Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC TUỔI DẬY THÌ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THCS TỐ NHƯ VÀ TRẦN MAI NINH, TỈNH THANH HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 95 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của tôi.
Các kết quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả
Ngô Thị Tươi
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em muốn nói với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc,
em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Mai Văn Hưng, người thầy trực tiếp
hướng dẫn khoa học đã nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ trong suốt thời gian thực hiện
luận văn, mặc dù rất bận rộn trong công việc nhưng thầy vẫn giành rất nhiều thời
gian và tâm huyết trong việc hướng dẫn em.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong bộ môn PPDH Khoa Sinh học toàn
thể các thầy cô giáo của Khoa Sinh học, Phòng Sau đại học – Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội, các thầy cô giáo tham gia quản lý, giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ
em trong quá trình học tập và nghiên cứu ở Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể các thầy cô giáo bộ môn Sinh học và
các em HS Trường THCS Tố Như và Trần Mai Ninh góp phần tham gia trong việc
thực nghiệm sư phạm và nhiệt tình cung cấp số liệu, đóng góp ý kiến cho tôi trong
việc thực hiện luận văn.
Cản ơn các anh chị em, các bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, khích lệ,
giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và thành công.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2014
Tác giả
Ngô Thị Tươi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BMI: Chỉ số khối cơ thể
cs: Cộng sự
HSSH: Hằng số sinh học
THCS: Trung học cơ sở
VCTPC: Vòng cánh tay phải co


VNHVHS: Vòng ngực hít vào hết sức
VNTRHS: Vòng ngực thở ra hết sức
WHO: Tổ cức y tế thế giới
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 3
BMI: CHỈ SỐ KHỐI CƠ THỂ 3
CS: CỘNG SỰ 3
HSSH: HẰNG SỐ SINH HỌC 3
THCS: TRUNG HỌC CƠ SỞ 3
VCTPC: VÒNG CÁNH TAY PHẢI CO 3
VNHVHS: VÒNG NGỰC HÍT VÀO HẾT SỨC 3
VNTRHS: VÒNG NGỰC THỞ RA HẾT SỨC 3
WHO: TỔ CỨC Y TẾ THẾ GIỚI 3
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÌNH THÁI, THỂ LỰC 5
1.1.1.Cơ sở lí luận về hình thái, thể lực 5
1.1.2.Lịch sử nghiên cứu hình thái, thể lực 8
1.1.2.1.Các nghiên cứu trên thế giới 8
1.1.2.2.Các nghiên cứu ở Việt Nam 11
1.2.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẢN XẠ CẢM GIÁC VẬN ĐỘNG 14
1.2.1.Cơ sở lí luận về phản xạ và lịch sử nghiên cứu trên thế giới 14
1.2.2.Lịch sử nghiên cứu về phản xạ ở Việt Nam 16
1.3.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỆNH CẬN THỊ HỌC ĐƯỜNG 17
CHƯƠNG II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 19
2.1.1.Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 19
2.1.2.Phân bố đối tượng nghiên cứu 19

2.2.ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 19
2.2.1.Địa điểm nghiên cứu 19
2.2.1.1.Khu vực nông thôn 19
2.2.1.2.Khu vực thành thị 20
2.2.2.Thời gian nghiên cứu: 20
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 20
2.3.1.Các chỉ số được nghiên cứu: 20
2.3.2.Phương pháp nghiên cứu các chỉ số 20
2.3.2.1.Chỉ số hình thái 20
2.3.2.2.Các chỉ số phản xạ 22
2.3.2.3.Các chỉ số thị lực 23
2.4.XỬ LÍ SỐ LIỆU 24
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25
3.1.ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI CƠ THỂ HỌC SINH 25
3.2.Các chỉ số đo kích thước hình thái cơ thể của học sinh 25
3.3.Chiều cao đứng 25
3.4.Cân nặng 31
3.5.Vòng ngực hít vào hết sức (VNHVHS) 36
3.6.Vòng ngực thở ra hết sức (VNTRHS) 40
3.7.Vòng bụng 43
3.8.Vòng mông 47
3.9.Vòng cánh tay phải co 51
3.10.Chỉ số đo vòng đùi 57
3.11.Các chỉ số đánh giá thể trạng và thể lực của học sinh 60
3.12. BMI 60
3.13.Chỉ số QVC 62
3.14.MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÂN TÍCH QUAN THỊ GIÁC VÀ THÍNH GIÁC CỦA HỌC SINH THCS 63
3.15.Các tật về thị giác 63
3.16.Thời gian phản xạ cảm giác - vận động 67
3.17.Thời gian phản xạ thị giác – vận động: 67

3.18.Thời gian phản xạ thính giác – vận động 72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
BẢNG 1. PHÂN BỐ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3
BẢNG 2.1. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT PHÂN BỐ THEO TUỔI, GIỚI TÍNH VÀ KHU VỰC 19
BẢNG 2.2. PHÂN LOẠI THEO CHỈ SỐ QVC 21
BẢNG 2.3. PHÂN LOẠI THEO CHỈ SỐ BMI 22
BẢNG 2.4. PHÂN LOẠI MỨC ĐỘ CẬN THỊ 23
BẢNG 2.5. PHÂN LOẠI ĐỘ CẬN THEO THỊ LỰC 23
BẢNG 3.1. CHIỀU CAO ĐỨNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 25
BẢNG 3.2. CHIỀU CAO ĐỨNG CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 28
BẢNG 3.3. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CHIỀU CAO ĐỨNG CỦA HỌC SINH 31
BẢNG 3.4. CÂN NẶNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 32
BẢNG 3.5. CÂN NẶNG CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 33
BẢNG 3.7. VNHVHS CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 37
BẢNG 3.8. VNHVHS CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 39
BẢNG 3.9. VNTRHS THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 40
BẢNG 3.10. VNTRHS CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 43
BẢNG 3.11. VÒNG BỤNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 44
BẢNG 3.12. VÒNG BỤNG CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 46
BẢNG 3.13. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ VÒNG BỤNG CỦA HỌC SINH 47
BẢNG 3.14. VÒNG MÔNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 48
BẢNG 3.15. VÒNG MÔNG CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 49
BẢNG 3.16. VCTPC CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 52
BẢNG 3.17. VCTPC CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU: 53
BẢNG 3.18. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ VCTPC CỦA HỌC SINH 55
BẢNG 3.19. VÒNG ĐÙI CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 57
BẢNG 3.20. VÒNG ĐÙI CỦA HỌC SINH THCS TRONG NGHIÊN CỨU 58
BẢNG 3.21. BMI CỦA HỌC SINH THEO TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 60

