Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA BỘT LÔNG VŨ THỦY PHÂN TRONG KHẨU PHẦN TỚI SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA GÀ LƯƠNG PHƯỢNG NUÔI TẠI VIỆN CHĂN NUÔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 101 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này, em đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ của các cá nhân và tập thể. Nhân dịp này, em xin gửi lời
cảm ơn chân thành tới:
Cô giáo hướng dẫn - TS. Văn Lệ Hằng đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành bản luận văn này. Với lòng
kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành nhất!
TS. Nguyễn Huy Hoàng – Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam.
Trong suốt thời gian thực hiện đề tài, đã không quản ngại khó khăn tận tình giúp
đỡ, chỉ bảo để tôi có thể thực hiện tốt được đề tài này.
Ban Giám đốc Trung tâm thực nghiệm và bảo tồn vật nuôi – Viện chăn nuôi
Quốc gia đã tạo mọi điều kiện để em thực hiện đề tài, đặc biệt TS.Bạch Mạnh Điều
và Ths. Chu Thị Thủy đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện đề tài tại trung tâm.
Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy cô giáotrong bộ môn Sinh lý
người & động vật, các thầy cô giáo Khoa Sinh học đã trang bị cho em những kiến
thức cần thiết để thực hiện đề tài. Em xin cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau đại
học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện để em hoàn thành
chương trình đào tạo.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Thuận Thành 1 – Thuận Thành
– Bắc Ninh, các đồng nghiệp trong đơn vị đã tạo điều kiện thuận lợi và chia sẻ
công việc giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.Tôi xin gửi lời cảm
ơn sự quan tâm, động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè, các em học sinh. Đó là
nguồn động viên tinh thần lớn lao giúp tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành luận
văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2014
Học viên
Phạm Thị Lan
1
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những số liệu trong bản luận văn này và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Phạm Thị Lan
2
DANH MỤC VIẾT TẮT
Viết là Đọc là
BLV Bột lông vũ
CPBLV Chế phẩm bột lông vũ
CS Cộng sự
ĐC Đối chứng
Đ Đồng
G Gam
KL Khối lượng
Kg Kilogam
KPCS Khẩu phần cơ sở
NT Ngày tuổi
NXB Nhà xuất bản
TĂTN Thức ăn thí nghiệm
TLNS Tỷ lệ nuôi sống
TN Thí nghiệm
TT Tuần tuổi
TTTĂ Tiêu tốn thức ăn
SS Sơ sinh
VTM Vitamin
3
MỤC LỤC

4
DANH MỤC BẢNG
5
DANH MỤC HÌNH
6
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước đây, ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta chủ yếu ở quy mô nhỏ
tiêu thụ ngay trên thị trường địa phương hoặc các tỉnh lân cận, nhưng đến nay
đã có nhiều thay đổi, chăn nuôi gia cầm ở quy mô lớn và tập trung. Nhiều
công ty cũng đã tập trung vào đầu tư dây chuyền chế biến giết mổ gia cầm với
công xuất lớn. Công ty cổ phần Group dự định xây dựng thêm 2 nhà máy chế
biến gia cầm mới ở ngoại ô Hà Nội với công suất 50.000 con gia cầm/tuần và
một nhà máy sẽ được đặt tại Đồng Nai, các chợ đầu mối gia cầm cũng giết mổ
hàng vạn con gia cầm mỗi tuần. Theo tổng cục thống kê, năm 2012 tổng số
gia cầm của Việt Nam lên tới 308,5 triệu con và cho ra sản lượng thịt gia cầm
đạt tới 729,4 nghìn tấn[79]. Lông chiếm tới 1-2% trọng lượng cơ thể gia cầm
do đó lượng lông vũ từ gia cầm sau giết mổ có thể là 36,5 nghìn tấn năm, còn
chưa kể các chất thải khác như ruột, phân đây là loại rác thải gây ô nhiễm
môi trường tại địa bàn có khu giết mổ gia cầm tập trung. Hiện nay, các nhà
khoa học đã có những nghiên cứu và chế biến các chất thải sau giết mổ gia
cầm để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Hiện nay, phụ phẩm sau giết mổ gia cầm đã được sử dụng để sản xuất
bột lông vũ qua quá trình xử lý vật lý và hóa học. Bột lông vũ có thành phần
chủ yếu là protein đạt 80-85%. Tuy nhiên, quá trình sản xuất bột lông vũ chỉ
tạo ra được sản phẩm có chất lượng dinh dưỡng thấp, chưa phá hủy được lớp
keratine ở lông nên giảm khả năng tiêu hóa protein. Sử dụng enzyme từ vi
khuẩn có nhiều ưu điểm hơn, giá thành thấp hơn và thân thiện với môi trường
hơn. Enzyme thủy phân lông vũ có nguồn gốc từ vi khuẩn đang là hướng
nghiên cứu rất được quan tâm. Vì thế, việc nghiên cứu enzyme creatinase từ

vi khuẩn để ứng dụng trong sản xuất, chế biến thức ăn gia súc, gia cầm có ý
7
nghĩa thực tiễn rất lớn. Chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu ảnh
hưởng của bột lông vũ thủy phân trong khẩu phần tới sức sản xuất thịt của
gà Lương Phượng nuôi tại Viện Chăn Nuôi”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được tỷ lệ thích hợp khi sử dụng chế phẩm bột lông vũ thay thế
một phần thức ăn giàu đạm (bột cá) trong khẩu phần nuôi gà thịt Lương
Phượng.
- Xác định được khả năng cho thịt của gà Lương Phượng nuôi thịt khi cho
ăn những khẩu phần bổ sung chế phẩm bột lông vũ với tỉ lệ khác nhau.
- So sánh tỉ lệ tiêu hóa protein của bột lông vũ và bột lông vũ thủy phân ở
mức thích hợp ở gà Lương Phượng giai đoạn 5-12 tuần tuổi.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả của đề tài cung cấp số liệu ban đầu về ảnh hưởng của bột lông vũ
thủy phân đến sự sinh trưởng của gà Lương Phượng nuôi thịt, làm cơ sở để
người chăn nuôi có thể tham khảo khi sử dụng sản phẩm này thay thế một số
nguyên liệu giàu đạm trong khẩu phần nuôi gà, nhằm mục đích hạ giá thành,
nâng cao hiệu quả chăn nuôi gà thịt.
- Làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu để có cơ sở và định
hướng nghiên cứu thêm về loại nguyên liệu này làm thức ăn chăn nuôi.
- Cung cấp các số liệu tham khảo để các nhà dinh dưỡng và thức ăn vật
nuôi nghiên cứu xây dựng khẩu phần khi dùng bột lông vũ bổ sung vào khẩu
phần ăn chăn nuôi.
- Sử dụng bột lông vũ thay thế một phần thức ăn giàu đạm trong chăn nuôi
không chỉ là giải pháp giải quyết thức ăn đạm, góp phần hạ giá thành sản
phẩm mà còn sử dụng một cách hữu ích lượng phế thải giết mổ đáng kể thải
ra môi trường. Vì thế đề tài còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc hạn chế ô
nhiễm môi trường.
8

