Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Bản Full Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự (trên cơ sở số liệu của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 115 trang )


















LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






HÀ ANH TUẤN






VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP
TỈNH TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH)






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI – 2014









KHOA LUẬT




HÀ ANH TUẤN




VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH
BÌNH)


Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 0104





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN VĂN TUÂN






TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HÀ ANH TUẤN




VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH)



Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN








HÀ NỘI – 2014












Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn ch-a
từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận văn


H Anh Tuấn








MỤC LỤC









1.1

1.1.1
1.1.2

1.2

1.2.1
1.2.2

1.2.3
1.3

1.3.1
1.3.2
1.4

1.4.1
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT
XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

Khái niệm vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự
Khái niệm Thẩm phán
Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự
Những nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến vị trí, vai trò
của Thẩm phán
Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng
Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng
Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tham gia tố tụng
Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về vị trí,
vai trò của Thẩm phán
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988




1
7


7

7
8


12

13
14

15
17

17
23
24

24

1.4.2
1.5
1.5.1
1.5.2





2.1


2.1.1

2.1.2


2.2

2.2.1

2.2.2

2.2.3




Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
Quy định pháp luật một số nước về vị trí, vai trò của Thẩm phán
Liên bang Nga
Cộng hoà Pháp
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP
TỈNH TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
TTHS
Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong
quá trình chuẩn bị xét xử
Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong
quá trình xét xử tại phiên toà
Thực trạng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán Toà án
nhân dân tỉnh Ninh Bình

Những kết quả đã đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự của Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình
Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TOÀ
ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
34
38
38
44
49




49


49

54

62

62

67


71

77



3.1

3.2

3.2.1

3.2.2
3.2.2.1

3.2.2.2

Những yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò
của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh
Những giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự
Hoàn thiện pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố
tụng hình sự
Các giải pháp khác
Các kiến nghị đổi mới về cơ chế hoạt động của Toà án trên cơ
sở đó hoàn thiện vị trí, vai trò của Thẩm phán
Các kiến nghị về yếu tố con người nhằm nâng cao vị trí, vai trò
của Thẩm phán trong tố tụng hình sự
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


77

91

91

98
98

100

103
105






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Xã hội chủ nghĩa
Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ luật hình sự
Toà án nhân dân
Toà án quân sự
Viện kiểm sát nhân dân

Cơ quan điều tra

: XHCN
: BLTTHS
: BLHS
: TAND
: TAQS
: VKSND
: CQĐT






1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, cùng với sự cải cách mạnh mẽ của bộ máy Nhà nước,
vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Điều đó được thể hiện trong Nghị quyết 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” đã khẳng định, “trong những năm
qua…công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào
việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới, phần lớn cán bộ làm công
tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn
thành nhiệm vụ” [1.tr1]. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,

từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc Việt Nam XHCN;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao”.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến đổi mới tổ
chức và hoạt động của Toà án, tuy nhiên quá trình này diễn ra còn chậm, chưa
đồng bộ và toàn diện, hoạt động xét xử của Toà án chưa đáp ứng yêu cầu của
cải cách tư pháp. Chất lượng xét xử của TAND các cấp vẫn còn thấp, tình
trạng xét xử oan sai, án tồn đọng kéo dài vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh
đội ngũ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng, cơ sở vật
chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, nghèo nàn và
lạc hậu. Những tồn tại trên đã được chỉ rõ trong Báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:
“Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu cả về
phẩm chất và năng lực, quá trình cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ.

2
Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa
chính xác, án tồn đọng, án bị huỷ, bị sửa còn nhiều”.
Tỉnh Ninh Bình là một tỉnh ở cực Nam đồng bằng Bắc bộ có diện tích:
139 km
2
; dân số gần 900.000 người. Cơ cấu tổ chức của ngành Toà án tỉnh
Ninh Bình hiện nay gồm: TAND tỉnh Ninh Bình có 05 Toà chuyên trách, 03
phòng giúp việc và 08 TAND cấp huyện. Toàn ngành TAND tỉnh Ninh Bình
có 140 công chức, trong đó có 100 người có trình độ đại học. Trong những
năm qua, cùng với ngành Toà án toàn quốc, TAND tỉnh Ninh Bình đã không
ngừng nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân
dân giao phó. Chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng lên từng bước, góp
phần giải quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, tạo môi trường ổn