BẢNG 3.22. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ BMI CỦA HỌC SINH 61
BẢNG 3.23. CHỈ SỐ QVC CỦA HỌC SINH THEO TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 62
BẢNG 3.24. TÌNH TRẠNG CẬN THỊ CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG 64
BẢNG 3.25. THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG 67
BẢNG 3.26. THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG 72
BẢNG 3.27. SO SÁNH THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG VÀ THỜI GIAN 78
PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH 78
BẢNG 3.28. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC
SINH 79
BẢNG 3.29. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG 80
CỦA HỌC SINH 80
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
HÌNH 3.1. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN CHIỀU CAO ĐỨNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH
29
HÌNH 3.2. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN CÂN NẶNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 35
HÌNH 3.3. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN VNHVHS CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 39
HÌNH 3.4. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN VNTRHS CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 43
HÌNH 3.5. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN VÒNG BỤNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 46
HÌNH 3.6. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN VÒNG MÔNG CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 51
HÌNH 3.7. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN VCTPC CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 55
HÌNH 3.8. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN VÒNG ĐÙI CỦA HỌC SINH THEO KHU VỰC, TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 60
HÌNH 3.9. ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN CHỈ SỐ QVC THEO TUỔI VÀ GIỚI TÍNH 63
HÌNH 3.10. BIỂU ĐỒ BỂU DIỄN TỈ LỆ CẬN THỊ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TỐ NHƯ 65
HÌNH 3.11. BIỂU ĐỒ BIỂU DIỄN TỈ LỆ CẬN THỊ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRẦN MAI NINH 66
HÌNH 3.12. TỈ LỆ CẬN THỊ HỌC SINH HAI TRƯỜNG 66
HÌNH 3.13. MỨC GIẢM CỦA THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG THEO TUỔI 69
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TỐ NHƯ 69
HÌNH 3.14. THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TỐ NHƯ 69
HÌNH 3.15. MỨC GIẢM THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG 70
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRẦN MAI NINH 70

HÌNH 3.16. THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRẦN MAI NINH.
71
HÌNH 3.17. SO SÁNH THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG 71
HÌNH 3.18. MỨC GIẢM THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG 74
THEO TUỔI CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TỐ NHƯ 74
HÌNH 3.19. THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TỐ NHƯ 75
HÌNH 3.20. THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRẦN MAI NINH 75
HÌNH 3.21. THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRẦN MAI NINH 76
HÌNH 3.22. SO SÁNH THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG
77
HÌNH 3.23. SO SÁNH THỜI GIAN PHẢN XẠ THỊ GIÁC – VẬN ĐỘNG VÀ THỜI GIAN PHẢN XẠ THÍNH
GIÁC – VẬN ĐỘNG CỦA HỌC SINH 78
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đến năm 2020, chiều cao trung bình của thanh niên sẽ từ 165cm, tăng thêm
4cm so với hiện nay, còn tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi phải ít hơn 5%
(hiện nay: 17,5%) và tuổi thọ trung bình là 75 (hiện nay: 73). Đó là những chỉ số
cơ bản đặt ra trong chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19 tháng 4 năm 2011 [1].
Như vậy, chiến lược nâng cao chiều cao trong vòng 9 năm lên 4 cm có thể coi
là một mục tiêu rất to lớn và không dễ thực hiện. Một nghiên cứu của Viện dinh
dưỡng (2010) trên những người 16 - 60 tuổi cho thấy trong 30 năm từ năm 1976
đến năm 2006, chiều cao ở nam từ 16 tuổi đến 25 tuổi tăng thêm 2,7 cm trong
10 năm. Nói cách khác, cứ 10 năm thì chiều cao thanh niên Việt Nam tăng 2,7
cm. Vậy thực trạng các chỉ số sinh học hình thái của học sinh THCS đang ở mức
nào là một vấn đề rất cần được khảo sát đánh giá nhằm góp phần thực hiện mục tiêu
trên.
Nghiên cứu về các chỉ số hình thái có lịch sử tồn tại và phát triển hết sức
phong phú thể hiện trên nhiều lĩnh vực như sự tăng trưởng, phát triển, đặc trưng
chủng tộc, giới tính Dậy thì là một trong những giai đoạn quan trọng nhất trong sự

sinh trưởng và phát triển của con người, các biểu hiện rõ nhất trong giai đoạn này
chính là sự thay đổi về hình thái. Tuổi dậy thì là giai đoạn rất nhạy cảm cả về mặt
sinh học và tâm lý học, do bản chất của giai đoạn này là sự chuyển đổi từ trẻ em
thành người trưởng thành. Trong gia tốc phát triển về hình thái của con người, đây
là một trong 2 giai đoạn tăng trưởng quan trọng nhất có tính chất quyết định, đặc
biệt là các chỉ số hình thái trong đó có chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực trung
bình cũng như các chỉ số phản xạ của các giác quan. Chính vì thế, nghiên cứu về
hình thái học sinh tuổi dậy thì luôn mang tính thời sự cấp thiết, nó không chỉ
cung cấp các cơ sở khoa học sinh học thể hiện một giai đoạn quan trọng nhất
ảnh hưởng đến chất lượng con người, mà còn giúp cho việc giáo dục thể chất
hiện nay tại các trường THCS được thực hiện dựa trên các cơ sở khoa học sinh học
nhằm đạt hiệu quả cao hơn.
1
Xu hướng của mục tiêu đào tạo hiện nay là người học giữ vai trò chủ đạo, vai
trò của giáo viên là hướng dẫn, giúp học sinh biết cách tự học, tự nghiên cứu. Việc
giáo viên nắm bắt được một số chỉ số sinh lý thần kinh như thời gian phản xạ thị
giác, thính giác của học sinh sẽ giúp giáo viên có được phương pháp dạy học phù
hợp với từng đối tượng học sinh, để từ đó nâng cao chất lượng giáo dục. Việc nắm
bắt được các tật về mắt ở lứa tuổi học đường sẽ giúp ích cho việc thiết kế không
gian dạy học hiệu quả và có những biện pháp rèn luyện thị lực cho học sinh.
Như vậy, việc nghiên cứu các chỉ số sinh học với định hướng giáo dục thể
chất và rèn luyện một số phản xạ giác quan là rất cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay ở
nước ta chưa có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực liên ngành này, đặc biệt là
tại Thanh Hóa, một trong những nơi mà tinh thần hiếu học cao nhất cả nước với số
lượng học sinh lớn và phân lập thành nhiều vùng miền. Chính vì thế, tôi chọn đề tài
“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học tuổi dậy thì của học sinh trường
THCS Tố Như và Trần Mai Ninh, tỉnh Thanh Hóa”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng một số chỉ số sinh học về hình thái (chiều cao đứng, cân
nặng, vòng ngực trung bình, vòng bụng, vòng mông, các vòng chi trên, các vòng chi

