đất sét” đến
vườn nhà đất xấu, cây trồng cằn cỗi; từ những thanh âm “lao xao” cả ngày
đêm trong mùa hè đến những ngôi mộ bên đường – chứng tích cho số phận
những con người khốn khó Cậu bé Thư (Miền thơ ấu – Vũ Thư Hiên)
không sinh ra ở làng nhưng những ngày tháng sống cùng cô Gái nơi thôn
quê đã tạo nên sợi dây gắn bó với quê hương. Quê nội trong mắt cậu bé thị
thành là những gì quen thuộc nhất xung quanh mình, là ngôi nhà lưu dấu
vết của các thế hệ nối tiếp nhau, là thức quà quê bánh “sâu” gắn với niềm
vui con trẻ, là cả một thế giới lạ mắt và thú vị bên bờ ao bác Cố, là gác
chuông nhà thờ “in những nét như cắt trên nền trời bên trên màu xanh đậm
của những lũy tre” mà sau này vẫn đọng lại trong tâm hồn khi Thư trở về
Hà Nội. Làng quê gắn với trò câu cá, những buổi chợ theo cô đi bán thuốc

của cậu bé xa gia đình. Làng quê được bao phủ trong hoài niệm nhớ thương
dường như đẹp hơn, lung linh hơn. Trong Miền xanh thẳm của Trần Hoài
Dương, cậu bé Thiện không có may mắn được gắn bó với quê nhà Hải
Dương. Do vậy, kí ức chỉ là những kỉ niệm rời rạc, không rõ nét, “ẩn hiện
qua một lớp sương mù lúc đậm lúc nhạt”, bị nhòe mờ bởi sức mạnh thời
gian. Tuy nhiên, hồi tưởng lại quê hương, dòng suy tư nhân vật vẫn hé lộ
hình ảnh ngôi nhà ấu thơ. Đó là ngôi biệt thự khá lớn với hàng rào phủ hoa
tigôn, với mảnh vườn mà mùa xuân cây đào bung ra những bông ra màu
hồng phấn, với mùi hương của bông ngọc lan vô tình rơi vào túi áo. Như
24
vậy, quê hương là những gì bình dị, gắn bó thân quen nhất với tuổi thơ.
Cảnh sắc thiên nhiên, tạo vật là cái nôi nuôi dưỡng tình yêu quê hương,
làng xóm và lớn hơn là tình yêu nước sau này.
Hồi ức vẽ nên một làng quê không chỉ thân quen, bình dị với thiên
nhiên vạn vật mà còn mang đậm nét văn hóa, phong tục đặc trưng của con
người từng vùng miền. Trong Tuổi thơ im lặng, cảm nhận về làng quê là
cảm nhận từ vỉa tầng văn hóa truyền thống của thôn quê Bắc Bộ, từ “thế
đất” đặc trưng của làng đến những nét sinh hoạt ngày tết vang tiếng pháo
ran, “con giai lớn tuổi mặt hồng vì rượu”, “con gái vì giầu cay, môi đỏ như
son, đỏng đà đỏng đảnh”. Những hội làng đến như một giấc mơ: hội vật, hát
chèo, đánh đu, trở thành những phần kí ức bền chặt trong tâm thức tác giả.
Dòng sông thơ ấu là thiên sử thi về những ngày hào hùng tháng Tám -
1945 nhưng cái hồn của tiểu thuyết lại là nếp ăn, nếp ở của con người Nam
Bộ gắn với từng mùa nước Cửu Long giang. “Có cảnh nhà, cảnh làng với
nước ròng, nước ngập. Có cảnh bẫy chim, bắt cá, có không khí đình đám,
hội hè… với những con người mang dáng dấp, tích cách đậm đà đặc sắc
Nam Bộ. Những sinh hoạt thường ngày, những công việc, ngành nghề được
miêu tả cụ thể rành rọt đến nỗi có thể nhận lầm là một tiểu thuyết phong
tục” [46]. Làng quê từ Bắc tới Nam mang đậm dấu ấn văn hóa của từng
vùng miền trên đất nước, trở thành phần kí ức sâu thẳm gắn với niềm tự hào

trong mỗi con người đất Việt.
Cùng với sự phát triển trường hoạt động theo chiều dài thời gian,
không gian từ làng quê có thể được mở rộng thành những vùng đất khác nơi
nhân vật đã đi qua. Hồi ức về những miền quê khác làm phong phú thêm
cảnh sắc đất nước, con người Việt Nam. Hành trình ngày thơ ấu của Dương
Thu Hương đúng như tên gọi, là một cuộc hành trình trong tâm tưởng
ngược dòng thời gian trở về quá khứ khi nhân vật tôi (Bê) còn mười hai tuổi
ở thị trấn Rêu. Thị trấn có dãy phố cũ và mới phân cách bởi đường xe lửa,
25

×