định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cải cách tư pháp Toà án được coi là trọng tâm với nhiệm vụ
“nâng cao tranh tụng tại phiên toà” và “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ xem xét đầy đủ, toàn diện
chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, người làm chứng,
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi ích hợp pháp để ra bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định. Vì
vậy tác giả chọn đề tài “Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp
tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của Toà án
nhân dân tỉnh Ninh Bình” làm luận văn tốt nghiệp cao học có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét xử là hoạt động trung tâm của tố tụng hình sự, vì vậy vị trí, vai trò
của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự là một trong những vấn đề

3
được những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn quan tâm. Sau khi
BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành đã có một số công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài này như sau:
- Chế định Thẩm phán trong TTHS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của Trần Thu Trang.
- Địa vị pháp lý của Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân, Thẩm
phán, Thư ký Toà án và Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam của Nguyễn Thị Hằng.
- Chế định Thẩm phán – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện
khoa học pháp lý (NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004).
- Thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự trong luật TTHS Việt Nam của ThS
Đinh Văn Quế (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005).

- Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự của tác giả Mai Thanh
Hiếu và Võ Chí Công (NXB Lao động).
Các công trình trên phần nào đã đề cập đến những khía cạnh nhất định
của chế định Thẩm phán, nhưng chủ yếu nhìn nhận dưới góc độ tổ chức và
quản lý Thẩm phán chưa nghiên cứu hoàn thiện những bất cập liên quan đến
vị trí, vai trò của Thẩm phán trong quá trình cải cách tư pháp theo tinh thần
chỉ đạo của Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu góp phần làm rõ vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động xét xử các vụ án hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng về vai
trò, vị trí của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và các vụ án

4
hình sự của Thẩm phán TAND ở tỉnh Ninh Bình. Từ đó tác giả của luận văn
đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm
phán TAND cấp tỉnh trong hoạt động giải quyết án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu vị trí, vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Làm rõ những đặc trưng
riêng của hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND cấp tỉnh
hiện nay.
- Phân tích vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian 05 năm
(từ 2009 đến 2013), làm rõ các nguyên nhân dẫn đến việc các bản án, quyết
định còn oan, sai, bị huỷ, cải sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán trong quá
trình áp dụng pháp luật.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản bảo đảm chất lượng xét xử

các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND cấp tỉnh góp phần thực hiện có hiệu
quả công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà
trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà
án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND qua
thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành luật hình
sự và tố tụng hình sự, luận văn bao gồm những nội dung lý luận và thực tiễn
có liên quan đến vấn đề vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp
tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.

5
Nghiên cứu hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân
tỉnh Ninh Bình từ năm 2009 đến năm 2013 gồm: Hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự; Hoạt động xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, nhằm phát
hiện những tồn tại, hạn chế cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
xét xử các vụ án hình sự của Toà án, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục
nguyên nhân, phát huy những thành tựu, đáp ứng một cách tốt nhất các yêu
cầu của hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân địa phương,
đồng thời đề xuất các giải pháp để bảo đảm cho xét xử các vụ án hình sự của
TAND đúng pháp luật, phù hợp với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
quyền; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo

cải cách tư pháp, theo tinh thần nghị quyết 08_NQ/TW; 49_NQ/TW của Bộ
chính trị về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của TAND trong giai đoạn
hiện nay, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ trình cải cách tư pháp.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích,
tổng hợp, so sánh, lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng
các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai
trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và trong hoạt
động xét xử án hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Ninh Bình nói riêng, luận
văn đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất

6
lượng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND cấp tỉnh đáp ứng nhu cầu
công cuộc cải cách Tư pháp hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về vị trí, vai
trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự, làm sáng tỏ các đặc điểm
của áp dụng pháp luật của Thẩm phán TAND cấp tỉnh trong việc xét xử các
vụ án hình sự.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc nâng cao
trình độ lý luận, chuyên môn cho Thẩm phán, Thư ký Toà án, những người
trực tiếp làm công tác xét xử các vụ án hình sự tại các TAND, góp phần nâng cao
chất lượng giải quyết án hình sự của TAND. Luận văn có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, học tập trong các
trường Đại học chuyên ngành luật. Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vị
trí, vai trò của Thẩm phán TAND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hình sự và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của
Thẩm phán TAND cấp tỉnh.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán
Quá trình tố tụng hình sự được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, với
nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau mà trong đó vị trí, vai trò của mỗi
cơ quan là khác nhau. Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện quyền hạn và
trách nhiệm thông qua các chủ thể gọi là những người tiến hành tố tụng.
Toà án nhân dân là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí
vai trò quan trọng, là cơ quan cuối cùng kết thúc một quá trình tố tụng. Trong
Toà án nhân dân, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để thực thi
nhiệm vụ tố tụng của Toà án. Xét xử đã có từ rất lâu, nhưng sự ra đời của
Thẩm phán lại muộn hơn. Dưới thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hình
thức Nhà nước chủ yếu là quân chủ lập hiến, hoạt động xét xử cũng như hoạt
động lập pháp, hoạt động hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và
phong kiến mà đại diện là nhà vua. Nhà vua là người nắm toàn bộ quyền
hành, đứng đầu Nhà nước ban hành các đạo luật, quy định tổ chức thực hiện

và là người có quyền lực cao nhất. Đến thế kỷ XVII, XVIII giai cấp tư sản
phát triển mạnh mẽ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đã hạn chế
dần quyền lực của nhà vua, tiến tới xoá bỏ Nhà nước phong kiến. Trong thời
gian này, các học giả tư sản mà tiêu biểu nhất là Montesquieu trong tác phẩm
“Tinh thần pháp luật” đã đưa ra luận điểm: Phải tách các hoạt động ban hành
pháp luật, hoạt động thực hiện pháp luật và hoạt động xét xử, chia quyền lực
nhà nước thành ba loại quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với
nhau tạo cơ chế kiềm chế đối trọng lẫn nhau, chống lại tư tưởng độc quyền
của một người, hay của một cơ quan nào đó, nắm toàn bộ quyền lực Nhà

8
nước. Có thể nói sự tách bạch và độc lập giữa Toà án ra khỏi hai nhánh quyền
lực lập pháp, hành pháp đã hình thành nên một đội ngũ cán bộ mới trong bộ
máy nhà nước làm nhiệm vụ xét xử từ xưa đến nay chưa từng có đó là Thẩm
phán [28, tr.16].
Trong Luận án tiến sĩ Luật học của mình, theo tác giả Đỗ Gia Thư
“Thẩm phán là người làm việc trong cơ quan Toà án, chuyên xét xử các vụ án
và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của Toà án, ra các bản án, quyết
định nhân danh Nhà nước” [28, tr.17].
Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 đã
đưa ra khái niệm “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Toà án” [tr.41].
Theo khái niệm này thì Thẩm phán là một chức danh quan trọng được bổ
nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định. Tức là chế độ bổ nhiệm Thẩm phán
được thực hiện đối với Toà án các cấp. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải do
người có thẩm quyền bổ nhiệm, tương ứng với ba cấp Toà án có ba ngạch
Thẩm phán và thẩm quyền bổ nhiệm với các ngạch Thẩm phán này cũng khác
nhau. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì cán bộ Toà án phải đáp ứng
những tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định.

Ngoài ra, Thẩm phán còn được coi là công chức Nhà nước. Theo pháp
luật về cán bộ công chức hiện hành, Thẩm phán được xếp vào ngạch công
chức nhà nước được hưởng mọi quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức
nói chung.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự
Thẩm phán có vị trí, vai trò đặc biệt trong xét xử các vụ án hình sự.
Thẩm phán là người điều khiển phiên toà theo quy định của pháp luật. Lên kế
hoạch cho các phiên toà như: Những chứng cứ nào sẽ được sử dụng, nhân