dưới) của học sinh;
Xác định được thời gian phản xạ thị giác và thính giác của học sinh;
Xác định được thực trạng một số đặc điểm về tật cận thị của học sinh;
Xác định được sự liên quan giữa các chỉ số được nghiên cứu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu một số chỉ số hình thái và thần kinh của học sinh trường THCS Tố
Như và trường THCS Trần Mai Ninh, tỉnh Thanh Hóa;
So sánh một số chỉ số sinh học về hình thái giữa các độ tuổi và giữa học sinh
nam với học sinh nữ;
So sánh một số chỉ số sinh học về thần kinh như thời gian phản xạ thị giác và
thính giác, tật cận thị và loạn thị giữa các độ tuổi; giữa học sinh nam với học sinh nữ;
So sánh các chỉ số sinh học giữa hai đối tượng học sinh ở nông thôn và học
sinh ở thành phố.
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là gồm 900 học sinh đang học tập tại hai trường: THCS
Tố Như và THCS Trần Mai Ninh, tỉnh Thanh Hóa. Tất cả gồm 4 nhóm với 4 độ
tuổi khác nhau, từ 12 – 15 tuổi, có sức khỏe bình thường, không có dị tật bẩm sinh
hoặc bệnh truyền nhiễm, có trạng thái tâm sinh lý bình thường.
Mỗi trường sẽ tiến hành điều tra, khảo sát khoảng 450 học sinh có độ tuổi từ
12 đến 15. Mẫu nghiên cứu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên.
Bảng 1. Phân bố đối tượng nghiên cứu
STT
Tuổi
Giới tính
Nam Nữ
1
12 122 121
2
13 120 123

3
14 125 122
4
15 123 124
Tổng
450 450
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài cần nghiên cứu tài liệu về hình thái, thể
lực và các bệnh học đường ở lứa tuổi dậy thì.
5.2. Phương pháp nghiên cứu chỉ số
Các chỉ số hình thái được nghiên cứu theo phương pháp của Martin;
Các chỉ số thần kinh: dụng cụ đo là máy vi tính với phần mềm theo phương pháp
của thầy Đỗ Công Huỳnh và cộng sự để xác định các chỉ số:
- Thời gian phản xạ thính giác;
- Thời gian phản xạ thị giác.
Các chỉ số thị lực: theo phương pháp đo của các cơ sở y tế để xác định tật cận thị
của học sinh.
3
5.3. Phương pháp xử lí số liệu
Kết quả nghiên cứu được phân tích và xử lý trên máy tính bằng chương trình
Microsoft Excel 2007.
5.4. Phương pháp phân tích số liệu
Qua số liệu thu thập được, tiến hành phân tích, đánh giá các chỉ số sinh học
của học sinh. Dùng lí luận để giải thích những vấn đề đã thu thập được thông qua
các phương pháp nghiên cứu ở trên.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đánh giá đặc điểm sinh học về hình thái của học sinh ở lứa tuổi dậy thì.
Bổ sung số liệu về một số chỉ số đo các vòng cơ, từ đó có những biện pháp cải
thiện hình thái thể lực cho học sinh cấp THCS ở Thanh Hóa nói riêng và học sinh

cả nước nói chung.
Bước đầu tìm hiểu các đặc điểm sinh học về thị giác và thính giác của học sinh
THCS.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số vấn đề về hình thái, thể lực
1.1.1. Cơ sở lí luận về hình thái, thể lực
Vấn đề thể lực từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, tất cả đều thống
nhất rằng thể lực phản ánh cấu trúc tổng hợp của cơ thể, liên quan chặt chẽ tới thể
trạng, hình thái, sức khỏe, sức lao động, thẩm mĩ,…và là khả năng, năng lực vận
động của mỗi cá nhân con người. Thể lực phản ánh mức độ phát triển tổng hợp của
hệ thống cơ quan trong một cơ thể hoàn chỉnh thống nhất. Ở bất kì người bình
thường nào cũng có mức độ phát triển thể lực nhất định.
Thể lực của con người là một chỉ tiêu phức hợp. Một trong những biểu hiện cơ
bản của thể lực là những số đo kích thước cơ thể. Trong đó, các chỉ số chiều cao,
cân nặng, vòng ngực là những chỉ số đặc trưng phản ánh thể lực của con người.
Ngoài ra, sự phát triển hình thái cơ thể còn được biểu hiện qua một số chỉ số đo
vòng cơ như vòng bụng, vòng mông, vòng chi trên, vòng chi dưới,… Các chỉ số đó
có ý nghĩa trong việc đánh giá sự phát triển thể lực của trẻ em, biểu hiện sự tăng
trưởng của cơ thể từ lúc mới sinh cho đến lúc chết [27].
- Chiều cao đứng:
Chiều cao đứng (CCĐ) là một trong những kích thước được đề cập và được
đo đạc trong hầu hết các công trình điều tra cơ bản về hình thái, nhân chủng, sinh lý
và bệnh lý, v.v. CCĐ nói lên tầm vóc của một người, do đó các nhà y học dựa vào
CCĐ để đánh giá sức lớn của trẻ em; so sánh CCĐ với các kích thước khác trong cơ
thể, phối hợp với các kích thước khác để xây dựng các chỉ số thể lực, v.v. CCĐ
cũng được các nhà phân loại học sử dụng khi nghiên cứu chủng tộc. Nói chung,
cũng như ở các nước khác trên thế giới, ở Việt Nam nam giới cao hơn nữ giới
khoảng từ 8 đến 11 cm [11].