PHẦN II:NỘI DUNG
Chương I:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Bột lông vũ và hướng sử dụng bột lông vũ làm thức ăn chăn nuôi
1.1.1.1. Bột lông vũ khi chưa thủy phân
Lông vũ bao bọc cơ thể gia cầm, nó chiếm 1-2% khối lượng cơ thể.
Thành phần hóa học của lông vũ gồm: 88,4% vật chất khô; 83,3% protein thô;
1,6% lipit thô; 1,2% xơ; 6,3% khoáng tổng số; 8,2% nước; 1,23% canxi; 0,6%
photpho[38]. Protein trong bột lông vũ có chứa một số axít amin không thay
thế cần thiết cho sự phát triển của gia súc, gia cầm. Đặc biệt lông vũ có lượng
protein keratin thô rất cao (80-85%) và phần lớn protein trong lông vũ không
hòa tan trong nước. Cấu trúc cơ bản bậc hai của keratin bao gồm 2 dạng α-
helix (của tóc và len) và β-sheets của lông vũ. Các sợi keratin ở cả hai dạng α-
helix và β-sheets xoắn song song với nhau để đảm bảo độ bền ổn định của sợi.
Mặc dù rất khó bị phân hủy, nhưng các chất thải keratin có thể bị phân hủy
bởi các chủng vi khuẩn, xạ khuẩn và nấm tạo ra các protease keratin –
keratinase.
Bột lông vũ có thể thay thế 15% bột cá trong khẩu phần ăn mà không có
sự tăng trưởng khác nhau và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá hồi[56].
Somseueb và Boonyaratpalin (2001) cũng báo cáo rằng có thể thay thế tối đa
5% bột cá bằng bột lông vũ trong khẩu phần ăn của cá trê lai. Chumlong và
Chutinthorn (2000)[82]đã tiến hành nghiên cứu thay thế một phần bột cá
bằng bột lông vũ lên men trong khẩu phần ăn của cá rô phi. Thí nghiệm được
tiến hành với 5 tỷ lệ bột lông vũ lên men/ bột cá khác nhau là 0/100, 25/75,
50/50 75/25 và 100/0 . Tất cả các chế độ ăn có hàm lượng protein là 30 %,
9
nuôi trong 12 tuần. Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng lên men bột lông
vũ có thể được sử dụng từ 25% đến 50% mức ăn cho cá rô phi mà không ảnh
hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.

Bột lông vũ có thể thay thế 7% bột đậu tương trong khẩu phần thức ăn
cho gia cầm đặc biệt cải thiện ở gà thịt. Versazyme là một enzyme có nguồn
gốc từ sản phẩm keratinase đang được bán trên thị trường dưới dạng bột. Sản
phẩm này đã làm tăng hiệu quả hấp thu bột lông vũ ở gà và tăng sản lượng
thịt gà. Ngoài ra sử dụng sản phẩm này có thể giảm việc sử dụng tới 10%
protein thô vào khẩu phần của gà[86].
1.1.1.2. Bột lông vũ thủy phân
Lông vũ nếu được thủy phân, tỉ lệ tiêu hóa protein có thể đạt 70-75% và
sẽ trở thành nguyên liệu thức ăn cung cấp protein có giá trị cao. Lông vũ sau
khi thuỷ phân là nguồn protein tốt, có thể thay thế bột cá trong thức ăn cho gà
thịt. Tỷ lệ bột lông vũ chưa thủy phân trong thức ăn hỗn hợp từ 2%- 4% phụ
thuộc vào tuổi của gà, tỷ lệ này không vượt quá 2% trong giai đoạn 2 tuần
tuổi đầu và khoảng 4% cho các tuần tuổi sau. Khi cho gà thịt ăn thức ăn hỗn
hợp có bột lông vũ, người ta thấy màu sắc của da vàng hơn, thịt có vị đậm đà,
không có mùi lạ của bột lông vũ.
* Nhóm vi khuẩn thủy phân keratin
Keratin là thành phần chủ yếu trong lông vũ, là protein cấu trúc sợi,
giàu liên kết disulfide, hydro và các đầu tương tác kị nước dẫn đến độ bền cơ
học cao. Theo Lin và cs (2009) [70], keratin không hòa tan trong nước và
không phân hủy bởi các enzyme phân giải protein phổ biến như trypsin,
pepsin và papain. Nhưng keratin có thể bị phân hủy bởi các vi sinh vật có khả
năng sinh keratinase cao.
Hiện nay, keratinase được thu từ nhiều nguồn khác nhau như nấm, xạ
khuẩn, vi khuẩn. Trong nhóm vi khuẩn có khả năng sinh keratinase, hoạt tính
10
keratinase cao đã được ghi nhận rộng rãi đối với các chủng từ Bacillus.
Keratinase có đặc tính sinh hóa rất đa dạng khi được thu từ các nguồn khác
nhau. Mặc dù chỉ phân lập trong phạm vi hai chủng vi khuẩn B. licheniformis
và B. subtilis nhưng cũng cho ta thấy sự đa dạng của keratinase. Đối với B.
licheniformis, theo nghiên cứu của Lin và cs (1992) [70], keratinase có khối