9
chứng nào sẽ được triệu tập, thời gian nào thì sẽ đưa vụ án ra xét xử… và dự
liệu được những vấn đề có thể xảy ra tại phiên toà. Trong phần thẩm vấn pháp
luật không quy định cụ thể phải hỏi ai, hỏi vấn đề gì trước nên gần như quy
trình xét hỏi được quyết định bởi Thẩm phán Chủ toạ phiên toà và là người
điều khiển phiên toà, thấy cần hỏi ai trước, cần làm rõ cái gì trước, xem xét và
trình bày cái gì là hợp lý để đảm bảo kết quả, chất lượng xét xử tốt nhất và
không làm cho các sự kiện bị rối lên, đồng thời cũng quyết định luôn tình tiết
nội dung nào cần được hỏi. Mặc dù người hỏi gồm có cả Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Luật sư nhưng thực tiễn xét xử tại Việt Nam
cho thấy việc xét hỏi được tiến hành chủ yếu bởi Thẩm phán Chủ toạ phiên
toà, sự tham gia xét hỏi của Luật sư, Kiểm sát viên trong quá trình xét hỏi
không mang tính liên tục tất cả những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng xét xử. Chất lượng xét xử có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào
người Thẩm phán, phụ thuộc vào chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển
phiên toà, kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình công tác. Vì sao lại hỏi bị cáo
này trước mà không hỏi bị cáo kia trước, vật chứng nào, nhân chứng nào,
những tình tiết nào trong vụ án có ý nghĩa quyết định đến việc bị cáo có tội
hay không có tội, nếu có tội thì được qui định tại điều khoản nào trong BLHS.
Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người Thẩm phán phải có kiến thức pháp

luật sâu rộng, phải có kinh nghiệm tích luỹ nhiêu năm trong quá trình xét xử
các vụ án thì mới có thể làm tốt vị trí, vai trò của mình được.
Khác với công việc khác, để đưa ra được một phán quyết thấu tình đạt
lý, Thẩm phán phải huy động nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự am
hiểu về pháp luật, sự am hiểu về kiến thức thực tế, tích luỹ kiến thức về xã
hội, lương tâm của người Thẩm phán. Cơ sở của các phán quyết là pháp luật,
những kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư và khách quan hay
không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng, chỉ khi nào có sự
kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của
Thẩm phán thì lúc đó mới đảm bảo cho phán quyết của Thẩm phán thấu tình

10
đạt lý. Khi xét xử người Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin
vào công lý bởi vì cho dù hệ thống pháp luật có hoàn chỉnh đầy đủ đến đâu
chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra
trong thực tế. Thậm chí quy định của pháp luật còn chồng chéo, không đồng
bộ, song khi xét xử người Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đặc biệt là phải đảm bảo công lý.
Trong con mắt của người dân, Toà án không chỉ là bảo vệ pháp luật mà còn là
biểu tượng của công lý, sự công bằng xã hội. Khi phải đối mặt với quan toà,
với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Toà án là người
đại diện của công lý và quan toà là người thực thi công lý.
Chức năng của Toà án là xét xử và Thẩm phán là người thực hiện chức
năng đó. Chức năng xét xử của Thẩm phán được thực hiện thông qua quyền
hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định.
Pháp luật đã quy định quyền hạn và trách nhiệm cho Thẩm phán trong
các văn bản quy phạm như: Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự… Các quy định
của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán là cơ sở pháp lý quan
trọng đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Khi

thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử Thẩm phán chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Thẩm phán thực hiện quyền lực
công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh Nhà nước, nhân danh công
lý, đồng thời các phán quyết đó còn ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị của
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của từng cá nhân. Do đó, yêu cầu của
hoạt động xét xử là phải đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Đối với quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán được quy định tại điều
9, điều 10, điều 11, điều 12 điều 15 điều 16 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân năm 2002 đã quy định cụ thể như sau:

11
- Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án toà án nơi
mình công tác hoặc Toà án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn.
- Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những
quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo
quy định của pháp luật.
Thẩm phán không được làm những việc sau đây:
* Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm
* Tư vấn cho bị can, bị cáo đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm
cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của
pháp luật.
* Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng
của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án.
* Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không
vì nhiệm vụ được giao hoặc không được đồng ý của người có thẩm quyền.
* Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án
mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
- Thẩm phản phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường
hợp do pháp luật tố tụng quy định.

- Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định pháp luật.
- Thẩm phán phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của
pháp luật.