Có rất nhiều ý kiến giải thích sự gia tăng về CCĐ ở thế hệ sau tốt hơn thế hệ
trước. Tuy nhiên, về nguyên nhân ảnh hưởng tới CCĐ có 2 yếu tố chính:
5
+ Yếu tố di truyền và yếu tố lai giống đứng hàng đầu trong việc ảnh hưởng
tới chiều cao. Nó tác động nhanh và tức thời ở ngay thế hệ con cháu.
+ Yếu tố ngoại cảnh nói chung, trong đó bao gồm cả điều kiện sinh hoạt tinh
thần và vật chất, khí hậu và ánh nắng, sự thích nghi với môi trường,… ảnh hưởng ở
mức độ lớn tới tốc độ phát triển cũng như CCĐ cuối cùng ở người lớn, tuy nhiên
yếu tố ngoại cảnh tác động từ từ, chậm chạp và cần phải tác động liên tục.
- Cân nặng:
Cũng như CCĐ, cân nặng là số đo thường được sử dụng trong các nghiên
cứu cơ bản về hình thái người. Mặc dù vậy, độ chính xác của chỉ số này không cao
do nó dễ thay đổi tuỳ vào thời điểm nghiên cứu (buổi sáng cân nhẹ hơn buổi chiều,
sau khi lao động nặng hay tập thể thao thì cân nặng giảm, v.v).
Tuy nhiên, cân nặng của một người nói lên mức độ và tỷ lệ giữa sự hấp thụ
các chất và tiêu hao năng lượng. Cân nặng của một người bao gồm 2 phần:
+ Phần cố định, chiếm 1/3 tổng cân nặng gồm xương, da, tạng và thần kinh.
+ Phần thay đổi, chiếm 2/3 tổng cân nặng, trong đó bao gồm 3/4 là khối
lượng của cơ và 1/4 là mỡ và nước. Điều này cho thấy tăng cân là tăng phần thay
đổi, trong đó khối lượng của cơ chiếm tới 3/4, vì vậy tăng cân phần nào nói lên mức
độ tăng thể lực cơ thể.
- Vòng ngực trung bình:
Vòng ngực trung bình (VNTB) là trung bình cộng của vòng ngực hít vào hết
sức và vòng ngực thở ra hết sức. Đây là một trong những kích thước quan trọng do
nó phối hợp với CCĐ, cân nặng để đánh giá thể lực của con người. Tuy nhiên, đây
cũng là kích thước dễ thay đổi, người ta nhận thấy đo nhiều lần trên cùng một
người, các kết quả về vòng ngực có thể chênh lệch nhau 2-3 cm. Vòng ngực lớn thì
thể lực tốt, do nó liên quan đến khả năng hô hấp của con người [11].
- Vòng đùi và vòng cánh tay phải co:
Ở đây, chúng tôi chỉ nói về các loại vòng cơ có liên quan nhiều đến cân

nặng. Các vòng cơ ở chi biểu hiện sự phát triển của ba yếu tố: xương, cơ và tổ chức
6
mỡ dưới da. Như vậy, đo các vòng cơ ở chi cho phép ta đánh giá tình trạng phát
triển cơ thể nói chung và nhất là tình trạng tập luyện và dinh dưỡng của cơ thể.
Các vòng này cũng có ý nghĩa như cân nặng và do đó có mối tương quan
chặt chẽ với cân nặng. Các vòng cơ ở chi không những có thể làm thay đổi cân nặng
và hơn nữa, còn có những ưu điểm sau trong việc đánh giá thể lực một người [11]:
+ Các vòng chi biểu hiện sự phát triển cơ rõ hơn cân nặng. Một kết quả nghiên
cứu cho thấy có sự gia tăng các vòng chi trên 10 thanh niên tập cử tạ trong 4 tháng
liên tục, trong đó các vòng cánh tay tăng rất mạnh, khoảng 2 đến 3,5 cm [37].
+ Cân nặng biểu hiện sự tăng mỡ nhiều hơn so với các vòng chi. Một điều
hiển nhiên là chúng ta có thể tăng cân rất nhanh do an dưỡng (ăn uống, nghỉ ngơi)
mà không phải do tập luyện và lao động. Sự tăng cân biểu hiện tình trạng dinh
dưỡng tốt của cơ thể. Như vậy, sự tăng cân rõ ràng là biểu hiện sự béo nhiều hơn,
trong khi đó, sự tăng các vòng chi biểu hiện sự phát triển cơ nhiều hơn.
- Vòng bụng:
Muốn đánh giá độ béo của cơ thể và do đó đánh giá được mức độ dinh
dưỡng và khả năng hấp thụ của cơ thể, người ta thường đo vòng bụng. Tuy nhiên,
việc đo vòng bụng nếu không đúng kỹ thuật thường cho số liệu chính xác không
cao, do không có một thành xương vững chắc như thành ngực. Có thể đánh giá mức
độ béo của cơ thể theo chỉ số: [Vòng bụng/ Vòng ngực] x 100.
Chỉ số này càng lớn thì người càng béo, trừ trường hợp bụng to vì bệnh lý.
Cũng có thể tính hiệu số giữa vòng ngực và vòng bụng.
- Vòng mông:
Cũng giống như vòng bụng, vòng mông to nhất (vòng mông) cũng là một
kích thước được sử dụng để đánh giá độ béo gầy và thể tạng của cơ thể.
- Các chỉ số tích hợp:
Để đánh giá thể trạng của học sinh (gầy, bình thường, béo) tôi sử dụng chỉ số
BMI là chỉ số tích hợp giữa chiểu cao, cân nặng của học sinh.
7