lượng phân tử 33 kDa, pH tối ưu đã được xác định 7,5, nhiệt độ tối ưu là 50°C
và ổn định khi bảo quản ở -20°C. Đối với chủng B. subtilis, keratinase có khối
lượng phân tử là 25,4 kDa, pH tối ưu là 7,5 và nhiệt độ tối ưu là 70°C theo
công bố của Gupta và Ramnani (2006)[63]. Nhiều nghiên cứu ghi nhận rằng
keratinase được phân lập từ chủng B. licheniformis và B. subtilis là thành viên
của nhóm protease serine điều này đã được đề cập đến trong công bố của
Brandelli (2008) [56]. Đây là nhóm enzyme thương mại, có nhiều ứng dụng
quan trọng trong các ngành công nghiệp, trong các quá trình công nghệ sinh học
liên quan đến chất thải có chứa creatine từ ngành công nghiệp gia cầm và công
nghệ da. Mặt khác keratin sau khi bị thủy phân có thể làm thức ăn chăn nuôi,
phân bón, keo, tạo ra các axit amin hiếm như serine, cystein và proline và làm
giảm ô nhiễm môi trường.
1.1.2. Đặc điểm cấu tạo bộ máy tiêu hóa của gia cầm
Gia cầm có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao hơn so với động
vật có vú. Cường độ tiêu hoá mạnh ở gia cầm được xác định bằng tốc độ di
chuyển của thức ăn qua ống tiêu hoá. Ở gà còn non, tốc độ này là 30 - 39 cm
trong 1 giờ; ở gà lớn hơn là 32 - 40cm và ở gà trưởng thành là 40 - 42cm. Chiều
dài của ống tiêu hoá gia cầm không lớn, thời gian mà khối thức ăn được giữ lại
trong đó không vượt quá 2 - 4 giờ, ngắn hơn rất nhiều so với động vật khác. Do
đó, để quá trình tiêu hoá thức ăn diễn ra thuận lợi và có hiệu quả cao, thức ăn cần
phải được chế biến phù hợp với trạng thái sinh lý và lứa tuổi của gia cẩm và
đồng thời có hàm lượng xơ ở mức thích hợp.
11
Hình 1.1: Sơ đồ hệ tiêu hoá của gà
1 - Thực quản; 2 -Diều; 3 -Dạ dày tuyến; 4 - Dạ dày cơ; 5 - Lá lách; 6 - Túi
mật; 7 - Gan; 8 - Ống mật; 9 - Tuyến tuỵ; 10 - Ruột hồi manh tràng; 1 1 -
Ruột non; 12 - Ruột thừa (manh tràng); 13 - Ruột già; 14 - Ổ nhớp
- Tiêu hoá ở miệng
Gia cầm lấy thức ăn bằng mỏ. Hình dáng và độ lớn của mỏ ở các loài gia
cầm rất khác nhau. Gà có mỏ ngắn, nhọn và cứng, hơi cong. Đường vành mỏ

trên có thêm những răng nhỏ bằng sừng dùng dể lọc nước và cắn rau, cỏ.
Trong chất sừng của mỏ có rất nhiều các đầu dây thần kinh, có chạc ba được
gọi là các tiểu thể xúc giác. Dây thần kinh còn có ở trên vòm miệng cứng và
dưới lớp sừng biểu bì của lưỡi. Lưỡi gia cầm nằm ở đáy khoang miệng, có
hình dạng và kích thước tương ứng với mỏ. Bề mặt phía trên của lưỡi có
những gai rất nhỏ hoá sừng hướng về cổ họng, có tác dụng giữ khối thức ăn
trong miệng và đẩy chúng về phía thực quản.
Các cơ quan thị giác và xúc giác kiểm tra sự tiếp nhận thức ăn. Đối với
gà và gà tây, các cơ quan vị giác và khứu giác rất kém phát triển. Khi không
đủ ánh sáng, gà và gà tây sẽ ăn kém. Gia cầm thực hiện mổ và nuốt thức ăn
nhờ các động tác nâng lên, hạ xuống linh hoạt của đầu. Gà thực hiện từ 180 -
12
240 động tác mổ trong 1 phút, gà tây 60. Số lượng thức ăn mà gia cầm ăn được
trong 1 đơn vị thời gian phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn của thức ăn, loài và tuổi
của gia cầm. Khi gia cầm đói, nó mổ nhanh và ăn nhiều. Gia cầm tiếp nhận thức
ăn lỏng và nước bằng cách nâng đầu rất nhanh rồi ngửa cổ lên để nuốt.
Việc điều khiển lượng thức ăn ở gia cầm được thực hiện bởi các trung
tâm thần kinh của vùng dưới đồi thị. Các trung tâm này bị kích thích hoặc ức
chế do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh (thành phần và tính chất của thức
ăn, tần số và thời gian cho ăn) và nội sinh (mức độ của các quá trình trao đổi
chất).Khi thức ăn đi trong khoang miệng, nó được thấm ướt nước bọt đẻ dễ
nuốt. Các tuyến nước bọt của gia cầm phát triển kém. Động tác nuốt ở gia
cầm được thực hiện nhờ chuyển động rất nhanh của lưỡi, khi đó thức ăn được
chuyển rất nhanh vào vùng trên của hầu vào thực quản. Thanh quản được
nâng lên phía trước và lên trên, lối vào thanh quản bị ép tới đáy của xương
dưới lưỡi và gốc lưỡi, ngăn không cho thức ăn rơi vào đường hô hấp. Viên
thức ăn thu nhận được ở cuống lưỡi được đẩy vào lỗ thực quản và sau đó, do
những co bóp nhu động của thành thực quản, nó được đẩy vào diều. Ở gia
cầm đói, thức ăn được đẩy thẳng vào dạ dày, không qua diều. Trong thành
thực quản có các tuyến nhầy hình ống, tiết ra chất nhầy, cũng có tác dụng làm