12
- Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật có
cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng tham gia
tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
- Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại,
thì Toà án nơi Thẩm phán đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm
bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án
theo quy định của pháp luật.
Trên đây là những nhiệm vụ và quyền hạn chung nhất mà pháp luật quy
định cho Thẩm phán. Tuy nhiên vai trò, vị trí của Thẩm phán được thể hiện rõ
nét nhất trong phiên toà, bởi vì nhiệm vụ chính của Thẩm phán là xét xử. Do
vậy trong phần này chúng tôi chú trọng tới nghiên cứu nhiệm vụ và quyền hạn
của Thẩm phán trong xét xử.
Việt Nam đã lựa chọn mô hình tố tụng kết hợp giữa xét hỏi và tranh
tụng, xuất phát từ việc lựa chọn mô hình tố tụng như vậy nên quyền hạn và
nghĩa vụ của Thẩm phán Việt Nam được quy định cũng kết hợp cả hai đặc thù
của mô hình tố tụng xét hỏi và tranh tụng.
1.2. Những nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến vị trí, vai trò
của Thẩm phán
Để thể hiện được sức mạnh của một nền pháp chế, đảm bảo được
quyền lợi của Nhà nước, cá nhân và tổ chức thì nhà làm luật đã xây dựng một
số nguyên tắc tố tụng tạo ra hành lang pháp lý cho việc áp dụng pháp luật tố
tụng khi giải quyết vụ án hình sự. Các nguyên tắc này đảm bảo cho việc mọi

tội phạm đều được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo
đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Vì vậy, trong
quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự, mọi biểu hiện không tuân thủ đều có thể dẫn đến sai lầm trong
quá trình giải quyết vụ án.

13
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định các nguyên tắc tố tụng cơ
bản áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong đó, Thẩm phán phải
nghiêm chỉnh tuân thủ các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3); bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật (Điều 5); không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9); xác định sự thật của vụ án
(Điều 10); bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(Điều 11); thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 15); khi xét
xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều
16); xét xử tập thể và quyết định thẹo đa số (Điều 17); việc xét xử của Toà án
được tiến hành công khai, trừ trường hợp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định (Điều 18); bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 19); Toà án
thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20); bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, nhân phẩm, quyền lợi của người bị oan (Điều
29); bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31); bảo
đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng;
Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân
tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong hàng loạt các nguyên tắc trên thì có ba nguyên tắc được coi là
cơ bản nhất đối với người Thẩm phán khi giải quyết vụ án hình sự mà chúng

tôi lựa chọn để phân tích dưới đây.
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế
Pháp chế là yêu cầu đặt ra với mọi nhà nước hiện đại. Hiến pháp nước
ta quy định: "nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" (Điều 12). Nội dung chủ yếu của pháp chế
là các hoạt động của nhà nước và xã hội đều dựa trên cơ sở pháp luật nghiêm

14
chỉnh chấp hành pháp luật [9, tr. 224].
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hoá tại Điều 3
BLTTHS: "Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành theo quy định
của Bộ luật này". Theo nguyên tắc này thì khi giải quyết vụ án hình sự mọi
hoạt động tố tụng của Thẩm phán phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục
quy định của BLTTHS bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội; không để lọt tội phạm không làm
oan người vô tội. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS được
coi là nhiệm vụ của Thẩm phán. Thẩm phán được làm những gì mà pháp luật
không cấm, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật đã trao
cho họ khi giải quyết vụ án hình sự. Nếu Thẩm phán không tuân theo nguyên
tắc pháp chế sẽ dẫn đến việc xét xử oan sai, vi phạm các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, làm tổn hại uy tín của hoạt động tư pháp, làm giảm lòng
tin của nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xét xử các thành viên trong Hội đồng xét
xử độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ và đưa ra các kết luận về sự việc phạm tội và người thực hiện tội
phạm. Trong quá trình nghị án Thẩm phán giải thích cho Hội thẩm Toà án
biết những quy định của pháp luật và đường lối xét xử cần được áp dụng xử
lý đối với vụ án đó nhưng Thẩm phán phải tôn trọng ý kiến, quan điểm của

Hội thẩm và Thẩm phán phải phát biểu và biểu quyết sau cùng để tránh
trường hợp Hội thẩm ỷ vào quyết định của Thẩm phán, chỉ việc đồng ý và
biểu quyết theo quan điểm của Thẩm phán. Trong trường hợp thành viên của
Hội đồng xét xử có ý kiến khác nhau thì vẫn có quyền bảo lưu ý kiến của
mình nếu ý kiến đó là thiểu số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý
kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào trong hồ sơ.