Ngoài việc đánh giá thể trạng còn phải đánh giá thể lực (khỏe, bình thường,
yếu) của học sinh. Để đánh giá thể lực tôi sử dụng chỉ số QVC là chỉ số kết hợp
giữa chiều cao, vòng ngực và vòng cơ cánh tay, cơ đùi.
Ngoài ra tỷ số vòng eo trên vòng mông là một phương pháp được sử dụng để
xác định sự phân phối mỡ trên cơ thể của một người, bổ sung sự thiếu hụt cho khái
niệm chỉ số khối cơ thể (BMI), bởi vì BMI chỉ phản ánh mối quan hệ giữa chiều
cao và cân nặng. Nếu WHR nhỏ hơn 1, cơ thể được xếp vào dạng trái lê (pear-
shaped body), tức là vòng eo nhỏ hơn vòng mông, mỡ chủ yếu tập trung ở mông và
các vùng xung quanh; ngược lại, nếu WHR lớn hơn 1, nó thuộc dạng trái táo
(apple-shaped body), nghĩa là vòng mông nhỏ hơn vòng eo, mỡ chủ yếu tập trung ở
vùng bụng. Ở dạng trái táo cơ thể gặp nhiều nguy cơ về sức khỏe hơn.
Nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa tỷ số vòng eo trên
vòng mông và sức khỏe của một người. WHR vào khoảng 0,7 với phái nữ và 0,9
với phái nam báo hiệu sức khỏe tốt và khả năng sinh sản cao. Ở phụ nữ sở hữu chỉ
số WHR chuẩn, mức estrogen (một loại hooc môn nữ) có trạng thái tốt nhất, họ ít
mắc các bệnh nguy hiểm như đái đường, rối loạn tim mạch và ung thư buồng trứng,
còn ở nam giới có WHR vào khoảng 0,9 thường ít mắc bệnh ung thư tuyến tiền
liệt và ung thư tinh hoàn. Nhóm hoóc môn androgen là tác nhân làm tăng vòng eo
của phụ nữ bằng cách tăng lượng mỡ ở các cơ quan nội tạng. Nồng độ androgen
trong cơ thể tăng thì sức mạnh cơ bắp, khả năng chịu đựng và cạnh tranh của con
người cũng tăng lên.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu hình thái, thể lực
1.1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Những nghiên cứu về sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em được bắt đầu
vào giữa thế kỷ XVIII. Quyển sách đầu tiên về sự tăng trưởng chiều cao ở người
(Wachstum der Menschen in die Lange) của A.Stoeller được xuất bản ở Magdeburg
(Đức) vào năm 1729. Tuy nhiên, trong cuốn sách này chưa có các số liệu đo đạc cụ
thể. Nghiên cứu về sự tăng trưởng thực sự được trình bày trong luận án tiến sĩ của
Christian Friedrich Jumpert ở Halle (Đức) năm 1754, trong đó trình bày các số liệu
8

đo đạc về cân nặng, chiều cao đứng và các đại lượng khác của một loạt trẻ trai, trẻ
gái và thanh niên từ 1 đến 25 tuổi tại các trại mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số
nơi khác trên nước Đức. Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang đầu tiên về
tăng trưởng ở trẻ em.
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao đứng được thực hiện bởi Philibert
Guénneau de Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến năm 1777. Trong
18 năm liên tục, cậu bé được đo 2 lần mỗi năm, cách nhau 6 tháng. Đây là một
nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho đến nay và được trích dẫn trong các
nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế kỷ XIX.
Một công trình nghiên cứu dọc khá lớn khác của Bowditch H.P. (1840-
1911), hiệu trưởng đầu tiên của Khoa Y trường Đại học Harvard (Mỹ) và là giáo sư
sinh lý học đã đưa ra chuẩn tăng trưởng của trẻ em Mỹ và lần đầu tiên sử dụng hệ
thống bách phân vị trong nghiên cứu tăng trưởng mà 15 năm sau Galton F. (Anh)
mới sử dụng.
Trọng lượng cơ thể tính bằng kg đã được nhắc tới trong công trình nghiên
cứu của Tenon từ thế kỷ thứ XIII, sang đầu thế kỷ XIX nó được coi là một chỉ số
quan trọng để đánh giá thể lực .
Vòng ngực là chỉ số được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỷ XIX, đến
cuối thế kỷ này thì vòng ngực trở thành một chỉ số quan trọng để đánh giá thể lực
sau chiều cao đứng và cân nặng.
Quan niệm “tăng trưởng là tấm gương phản chiếu điều kiện của xã hội” đã
được nêu lên từ năm 1929 bởi Louis Réné Vilermé (1782-1863) - người sáng lập
ngành y tế công cộng ở Pháp, khi ông công bố trong cuốn sách chuyên khảo rằng
những người lính nghĩa vụ ở các quận nghèo tại Paris có chiều cao đứng trung bình
thấp hơn lính nghĩa vụ ở các quận giàu. Trước đó, một nghiên cứu tương tự theo
hướng sức khỏe công cộng được Edwin Chadwick thực hiện ở miền Bắc nước Anh
năm 1883, trong đó đã trình bày tầm vóc nhỏ bé của trẻ em đang làm việc trong các
nhà máy dệt. Ngày nay, người ta đã sử dụng chiều cao đứng của trẻ em và người
trưởng thành như một chỉ số để đánh giá tình trạng dinh dưỡng và xã hội và nêu lên
quy luật tăng trưởng theo thời gian (secular changes).

9
Tuy nhiên, việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ số như cân
nặng, chiều cao đứng hay vòng ngực đều không cho kết quả mong muốn. Vì vậy,
người ta đã hợp nhất nhiều đại lượng tăng trưởng vào một chỉ số chung để đánh giá
thể lực. Ban đầu là những chỉ số dùng 2 kích thước (cân nặng và chiều cao) như chỉ
số Broca, chỉ số Quetelet, chỉ số Kaup, Rohrer và Livi, sau đó là những chỉ số
được hợp nhất từ 3 kích thước trở lên như chỉ số Pignet, chỉ số Vervaek, chỉ số
Pimo, Nhìn chung, một chỉ số được xác định từ nhiều thông số khác nhau thì chỉ
số đó càng chính xác nhưng việc đo đạc và tính toán càng cồng kềnh và phức tạp.
Do đó, tuỳ mục đích nghiên cứu mà các tác giả đã chọn các chỉ số thích hợp.
Việc nghiên cứu các chỉ số hình thái, thể lực của trẻ ở các lứa tuổi được tiếp
tục bởi nhiều tác giả ở các nước khác nhau. Từ các dẫn liệu thu thập được, các tác giả
nhận định rằng sự phát triển và tốc độ tăng trưởng các chỉ số diễn ra không đều qua
các thời kỳ khác nhau, có thời kỳ tốc độ tăng trưởng chậm, có thời kỳ tăng trưởng
nhanh. Trong quá trình phát triển của trẻ có hai giai đoạn “nhảy vọt”, đó là giai đoạn
từ 5 đến 7 tuổi và giai đoạn tuổi dậy thì (từ 11 đến 15 tuổi).
Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy có sự khác biệt về các chỉ số hình thái
của trẻ sống ở các vùng, miền khác nhau, cũng như có sự khác biệt theo tốc độ phát
triển các chỉ số hình thái giữa các trẻ nam và trẻ nữ. Cụ thể là các trẻ sống ở thành
phố có các chỉ số hình thái tốt hơn so với các trẻ sống ở nông thôn. Ở lứa tuổi 7-10,
tốc độ tăng chiều cao đứng của các trẻ nữ nhanh hơn so với ở các trẻ nam, nhưng từ
11 tuổi trở đi tốc độ tăng chỉ số này ở các trẻ nam lại nhanh hơn so với ở các trẻ nữ.
Một nhận xét nữa của các nhà nghiên cứu là sự phát triển các chỉ số hình thái
của trẻ ở các lứa tuổi khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, chế độ
dinh dưỡng và hàng loạt các yếu tố thuộc môi trường sống.
Theo Jacques R. Ducharme và Maguelone G. Forest (1982), dậy thì là qua
thời kì trẻ em để trở thành người lớn, đây là giai đoạn biệt hóa giới tính lớn nhất,
biến đổi cơ quan sinh dục, phát triển đặc tính sinh dục phụ, thay đổi kích thước
cũng như hình thái cơ thể. Tăng trưởng và phát triển (trong đó có dậy thì) là sản
phẩm của mối tương tác phức tạp và liên tục của dinh dưỡng, môi trường sống và