ướt và trơn thức ăn khi nuốt.
- Tiêu hoá ở diều
Ở gà, gà tây, gà phi và chim bồ câu, diều là một chỗ phình rộng hơn,
hình túi. Diều nằm bên phải, chỗ đi vào khoang ngực, ngay trước chạc ba nối
liền 2 xương đòn phải trái. Mặt ngoài của diều được tiếp xúc trực tiếp với cơ
da, cơ này giúp cho nó giãn nở rộng khi thức ăn rơi vào. Các lỗ dẫn vào và dẫn
ra của diều rất gần nhau và có các cơ thắt. Giữa các cơ thắt lại có ống diều - là
một phần của diều. Khi gia cầm đói, thức ăn theo ống này đi thẳng vào dạ dày,
không qua túi diều. Ở gà, diều chứa được 100 - 120g thức ăn. Thức ăn ở diều
13
được làm mềm ra, quấy trộn và được tiêu hoá từng phần bởi các men của thức ăn
và các vi khuẩn nằm trong thức ăn thực vật.
- Tiêu hoá ở dạ dày
Dạ dày gia cầm gồm dạ dày tuyến và dạ dày cơ. Thức ăn từ diều được
chuyển vào dạ dày tuyến, nó có dạng ống ngắn, vách dày, được nối với dạ dày
cơ bằng một eo nhỏ. Vách dạ dày tuyến cấu tạo gồm màng nhày, cơ và mô
liên kết. Bề mặt của màng nhầy có những nếp gấp dễ thấy, đậm và liên tục. Ở
đáy màng nhầy có những tuyến hình túi phức tạp. Khối lượng của dạ dày
tuyến ở gà vào khoảng 3,5 - 6g. Các mô có tuyến nhầy chiếm tới 51,4%.
Dịch dạ dày được tiết vào trong khoang của dạ dày tuyến, có axit
clohidric, enzim và musin. Cũng như ở động vật có vú, pepsin được tiết ra ở
dạng không hoạt động - pepsinogen và được hoạt hoá bởi axit clohidric. Các
tế bào hình ống của biểu mô màng nhầy bài tiết ra một chất nhầy đặc rất giàu
musin, chất này phủ lên bề mặt niêm mạc của dạ dày. Sự tiết dịch dạ dày ở gia
cầm là liên tục, sau khi ăn thì tốc độ tiết tăng lên.
Dịch dạ dày tinh khiết là một chất lỏng không màu hoặc hơi trắng đục, có
pH axit. Độ pH của dịch dạ dày ở gia cầm trung bình là 3,0; thường là 2,6. Độ
pH sẽ giảm xuống sau khi tiếp nhận thức ăn giàu chất kiềm, cacbonat canxi, bột
xương. Ở gà, số lượng dịch dạ dày và độ axit tăng dần lên cùng với độ tuổi. Ở gà
con vài ngày tuổi, dịch dạ dày có tính axit (pH = 4,2 - 4,4). Axit clohidric tự do

không thường xuyên được tìm thấy trong khối chứa trong dạ dày của gà con có
độ tuổi từ 1 - 5 ngày.
Kiểu cho ăn ảnh hưởng đến lượng chế tiết và hoạt tính proteolytic của
dịch dạ dày. Nếu cho ăn thức ăn tổng hợp, có thêm củ cà rốt hoặc rau xanh
nghiền nhỏ sẽ làm tăng sự chế tiết và sức tiêu hoá của dịch dạ dày ở gà con 1
- 5 ngày tuổi. Ở gà con 31 - 40 ngày, độ axit đạt mức tối đa (pH = 1,15 - 1,55)
và giữ ở mức độ đó với sự dao động không lớn trong các thời kỳ tiếp theo.
14
Hoạt tính phân giải protein (proteolytic) của dịch dạ dày ở gà con 10 - 20
ngày tuổi đạt tới mức độ cao (1,36 - 2,00mm) và sau đó bị thay đổi rất ít đến
60 ngày tuổi.
Dạ dày cơ (mề) có dạng hình đĩa, hơi bị bóp ở hai bên, nằm ở phía sau
thuỳ trái của gan và lệch về khoang bụng trái. Ở những gia cầm ăn hạt (gà, gà
tây, gà phi), dạ dày cơ lớn hơn một cách đáng kể so với ở thuỷ cầm. Lối vào
và lối ra ở dạ dày cơ rất gần nhau, nhờ vậy, thức ăn được giữ lại tại đây lâu
hơn, chúng sẽ bị nghiền nát bằng cơ học, trộn lẫn với men và được tiêu hoá
dưới tác dụng của các dịch dạ dày cũng như enzim và chất tiết của vi khuẩn.
Dịch tiêu hoá không được tiết ra ở dạ dày cơ. Niêm mạc của mề rất dày và
được cấu tạo từ hai lớp: biểu bì cùng với lớp màng bằng sừng và một lớp
nhầy đặc chắc từ mô liên kết. Trong việc tạo thành màng sừng có các tuyến
của màng nhầy, biểu bì của những chỗ trũng ở dạ dày tham gia. Màng sừng
của mề luôn bị mòn đi, nhưng nhờ sự dày lên ở đáy nên chiều dày của nó
được ổn định. Ngoài ý nghĩa cơ học, màng sừng còn giữ cho vách dạ dày khỏi
bị tác động của những yếu tố bất lợi. Màng sừng bền với pepsin, không bị hoà
tan trong các axit loãng, kiềm và các dung môi hữu cơ (Ju, T. T echver, 1984).
Các sản phẩm tiêu hoá, thức ăn, vi khuẩn không được hấp thu qua màng sừng,
vách dạ dày. Chất lượng của màng sừng phụ thuộc vào kiểu cho ăn. Nếu
trong thời gian dài chỉ cho gà ăn thức ăn ướt, thì màng sừng bị mềm đi và
biến mất. Lớp cơ của mề cấu tạo từ mô cơ phẳng, một đôi cơ lớn chính có
dạng hình tam giác hướng các đáy lại với nhau đã tạo nên khối cơ của vách