15
Độc lập xét xử không có nghĩa là xét xử tuỳ tiện mà độc lập trong
khuôn khổ pháp luật không được tách rời đường lối chính sách của Đảng.
Thẩm phán và Hội thẩm không được xa rời pháp luật, không có bất kỳ một
sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm
pháp luật nào.
Nguyên tắc này còn được thể hiện ở nội dung Hội đồng xét xử độc
lập với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân. Trong quá trình
xét xử cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân không được can thiệp
hoặc tác động đến thành viên của Hội đồng xét xử để họ phải xét xử theo ý
kiến chủ quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào
đều ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án, đều bị coi là bất hợp pháp. Sự
độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm Toà án khi xét xử còn được thể hiện
trong quan hệ giữa các cấp xét xử. Toà án cấp trên không được quyết định
hoặc gợi ý cho Toà án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Đồng thời
khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không bị phụ thuộc bởi
các nhận định những phán quyết của Toà án cấp dưới. Tính độc lập xét xử
còn được bảo đảm bằng những quy định khác của nhà nước như; chế độ quản
lý Toà án địa phương, chế độ bổ nhiệm Thẩm phán "Độc lập" và chỉ tuân
theo pháp luật khi xét xử có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm Toà
án khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết
để Thẩm phán và Hội thẩm Toà án độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là

mối quan hệ ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ
dẫn đến tình trạng xét xử tuỳ tiện, độc đoán. Tóm lại, đây là một trong những
nguyên tắc tố tụng quan trọng bậc nhất đảm bảo cho việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
1.2.3. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Sự thật của vụ án đó chính là diễn biến của sự việc phạm tội, hành vi

16
phạm tội có xảy ra hay không nếu có đã xảy ra như thế nào, ai là người tham
gia và toàn bộ các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Theo luật tố tụng hình
sự, xác định sự thật của vụ án thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án). Bởi vì cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng là đại diện cho nhà nước được áp dụng các biện
pháp mà luật tố tụng hình sự đã quy định, đó là phương tiện để xác định sự
thật khách quan của vụ án; mặt khác để buộc một người phải chịu trách
nhiệm hình sự trước nhà nước thì phải đưa ra chứng cứ chứng minh rằng họ
đã có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Do đó, bị can, bị cáo không có
nghĩa vụ chứng minh họ vô tội. Tất nhiên, BLHS cũng không có điều luật
nào quy định cấm bị can, bị cáo không có quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ để
bảo vệ quyền lợi của mình, bảo vệ sự vô tội của mình. Chung quy lại mọi
hoạt động tố tụng, áp dụng biện pháp tố tụng của các cơ quan điều tra khi
giải quyết vụ án hình sự đều nhằm mục tiêu tìm ra sự thật khách quan của vụ
án từ đó để truy tố, xét xử đối với người có tội. Đối với Thẩm phán khi được
giao nhiệm vụ giải quyết một vụ án cụ thể, đáp số cuối cùng, mục tiêu cuối
cùng mà người Thẩm phán phải tìm ra đó là sự thật khách quan của vụ án.
Nếu người Thẩm phán không tìm ra được sự thật khách quan của vụ án mà
cố tình đưa vụ án đó ra xét xử hoặc đình chỉ vụ án thì cả một hệ luỵ kéo theo
rất nặng nề: người không có tội thì bị xét xử và phải chịu hình phạt, người có
tội thì lại nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật
Sự thật của vụ án phải được xem xét một cách toàn diện

,
tức là phải
xem xét hành vi phạm tội trên các mặt cấu thành tội phạm, không tách rời
nhau. Đối với vụ án mà bị can bị cáo là người chưa thành niên phạm tội thì
còn phải xem xét về tuổi, trình độ phát triển thể chất, tinh thần, mức độ nhận
thức về hành vi phạm tội, điều kiện môi trường sống, giáo dục của nhà
trường, có người xúi giục hay không, nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ

17
theo thẩm quyền để truy tố bị can ra trước toà, qua thẩm vấn công khai tại
phiên toà Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, Hội đồng xét xử
trả hồ sơ điều tra bổ sung vì lý do không thấy dấu hiệu phạm tội hoặc bị cáo
phạm một tội khác điều đó cho thấy để tìm ra sự thật khách quan của vụ án
thì các tài liệu chứng cứ vật chứng phải được đem ra thẩm tra công khai tại
phiên toà, khi thấy chứng cứ tài liệu phù hợp với nhau mới được coi là chứng
cứ để giải quyết vụ án, quan điểm, đường lối giải quyết vụ án của các cơ
quan tiến hành tố tụng phải độc lập, không phụ thuộc vào nhau, bản án hoặc
quyết định của Hội đồng xét xử là kết luận cuối cùng.
1.3. Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng
1.3.1. Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng
Thẩm phán giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng và
tất cả các vụ án khác nói chung. Xem xét mối quan hệ của Thẩm phán với
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng sẽ cho chúng
ta cái nhìn tổng quan hơn về vị trí, vai trò của Thẩm phán. Đây là mối quan hệ
đã được BLTTHS quy định rất rõ ràng. Bên cạnh mối quan hệ này Thẩm phán
còn có mối quan hệ hành chính với Chánh án, chánh toà, chánh văn phòng…
Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng bao
gồm: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Viện kiểm sát và Thư ký Toà án.

- Mối quan hệ của Thẩm phán với Thẩm phán: Mối quan hệ này phát
sinh trong hoạt động xét xử và trong hoạt động bình thường của một cơ quan
với nhau. Vì thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh là xét xử các vụ
án có mức án đến chung thân hoặc tử hình nên Hội đồng xét xử gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Khi đó Thẩm phán tham gia cũng phải
nghiên cứu hồ sơ, xem xét các vật chứng (nếu có), lên kế hoạch xét hỏi…Tóm
lại cũng giống như Thẩm phán Chủ toạ phiên toà, nhưng chỉ khác không giữ
vai trò điều khiển phiên toà và giữ kỷ luật tại phiên toà.

18
Ngoài mối quan hệ này ra, còn mối quan hệ giữa Thẩm phán Chủ toạ
phiên toà với Thẩm phán dự khuyết: Theo qui định của pháp luật thì Thẩm
phán muốn được trở thành Thẩm phán dự khuyết phải được ghi tên ngay
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm phán dự khuyết phải có mặt tại
phiên toà kể từ khi phiên toà bắt đầu xét xử thì mới có thể thay thế Thẩm phán
Chủ toạ phiên toà. Điều 186 BLTTHS quy định thay thế thành viên của Hội
đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt:
1. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu
cho đến khi kết thúc.
2. Trong quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục
tham gia xét xử được thì Toà án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán,
Hội thẩm dự khuyết. Thẩm phán hoặc Hội thẩm dự khuyết phải có mặt tại
phiên toà từ đầu thì mới được tham gia xét xử. Trong trường hợp Hội đồng
xét xử có 2 Thẩm phán mà Thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham
gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ
phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.
Mặc dù luật không quy định cụ thể về việc Thẩm phán Chủ toạ phiên toà
phải giao hồ sơ cho Thẩm phán dự khuyết nghiên cứu như thế nào, tuy nhiên
trên thực tế Thẩm phán Chủ toạ phiên toà phải giao hồ sơ cho Thẩm phán dự
khuyết nghiên cứu để đảm bảo sao cho Thẩm phán dự khuyết hiểu rõ hồ sơ vụ

án để có thể thay thế Thẩm phán Chủ toạ phiên toà trong trường hợp cần thiết.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm nhân
dân là người đại diện cho nhân dân tham gia vào công tác xét xử, giám sát
hoạt động của Toà án góp phần làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật,
công bằng và bảo đảm pháp chế. Hội thẩm nhân dân là người được bầu và
được cử theo quy định của pháp luật để cùng Toà án thực hiện nhiệm vụ xét
xử. Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 đều quy
định: Việc xét xử của Toà án có Hội thẩm nhân dân, Toà án quân sự có Hội

×