yếu tố di truyền.
10
Nhiều tác giả trên thế giới đã phân chia quá trình sinh trưởng và phát triển của
trẻ em thành các thời kì khác nhau. Bunak V.V (1965) phân chia các thời kì phát
triển của trẻ em dựa vào các dấu hiệu hình thái và nhân chủng. Gundobin N.P. và
Arshavski I.A. chia ra các thời kì phát triển dựa vào bậc học của học sinh, v.v. Theo
đó, các tác giả cũng chưa hoàn toàn thống nhất về cách phân chia các giai đoạn phát
triển của trẻ em.
1.1.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Việc nghiên cứu tầm vóc, thể lực của học sinh ở nước ta đã bắt đầu được tiến
hành từ những năm 60 của thế kỷ trước.
Nghiên cứu đầu tiên được biết đến là công trình của Đỗ Xuân Hợp, Nguyễn
Quang Quyền [10] khi nghiên cứu một số kích thước cơ bản (chiều cao đứng và cân
nặng) trên học sinh Hà Nội lứa tuổi từ 7 đến 17. Kết quả cho thấy, học sinh trong
lứa tuổi THCS (từ 11 đến 15 tuổi) không có sự khác biệt về tầm vóc, thể lực giữa
nam và nữ ở lứa tuổi 11. Sau đó, ở nữ tăng nhanh về các kích thước đo so với ở
nam. Điều này được các tác giả giải thích bằng sự dậy thì sớm ở nữ so với nam.
Năm 1962, Phạm Năng Cường và cộng sự đã đưa thêm chỉ số vòng ngực khi
nghiên cứu thể lực của học sinh Hà Nội. Các tác giả cũng đưa ra biểu đồ phát triển
thể lực của nam và nữ giống như Đỗ Xuân Hợp [11] nhưng các kích thước và chỉ số
có tăng hơn.
Sau hai Hội nghị về hằng số sinh học năm 1967 và 1972, một tập thể các tác
giả do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên đã biên soạn cuốn “Hằng số sinh học
người Việt Nam” (1975) [36]. Trong công trình này, các tác giả đã tập hợp đầy đủ
nhất về các chỉ tiêu nhân trắc ở trẻ em và người lớn. Đây là công trình nghiên cứu
không chỉ thể hiện những chỉ số điển hình của người Việt Nam nói chung mà còn
của trẻ em các lứa tuổi nói riêng.
Ở miền Bắc, trong những năm 1975-1976, Nguyễn Quang Quyền và Lê Gia
Vinh [34] đã làm một cuộc điều tra toàn diện về y tế cho dân cư một xã đồng bằng ở
tỉnh Hà Tây, trong đó đã nghiên cứu tầm vóc, thể lực của 2.100 người tuổi 16-70

theo kỹ thuật và phương pháp tiêu chuẩn trong nhân trắc học.
11
Trong các năm 1977, 1985, 1986 và 1990, Nguyễn Khải và cộng sự [17] đã
nghiên cứu tầm vóc, thể lực của sinh viên và nông dân trên địa bàn thành phố Huế
và thấy tầm vóc, thể lực của sinh viên kém hơn hẳn so với nông dân ngoại thành.
Năm 1980, Nguyễn Văn Lực và cộng sự [30] đã nghiên cứu trên 831 học
sinh, sinh viên tuổi 16-25 bao gồm dân tộc Kinh (52,6%) và một số DTTS tại khu
vực Thái Nguyên (Tày, Thái, Mường, Nùng, Sán Dìu, Dao, Sán Chỉ, v.v.). Sau đó
vào năm 1985, các tác giả đánh giá lại bằng cách nghiên cứu trên 762 sinh viên Thái
Nguyên . Đây có thể coi như một dạng nghiên cứu theo phương pháp theo dõi dọc
không hoàn chỉnh.
Công trình nghiên cứu đồ sộ trong 4 năm (1981-1984) đã được xuất bản của
tập thể tác giả do Võ Hưng chủ biên: “Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong
lứa tuổi lao động” [16] đã thực hiện trên 13.233 người ở 15 tỉnh trên 3 miền Bắc,
Trung, Nam và được chia thành 5 lớp tuổi: 17-19, 20-29, 30-39, 40-49, 50-55. Đây
là công trình nghiên cứu về tầm vóc nhằm ứng dụng vào việc thiết kế dụng cụ và
nơi làm việc (ergonomi).
Trong 2 năm 1985 và 1986, Trịnh Hữu Vách và Lê Gia Vinh [38] đã tiến
hành một đợt nghiên cứu tương đối toàn diện về tầm vóc, thể lực trên 3.468 người
trưởng thành tuổi từ 18 đến già thuộc 5 tỉnh miền Bắc và miền Nam. Các tác giả đã
đưa ra những nhận định dè dặt về quy luật gia tăng tầm vóc theo thời gian do hoàn
cảnh kinh tế xã hội thay đổi.
Năm 1987, trong luận án phó tiến sĩ sinh học “Góp phần nghiên cứu các đặc
điểm hình thái thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành”, Trịnh Hữu Vách [37] đã
nêu lên một số kết luận đáng chú ý trong quá trình nghiên cứu trên 4.510 người Việt
và so sánh với 428 người Chill (Lâm Đồng) và người Mường (Thanh Hóa), trong
đó tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng thiếu dinh dưỡng về cả chất lẫn số
lượng trong thời gian dài đã ảnh hưởng tới tầm vóc, thể lực của người Việt Nam và
hạn chế quy luật gia tăng theo thời gian.
Kết quả công trình nghiên cứu “Một số nhận xét về sự phát triển chiều cao,

vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam 1-55 tuổi” (1996) do Thẩm Hoàng Điệp,
12
Nguyễn Quang Quyền và cộng sự [10] thực hiện ở 8 tỉnh thuộc 3 miền của nước ta
cho thấy, các chỉ số thu được đều cao hơn hẳn so với các nghiên cứu trước. Các tác
giả cho thấy CCĐ đến lứa tuổi 15 ở trẻ nam đã vượt lên so với trẻ nữ, có lẽ đây là
lứa tuổi mà trẻ nam bắt đầu bước vào tuổi dậy thì. Trong khi đó kích thước vòng
ngực của trẻ nữ luôn cao hơn của trẻ nam ở các lứa tuổi THCS. Điều này cũng phù
hợp với sự xuất hiện đặc điểm sinh dục thứ cấp của cơ thể nữ khác với cơ thể nam.
Thực hiện quyết định số 19-UB/TH ngày 10/3/1994 của UBKH Nhà nước,
trường đại học Y khoa Hà Nội chủ trì dự án “Điều tra cơ bản các chỉ tiêu sinh học
người Việt Nam thập kỷ 1990”. Trần Văn Dần và cộng sự [8] đã nghiên cứu trên
học sinh trường phổ thông cơ sở ở Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái Bình trong những năm
1990-1995. So với “Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975), thì sự phát triển về
chiều cao đứng của trẻ em 6-16 tuổi trong nghiên cứu này tốt hơn và có ý nghĩa
thống kê, đặc biệt là trẻ em ở thành phố và thị xã. Sự gia tăng về cân nặng chỉ thấy
rõ ở trẻ em Hà Nội, còn khu vực nông thôn chưa có sự thay đổi đáng kể.
Năm 1992, bằng phương pháp nghiên cứu cắt dọc trên học sinh phổ thông
Hà Nội, Thẩm Thị Hoàng Điệp [9] đã công bố những kết luận rất đáng chú ý trong
luận án phó tiến sĩ sinh học: “Đặc điểm hình thái và thể lực học sinh trường PTCS
Hà Nội”.
Trần Đình Long, Lê Nam Trà, Nguyễn Văn Tường và cộng sự đã nghiên
cứu trên học sinh tuổi từ 6 đến 16 ở thị xã Thái Bình nhận thấy từ 11 đến 14 tuổi thì
trẻ nữ vượt trội hơn trẻ nam về các kích thước nghiên cứu, còn từ 15 đến 16 tuổi thì
trẻ nam lại phát triển vượt trẻ nữ. Điều này phù hợp với quy luật phát triển của trẻ
nam và trẻ nữ ở nhóm tuổi này do liên quan đến tuổi dậy thì. Các tác giả trên tiếp
tục nghiên cứu trên học sinh 6-18 tuổi ở các trường nội ngoại thành Hà Nội từ năm
1994 đến 1996 và rút ra kết luận: từ 11 đến 13 tuổi, trẻ nữ phát triển vượt trội so với
trẻ nam, từ 14 đến 16 tuổi trẻ nam lại phát triển hơn. Chỉ tiêu cân nặng (cao hơn 2-7
kg), chiều cao đứng (cao hơn 3-15 cm) ở các trẻ trong nghiên cứu này đã tăng hơn
so với các trẻ trong các nghiên cứu trước (năm 1990 và 1975). Điều này cho thấy có

sự thay đổi tích cực về các chỉ tiêu tầm vóc, thể lực [35].
13
Năm 1995, trong khuôn khổ công trình nghiên cứu cấp Bộ và điều tra cơ bản
người Việt Nam, Nguyễn Quang Quyền và cộng sự đã tiến hành đề tài “Hằng số
hình thái đánh giá thể lực người Việt Nam khu vực phía Nam”, trong đó các tác giả
đã nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về tầm vóc, thể lực của 20.000 người
tại 4 địa điểm là thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Tây Nguyên và Huế.
Nguyễn Mạnh Cường trong luận án tiến sĩ “Đánh giá một số chỉ tiêu phát
triển cơ thể của học sinh lứa tuổi 6-15 vùng nông thôn ven biển Thái Bình”, đã cho
thấy các chỉ số thể lực đều tăng dần theo lứa tuổi, có sự khác biệt giữa nam và nữ và
sự thay đổi này còn phụ thuộc vào tuổi dậy thì của trẻ.
Năm 2003, Bộ Y tế đã công bố cuốn sách “Các giá trị sinh học người Việt
Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX” [4]. Các vấn đề về tầm vóc, thể lực được
quan tâm đặc biệt với các đề mục: “Các chỉ tiêu nhân trắc người trưởng thành miền
Bắc Việt Nam” (chủ nhiệm: GS. Trịnh Văn Minh); “Nghiên cứu sự phát triển cơ thể
lứa tuổi đến trường phổ thông 6-18 tuổi” (chủ nhiệm: PGS.TS. Trần Đình Long);
“Đặc điểm phát triển thể lực của trẻ dưới 6 tuổi” (chủ nhiệm: TS. Hàn Nguyệt Kim
Chi); “Một số chỉ tiêu nhân trắc được điều tra ở Hải Phòng” (chủ nhiệm: PGS.TS
Nguyễn Hữu Chỉnh); “Đánh giá một số chỉ tiêu nhân trắc của trẻ em và người cao
tuổi ở nông thôn Thái Bình” (chủ nhiệm: TS. Phạm Ngọc Khái) [18].
1.2. Một số vấn đề về phản xạ cảm giác vận động
1.2.1. Cơ sở lí luận về phản xạ và lịch sử nghiên cứu trên thế giới
Phản xạ là hình thức hoạt động của hệ thần kinh để điều hòa và phối hợp hoạt
động của tất cả cơ quan trong cơ thể, đảm bảo sự thống nhất bên trong cơ thể và sự
thống nhất giữa cơ thể với môi trường bên ngoài [24]. Tác giả Tạ Thúy Lan cho
rằng phản xạ là phản ứng của cơ thể có sự tham gia của hệ thần kinh trả lời kích
thích của môi trường ngoài tác dụng lên nó[23].
Người đầu tiên đưa ra khái niệm phản xạ là R.Decac[]. Năm 1640, nhà triết
học kiêm nhà tự nhiên học người Pháp này đã dùng khái niệm phản xạ để giải thích
các hành động đơn giản của động vật và con người. Theo ông, phản xạ là sự phản