mề. Sự co bóp nhịp nhàng của mề xảy ra trong 2 pha: trong pha đầu, 2 cơ
chính co bóp; và sau đó là các cơ trung gian (pha thứ 2). Thời gian của mỗi
nhịp co của 2 đôi cơ ở gà trong khoảng 2 - 3 giây, còn cả chu kỳ co bóp là 20
giây. Tần số co bóp phụ thuộc vào độ rắn của thức ăn. Khi ăn thức ăn ướt có 2
lần co bóp, còn thức ăn cứng - 3 lần trong 1 phút. Tần số co bóp của mề trung
15
bình ở gà là: khi đói 2,6; sau khi cho ăn 2,9; một giờ sau khi ăn 2,3 lần/phút.
Sỏi và các dị vật chứa trong dạ dày có một ý nghĩa nhất định trong việc
nghiền và làm sạch những tiểu thể thức ăn trong khoang dạ dày. Chúng làm
tăng tác dụng nghiền của vách dạ dày.
Đối với gia cầm, sỏi tốt nhất là từ thạch anh, chúng bền với axit
clohidric của dịch dạ dày. Để hệ tiêu hoá hoạt động bình thường thì kích
thước của các viên sỏi với gà con mới nở nên nhỏ (đường kính 2,5 - 3mm) và
tăng lên theo tuổi. Gia cầm đã trưởng thành có thể nuốt được loại sỏi có
đường kính đến10 mm. Không nên thay sỏi bằng cát, đá vôi, thạch cao, vỏ sò,
vỏ ốc hến, phấn. Cát sẽ đi rất nhanh từ dạ dày vào ruột và gây kích thích.
Những chất khác đã kể trên sẽ bị axit clohidric hoà tan và gây rối loạn tiêu
hoá ở dạ dày, sau đó là ở ruột. Nếu không có sỏi trong dạ dày cơ thì sự hấp
thu các chất dinh dưỡng và hệ số tiêu hoá thức ăn bị giảm xuống. Ở gia cầm
non, việc thiếu sỏi trong dạ dày làm giảm khối lượng tuyệt đối của dạ dày 30 -
35%. Các cơ của dạ dày sẽ trở nên nhũn và xuất hiện những vết loét trên
màng nhầy.
Trong dạ dày cơ, ngoài việc nghiền thức ăn cơ học, còn xảy ra quá trình
hoạt động của các men. Dưới tác động của axit clohidric, các phân tử protein
trở nên căng phồng và dễ bị phân giải.
- Tiêu hoá ở ruột
Quá trình tiêu hoá các chất dinh dưỡng đều xảy ra ở ruột non gia cầm.
Nguồn các men tiêu hoá quan trọng nhất là từ dịch dạ dày, cùng với mật đi
vào manh tràng, chất tiết của các tuyến ruột có ý nghĩa kém hơn.
Dịch ruột gà là một chất lỏng đục, có phản ứng kiềm yếu (pH - 7,42) với

tỷ trọng 1,0076. Trong thành phần dịch ruột có các men proteolytic,
aminolytic và lypolytic và cả men enterokinaza.
16
Dịch tụy là một chất lỏng không màu, hơi mặn, có phản ứng hơi toan
hoặc hơi kiềm (pH 7,2 - 7,5). Trong chất khô của dịch, ngoài các men, còn có
các axiTamin, lipit và các chất khoáng (NaCl, CaCl 2, NaHCO
3
). Dịch tuỵ
của gia cầm trưởng thành có chứa các men tripsin, cacbosipeptidaza, amilaza,
mantaza, invertaza và lipaza. Tripsin được bài tiết ra ở dạng chưa hoạt hoá là
tripsinogen, dưới tác động của men dịch ruột enterokinaza, nó được hoạt hoá,
phân giải các protein phức tạp ra các axít amin. Men proteolytic khác là các
cacbosipeptidaza được tripsin hoạt hoá cũng có tính chất này. Các men
amilaza và mantaza phân giải các polysacarit đến các monosacarit như
glucoza, Lipaza được dịch mật hoạt hoá, phân giải lipit thành glyserin và axit
béo. Cơ chế việc chế tiết tuyến tuỵ ở gia cầm giống với động vật có vú. Ở gà
10 - 12 tháng tuổi, trước khi cho ăn, tuyến tiết ra một lượng dịch nhỏ: 0,4 -
0,8ml/giờ (sự chế tiết bình thường). Từ 5 - 10 phút sau khi cho ăn, mức độ
chế tiết tăng 3 - 4 lần và giữ đến giờ thứ ba, sau đó việc tiết dịch dần dần giảm
xuống, đến giờ thứ 9 - 10 sau khi cho ăn thì bằng mức độ ban đầu.
Số lượng dịch và hoạt tính men thay đổi phụ thuộc vào thể tích và
thành phần thức ăn. Thức ăn giàu protein sẽ nâng hoạt tính proteolytic của
dịch lên đến 60%; thức ăn giàu lipit sẽ làm tăng cường hoạt tính lypolytic,
hoạt tính này được giữ ở mức độ cao đến 10 giờ. Bột đậu tương có chứa nhiều
protein và dầu sẽ nâng mức độ chế tiết của tuyến lên 85% và đồng thời cũng
nâng cả hoạt tính proteolytic và hoạt tính lypolytic của dịch lên tương ứng
đến 20% và 16%.
Mật được gan tiết ra không ngừng, một phần đi vào túi mật (gà, vịt,
ngỗng), phần còn lại thì đổ trực tiếp và tá tràng. Ở chim bồ câu, gà phi và đà
điểu không có túi mật, tất cả mật tiết ra đều đổ thẳng vào tá tràng. Mật gia

cầm là một chất lỏng màu sáng hoặc xanh đậm, kiềm tính (pH 7,3 - 8,5). Dịch
trong túi mật đậm đặc hơn và có màu đậm hơn. Về thành phần mật, ở các loài
17
gia cầm khác nhau không giống nhau. Lượng chất khô chứa trong mật gan ở
gà là 3 - 4%, còn trong túi mật 7,9; độ đặc là 1,01 - 1,04. Các thành phần điển
hình của mật là các axit mật, sắc tố, và cholesterin, ngoài ra còn có gluxit, các
axit béo và các lipit trung tính, musin, các chất khoáng và các sản phẩm trao
đổi chất có chứa nitơ. Ngoài sự tham gia vào quá trình tiêu hoá ở ruột, gan
còn đóng vai trò quan trọng trong trao đổi protein, gluxit, lipit và khoáng.
Trong gan, các axit uric, các chất cặn bã khác, hồng cầu chết bị phân huỷ,
chất độc hại được trung hoà và thải vào nước tiểu. Trong các tế bào của gan
có chứa glycogen, là nguyên liệu để tạo nên các vitamin quan trọng (A, D, và
các vitamin khác).
Các men trong ruột hoạt động trong môi trường axit yếu, kiềm yếu; pH
dao động trong những phần khác nhau của ruột. Trong tá tràng, dưới tác động
của axit clohidric và các men của dịch dạ dày (pepsin và chimosin), protein bị
phân giải đến pepton và polypetit. Các men proteolytic của dịch tuỵ tiếp tục
phân giải chúng đến các axiTamin trong hồi tràng; gluxit của thức ăn được
phân giải đến các monosacarit, do tác động của amilaza của dịch tuỵ và một
phần do amilaza của mật và của dịch ruột; Sự phân giải lipit được bắt đầu
trong tá tràng, dưới tác động của dịch mật, dịch tuỵ và tạo ra các sản phẩm là
monoglyserit, glyserin và axit béo.
Các quá trình tiêu hoá và hấp thu ở ruột non xảy ra đặc biệt tích cực. Sự
phân giải các chất dinh dưỡng không chỉ có trong khoang ruột (tiêu hoá ở
khoang), mà cả ở trên bề mặt các lông mao của các tế bào biểu bì (sự tiêu hoá
ở màng). Tiêu hoá ở khoang là sự thuỷ phân thức ăn, còn tiêu hoá ở màng là
các giai đoạn tiếp theo, tạo ra các sản phẩm cuối cùng của sự tiêu hoá để hấp
thu. Các cấu trúc phân tử và trên phân tử của thức ăn có kích thước lớn được
phân giải dưới tác động của các men trong khoang ruột, tạo ra các sản phẩm
trung gian nhỏ hơn, chúng đi vào vùng có nhiều nhung mao của các tế bào

18
biểu mô. Ở đó, trên các nhung mao có các men tiêu hoá, tại đây diễn ra giai
đoạn cuối cùng của sự thuỷ phân để tạo ra sản phẩm cuối cùng như axiTamin,
monosacarit chuẩn bị cho việc hấp thu. Quan hệ qua lại của quá trình tiêu hoá
ở khoang, ở màng và vai trò của tiêu hoá màng ruột của gia càm hiện nay còn
chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Sự tiêu hoá trong manh tràng của gia cầm nhờ có các men đã đi vào
cùng với chymus từ phần ruột non và từ hệ vi khuẩn. Các vi sinh vật bắt đầu
thâm nhập vào manh tràng gia cầm non ngay từ lần tiếp nhận thức ăn đầu tiên.
Ở đây, các vi khuẩn sinh sản rất nhanh. Trong manh tràng cũng sảy ra quá
trình tiêu hoá protein, gluxit và lipit. Ngoài ra, các vi khuẩn còn tổng hợp các
vitamin nhóm B.
Khả năng tiêu hoá chất xơ của gia cầm rất hạn chế. Cũng như ở động vật
có vú, các tuyến tiêu hoá của gia cầm không tiết ra một men đặc hiệu nào để
tiêu hoá xơ. Một lượng nhỏ chất xơ được phân giải trong manh tràng bằng các
men do vi khuẩn tiết ra. Những loài gia cầm có manh tràng phát triển hơn như
đà điểu, ngan, ngỗng thì các chất xơ được tiêu hoá nhiều hơn. Ở các loại gia
cầm khác nhau thì chỉ có có trung bình từ 10 - 30% cất xơ được phân giải.
- Sự hấp thu
Ở gia cầm, các quá trình hấp thu chủ yếu xảy ra ở ruột non. Ở đây các
sản phẩm phân giải cuối cùng protein, lipit và gluxit; nước, các chất khoáng,
các vitamin được hấp thu.
Các chất chứa nitơ chủ yếu được hấp thu dưới dạng các axít amin.
Cường độ hấp thu các axít amin riêng biệt không phụ thuộc vào khối lượng
phân tử của chúng. Ở gà thấy có sự hấp thu một cách cạnh tranh giữa một số
axít amin. Việc hấp thu metionin sẽ bị ngừng lại một chút khi có mặt
phenilalanin. Gluxit được hấp thu dưới dạng các đường đơn (monosacarit) và
đường đôi (disacarit). Khả năng hấp thu đường ở gà được phát triển trong 14
ngày tuổi. Glucoza và galactoza được hấp thu nhanh hơn một cách đáng kể so
với fructoza và mantoza.

19
Hấp thu mỡ trong ruột, dưới tác động của men lipaza, mỡ được phân
giải đến glyserin và axit béo. Các sản phẩm của sự phân giải mỡ, về cơ bản
được hấp thu trong phần mỏng của ruột. Glyserin được hoà tan rất tốt trong
nước và được hấp thu rất nhanh. Các axit béo kết hợp với các axit mật, kali và
natri tạo thành các hợp chất hoà tan được trong nước sau đó mới được hấp
thu. Người ta cho rằng một phần nhỏ của lipit dưới dạng các nhũ tương có thể
được hấp thu trực tiếp.
Trong tương bào của biểu mô ruột, các axit béo bị tách ra khỏi các axit
mật và một phần được tái tổng hợp thành các phân tử của lipit. Các axit béo
được giải phóng ra trong quá trình hấp thu kích thích sự hấp thu lẫn nhau,
chẳng hạn, khi có các axit béo không bão hoà thì vận tốc hấp thu các axit béo
bão hoà như palmitinic và stearinic được tăng lên trong ruột non gà con. Hiệu
quả của việc bổ sung lipit vào khẩu phần của gà con phụ thuộc vào tỷ lệ giữa
các axit béo bão hoà và không bão hoà trong khẩu phần.
Hấp thu nước ở gia cầm được thực hiện trong tất cả các phần ruột non
và ruột già. Có từ 30 - 50% nước được hấp thu, quá trình này phụ thuộc áp
suất thẩm thấu trong ruột, trong máu và các mô. Người ta đã xác định được
rằng trong một số trường hợp, ở gia cầm có sự tuần hoàn nước, một phần
nước đã được hấp thu từ ruột vào máu rồi lại bị bài tiết trở lại vào diều, làm
nó căng phồng lên.
Các chất khoáng được hấp thu trên toàn bộ chiều dài ruột non. Diều, dạ
dày và ruột già hấp thu các chất khoáng không đáng kể. Các muối natri, kali
clorua hoà tan được trong chymus, được hấp thu một cách chọn lọc và với tốc
độ khác nhau, phụ thuộc vào nhu cầu về các chất đó của cơ thể. Natri clorua
đặc biệt dễ được hấp thu trong ruột gà con, vịt con và gà tây con. Khi cho ăn
thừa, muối này sẽ sinh ra sự rối loạn trao đổi chất, gà sẽ bị nhiễm độc muối.
20
Cường độ hấp thu canxi phụ thuộc vào nồng độ canxi trong máu, tính
chất của khoáng trong thức ăn cũng như hàm lượng dịch mật và vitamin D3