ứng của cơ thể đối với tác nhân kích thích tác động vào nó và do “linh khí” của
14
động vật gây ra, phản xạ là sự phản ánh của cảm giác thành vận động. Sau R.Decac
có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu hoạt động thần kinh cấp cao. Lần đầu tiên
trong sinh lí học, hoạt động não người được coi là hoạt động phản xạ nhờ nghiên
cứu của Sechenov (1829-1905). Ông cho rằng nguyên nhân đầu tiên của bất kì hành
vi nào cũng đều là sự kích thích bên ngoài. Ông còn khẳng định trong việc hình
thành phản xạ không chỉ có sự tham gia của hưng phấn mà còn có sự tham gia của
ức chế. Tác giả Tạ Thúy Lan cũng đồng quan điểm trong cuốn “Sinh lí học thần
kinh” tập 2. Khi phân tích tỉ mỉ phản xạ não người, Sechenov khẳng định rằng hoạt
động tâm lí của người không chỉ là một thể nghiệm chủ quan mà bao giờ nó cũng
gắn liền với hoạt động phản xạ để đáp ứng lại sự tác động của môi trường xung
quanh do não điều khiển.
Kế thừa và phát triển của Sechenov. I.P.Pavlov đã xây dựng nên học thuyết
duy vật hoàn chỉnh về hoạt động của thần kinh cấp cao. Khái niệm “phản xạ có điều
kiện” được ông đưa ra đầu tiên. Ông cho rằng chỉ dựa vào các phản xạ không điều
kiện thì động vật khó có thể tồn tại được. Để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, động
vật đòi hỏi phải có hình thức phản ứng mới mẻ linh hoạt, được hình thành trong đời
sống cá thể và thay đổi theo điều kiện sống, hình thức phản ứng đó được gọi là phản
xạ có điều kiện. Theo quan điểm của Pavlov, phản xạ có điều kiện được hình thành
trên cơ sở xuất hiện đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa hai nhóm tế bào thần
kinh thuộc trung khu khác nhau trên vỏ não. Việc hình thành đường liên hệ thần
kinh tạm thời là một quá trình sinh lí dựa trên cơ sở những thay đổi chức năng bẩm
sinh của cấu trúc vỏ bán cầu đại não. Điều kiện cơ bản để hình thành được đường
liên hệ thần kinh tạm thời là hai trung tâm hưng phấn dưới tác động của kích thích
có hoặc không có điều kiện phải xảy ra cùng một lúc. Mối liên hệ tạm thời giữa hai
trung tâm hưng phấn cùng một lúc trên vỏ bán cầu đại não sẽ àm cho các cơ quan
trong cơ thể hành động theo một hướng nhất định.
Dựa trên nền tảng đã có về phản xạ của các nhà khoa học đi trước, càng về sau
càng có nhiều công trình nghiên cứu về phản xạ theo các góc độ khác nhau. Theo

hướng nghiên cứu sự phát triển của hoạt động phản xạ trong quá trình phát triển của
15
cơ thể, các nghiên cứu của Xfaklit (1947), Glebovxki (1959), Krulop (1960) cho
thấy sự biến đổi của môi trường ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động
phản xạ của trẻ em. Sau khi sinh ra, ở trẻ em các phản xạ đã hình thành được hoàn
thiện nhanh chóng, đồng thời hình thành thêm các phản xạ mới trên cơ sở tăng
cường cơ chế điều hòa và phối hợp của hệ thần kinh trung ương.
Thời gian phản xạ là thời gian từ lúc có kích thích đến khi xuất hiện phản ứng.
Khi nghiên cứu về thời gian phản xạ, Wagman (1952, 1954) đưa ra kết luận “Thời
gian phản xạ biến đổi theo tuổi. Thời gian phản xạ ở các tuổi khác nhau không
giống nhau.Thời gian phản xạ phụ thuộc vào mức độ phát triển chức năng của hệ
thần kinh. Tốc độ dẫn truyền các xung động biến đổi theo tuổi [24]. Thời gian
nghiên cứu phụ thuộc vào mức độ biểu hiện của hệ thần kinh và tốc độ dẫn truyền
xung thần kinh trên dây thần kinh ngoại biên. Một số tác giả khác như: Korobkop
(1962), Lefunop, Motulianxki (1951), Phaphen (1956) khi nghiên cứu về thời gian
phản xạ cũng có kết luận tương tự.
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về phản xạ ở Việt Nam
Nghiên cứu về phản xạ cảm giác, vận động trên người Việt Nam đã được các
nhà sinh lí học, y học và tâm lí học quan tâm. Tuy nhiên do phương pháp nghiên
cứu không giống nhau nên kết quả thu được có sự khác nhau.
Năm 1993, tác giả Nghiêm Xuân Thăng nghiên cứu phản xạ phân biệt màu
sắc, âm thanh trong môi trường nóng khô và nóng ẩm đã kết luận thời gian phản xạ
thay đổi theo nhiệt độ môi trường và độ ẩm môi trường.
Năm 1995, Đỗ Công Huỳnh và cộng sự [14] đã nghiên cứu thời gian phản xạ
cảm giác - vận động của thanh thiếu niên tuổi từ 6-18 tuổi ở khu vực Nam, Bắc sân
bay Biên Hòa và xã Vạn Phúc, Hà Đông. Ông cho thấy thời gian phản xạ cảm giác-
vận động giảm dần theo tuổi, càng lớn (không quá 18 tuổi) thời gian phản xạ càng
ngắn. Điều này chứng tỏ quy trình xử lí thông tin ngày càng tốt hơn theo lứa tuổi.
Phương pháp đo của Đỗ Công Huỳnh do dựa vào kĩ thuật xử lí trên máy vi tính, cho
phép xác định chính xác thời gian phản xạ thị giác, thính giác-vận động đã được

nhiều tác giả sử dụng.
16

×