trong ruột. Khi gà bị bệnh còi xương thì sự hấp thụ canxi bị giảm xuống đột
ngột. Canxi còn bị hấp thu ít hơn khi không có đủ vitamin D trong khẩu phần.
Muối canxi clorua được hấp thu tốt hơn so với các muối canxi khác. Lượng
photpho quá cao trong khẩu phần sẽ làm ngừng việc hấp thu canxi. Tuổi và
trạng thái sinh lý của gia cầm cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi. Người ta
nhận thấy rằng, ở gà con 4 tháng tuổi chỉ có 25% canxi được hấp thu, còn ở
gà đẻ trứng từ 6 - 12 tháng tuổi là 50 - 60%. Trong thời gian thay lông ở gà 14
tháng tuổi, có 32% canxi được hấp thu.
Sự hấp thu photpho phụ thuộc vào sự tương quan của nó với canxi và
được xác định bởi nhu cầu trong cơ thể gia cầm.
Vitamin A được hấp thu ở manh tràng. Gia cầm non hấp thu vitamin A
nhanh hơn nhiều so với gia cầm trưởng thành: sau 1 - 1,5 giờ sau khi cho ăn
đã tìm thấy vitamin này trong máu, còn ở gà mái đẻ chỉ thấy sau khi ăn 12
giờ. Trong ruột gia cầm, vitamin A được tìm thấy trong biểu mô của màng
nhầy, ở dạng este. Sự hấp thu carotin xảy ra sau khi chúng vừa giải phóng
khỏi các hợp chất béo và việc hoà tan chúng trong chymus. Các axít mật gây
kích thích hấp thụ huyền dịch - carotin. Việc hấp thu carotin bị giảm xuống
khi cơ thể được cung cấp vitamin A. Cường độ hấp thu vitamin B1 phụ thuộc
vào nhu cầu của cơ thể và vào nồng độ của nó có trong thức ăn. Sự hấp thu
xảy ra tốt hơn ở những phần bên trên của ruột non. Việc bổ sung các chất
kháng sinh vào thức ăn làm tăng cường sự hấp thu tiamin ở gà con. Vitamin E
ở gà con được hấp thu với sự tham gia của dịch mật.
1.1.3. Đặc điểm của gà Lương Phượng
* Nguồn gốc
Theo tác giả Nguyễn Duy Hoan và cs, (1999)[10], cho biết: Gà Lương
Phượng là giống gà kiêm dụng lông màu có xuất xứ từ vùng ven sông Lương
Phượng, do xí nghiệp nuôi gà thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung
21
Quốc) lai tạo thành công sau hơn chục năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống
địa phương và dòng mái nhập ngoại từ nước ngoài như gà Kabir, Discan Gà

Lương Phượng đã được giám định kỹ thuật của Ủy ban Khoa học thành phố Nam
Ninh. Gà Lương Phượng được nhập vào nước ta trong những năm gần đây. Gà
Lương Phượng dễ nuôi, tính thích nghi cao, chịu đựng tốt với điều kiện khí hậu
nóng ẩm và nhất là thịt thơm ngon nên được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.
* Đặc điểm và chỉ tiêu năng suất
- Đặc điểm
Đặc điểm ngoại hình của gà Lương Phượng rất giống với gà địa
phương: mào, yếm, mặt, tích, tai đều màu đỏ. Con mái lông vàng nhạt, điểm
các đốm đen ở cổ, cánh. Con trống lông sặc sỡ nhiều màu, sắc tía ở cổ, nâu
cánh dán ở lưng, nâu xanh đen ở đuôi. Da, mỏ, chân màu vàng. Mào, yếm,
tích, tai phát triển, mào đỏ tươi, mào đơn. Ức sâu nhiều thịt. Gà Lương
Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu đựng tốt với khí hậu nóng ẩm,
đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể nuôi nhốt (kiểu nuôi công
nghiệp), bán công nghiệp (vừa nhốt, vừa thả) hoặc nuôi thả vườn, ngoài đồng,
trên đồi.
- Chỉ tiêu năng suất
Khối lượng gà Lương Phượng nuôi thịt ở vụ xuân ở giai đoạn 70 ngày tuổi
con trống đạt 2104,23g, con mái đạt 1619,83g, tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng
khối lượng ở con trống là 2,48kg và con mái là 2,65kg, tỷ lệ nuôi sống đạt
97,84%. Khối lượng gà thịt Lương Phượng nuôi vụ hè ở giai đoạn 70 ngày tuổi
con trống đạt 1908,87g, con mái đạt 1632,27g, tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng
khối lượng ở con trống là 2,61kg và con mái 2,71kg, tỷ lệ nuôi sống đạt 99,16%
ở con trống, 97,56% ở con mái.
Theo tác giả Đào Văn Khanh (2002)[15], thì màu sắc của gà thịt giống
Lương Phượng như sau: Con trống có màu đỏ, mút của lông đuôi, lông cánh
và lông cổ có màu đen. Con mái có màu sắc phong phú với nhiều loại màu
22
như: Nâu thẫm có đốm đen, nâu nhạt, vàng đen, màu lá chuối khô, điểm mút
của lông đuôi có mùa đen. Mỏ và chân vàng hoặc nâu xám.
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc đánh giá các chỉ tiêu nghiên cứu

1.1.4.1. Chỉ tiêu về đặc điểm ngoại hình
Ngoại hình là hình dáng bên ngoài của vật nuôi. Các đặc điểm về ngoại
hình của gà là đặc trưng cho giống, phản ánh tình trạng sức khỏe, thể hiện
khuynh hướng, khả năng sản xuất và giá trị kinh tế của vật nuôi. Ngoại hình
gà bao gồm các đặc điểm về vóc dáng, cơ thể, màu sắc da, lông, hình dạng và
màu sắc của mào, mỏ, chân
+ Mào: Mào gà đa dạng về hình dáng, kích thước, màu sắc đặc trưng
cho từng giống gà, theo tác giả Phan Cự Nhân (1971)[30] khi có mặt gen Ab
gà sẽ có mào dạng hoa hồng, gen aB sẽ có dạng mào nụ và gen ab có dạng
mào cờ: mào cờ (gà ri, gà mía), mào hoa hồng (gà Hồ, gà Đông Tảo), mào
trái dâu (gà chọi), mào hạt đậu (gà chọi) . Dựa vào hình dáng của mào ta có
thể biết được tình trạng sức khỏe và điều kiện sống của chúng.
+ Mỏ: Mỏ gà có nguồn gốc vẩy sừng, ngắn, cứng, chắc. Mỏ trên của gà
thường cong và dài hơn mỏ dưới. Mỏ có màu vàng, đỏ, trắng hay đen, nhưng
cũng có mỏ màu nâu, đỏ tươi và xanh lục. Gà có mỏ dài và mảnh thì khả năng
sản xuất không cao.
+ Bộ lông: Lông là dẫn xuất của da. Người ta phân biệt các loại lông
theo cấu trúc và chức năng của chúng: lông ống, lông nệm (lông bông), lông
chỉ, lông chổi và lông tơ. Lông thể hiện các đặc điểm di truyền của giống và
có ý nghĩa quan trọng trong việc phân loại, ngoài ra còn giúp phân biệt giới
tính. Bộ lông gà nói riêng hay gia cầm nói chung rất đa dạng về màu sắc và
kiểu lông. Màu sắc lông gà gắn chặt với sự có mặt của sắc tố melanin và
lipocrom. Ở trong lông, sắc tố có hình hạt hay hình gậy. Tiền sắc tố melanin
là melanogen. Sự ôxi hóa melanogen ở mật độ khác nhau sẽ cho ra các màu
lông khác nhau: vàng đất, vàng rỉ sắt, hung rỉ sắt, nâu, đen. Nếu không có
23
sắc tố thì lông trắng, đó là gà bạch tạng thường thấy ở các giống gia cầm
siêu thịt. Các giống gà bản địa nguyên thủy có màu lông pha tạp, gà hiện đại
có bộ lông đặc trưng thuần nhất. Đó là đặc tính quan trọng được sử dụng
trong công tác chọn giống. Ngày nay gà siêu thịt có lông màu trắng, gà đẻ

trứng thương phẩm thường có lông màu nâu. Phân biệt trống, mái: gà
Hyline, Goldline trống thương phẩm màu trắng, mái màu nâu. Bình thường
gia cầm thay lông theo mùa. Khi thay lông gia cầm không sinh sản, trạng
thái sinh lý không ổn định, khả năng chống bệnh tật giảm sút. Sự thay lông
đầu tiên lúc còn nhỏ ở gà và gà tây ở cuối năm tuổi thứ nhất. Gà mọc lông
cánh sớm, ngay ở lúc sau hai tuần tuổi chúng đã có thể sử dụng cánh để bay
nhẩy. Ở gà cao sản đã không còn thay lông theo mùa.
+ Chân: Những gà giống tốt phải có chân chắc chắn nhưng không được
thô. Gà có chân hình chữ bát, các ngón cong, chân khuyết tật không nên sử
dụng làm giống. Chân gà thường có bốn ngón, cá biệt có giống có năm ngón
(gà Ác), chân gà có vẩy sừng bao bọc, phần cơ tiêu giảm chỉ còn gân và da:
da chân có thể màu vàng, trắng, đen (gà Ác) hay đỏ (gà Chọi). Bàn chân và
ngón chân được bao bọc một lớp vẩy sừng có màu sắc tương tự như mỏ. Gà
có đặc điểm chân cao thì khả năng cho thịt thấp và khả năng phát dục chậm,
gà mái có khả năng đẻ tốt thì chân thấp. Móng phát triển từ phần cuối cùng
của ngón, gồm các tế bào biểu bì. Cựa có ở gà trống, là dấu hiệu sinh dục thứ
cấp. Khi gà trống non cựa ngắn và tù, khi gà trống già cựa dài, sắc và cứng.
Cựa có vai trò trong khi cạnh tranh và đấu tranh sinh tồn của loài.
+ Da: Da của gia cầm thường mỏng và dễ tách khỏi cơ thể, đó là điểm
khác hơn so với gia súc. Da của gia cầm không có tuyến mồ hôi và tuyến mỡ,
chỉ có ở đuôi có tuyến mỡ, tuyến này có mùi vị đặc biệt, gia cầm dùng mỏ hút
lấy tuyến mỡ này bôi lên lông mình để bảo vệ thân thể khỏi bị ướt. Trạng thái
da của cơ thể có liên quan đến sinh sản và sức khỏe của gà. Gà khỏe mạnh da
của nó mềm và đàn hồi, ở gà bệnh da thường xấu thô và cứng [30].
24
1.1.4.2. Kích thước, khối lượng cơ thể và tốc độ mọc lông
* Kích thước cơ thể
Kích thước cơ thể là một chỉ tiêu quan trọng cho sự sinh trưởng, tương
ứng với từng giai đoạn sinh trưởng, từng giống, qua đó góp phần vào phân biệt
giống, dòng. Giới hạn kích thước của loài, của cá thể do tính di truyền quy

định, kiểu gen của mỗi cá thể. Tính di truyền của kích thước không tuân theo
sự phân ly đơn giản của các quy luật Mendel [14].
Kích thước cơ thể luôn có mối tương quan với khối lượng cơ thể. Qua
đó có thể đánh giá sự sinh trưởng và áp dụng cho chọn giống. Kích thước cơ
thể còn liên quan đến các chỉ tiêu sinh sản như giai đoạn thành thục thể vóc để
chuyển chế độ nuôi dưỡng, chế độ sử dụng (thịt, trứng), liên quan đến các chỉ
tiêu về chất lượng trứng.
Kích thước cơ thể được xác định qua các chiều đo: vòng ngực, dài thân,
dài cánh, dài lườn, dài đùi, vòng cổ chân. Gia cầm hướng thịt có số đo kích
thước các chiều phát triển hơn gia cầm hướng trứng. Thông qua kích thước cơ
thể, giai đoạn sinh trưởng, đặc điểm sinh học của giống, nhu cầu sinh trưởng từ
đó xây dựng chế độ ăn, thiết kế chuồng trại, tạo môi trường tối ưu cho giai đoạn
sinh trưởng phát triển của gà.
* Khối lượng cơ thể
Mức độ tăng khối lượng cơ thể là một chỉ số được sử dụng phổ biến để
đánh giá về khả năng sinh trưởng. Khối lượng cơ thể là chỉ tiêu đánh giá khả
năng tích lũy của cơ thể được xác định bằng cân trực tiếp. Đơn vị tính là
g/con hay kg/con. Khối lượng cơ thể theo dõi qua từng tuần tuổi kể từ lúc gia
cầm mới nở cho đến khi kết thúc quá trình nghiên cứu. Dựa vào các số liệu
thu thập được, người ta lập đồ thị khối lượng cơ thể còn gọi là đồ thị sinh
trưởng tích lũy.
25

×