đại học quốc gia hà nội
KHOA LUT
l-ơng duy hinh
CC TI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở nghiên cứu thc tin trờn a bn thnh ph H Ni)
luận văn thạc sĩ luật học
Hà nội - 2013
đại học quốc gia hà nội
KHOA LUT
l-ơng duy hinh
CC TI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Lut Hỡnh s
Mó s
: 60 38 40
luận văn thạc sÜ luËt häc
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
Hµ néi - 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lương Duy Hinh
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH
7
VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.
Trật tự quản lý đất đai với tư cách là khách thể bảo vệ của luật
7
hình sự Việt Nam
1.2.
Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các tội phạm trong
13
lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự
1.2.1. Khái niệm các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
13
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm trong lĩnh vực quản lý
19
và sử dụng đất đai trong luật hình sự
1.3.
Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định về các
22
tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
22
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
28
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Chương 2:
CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ
35
DỤNG ĐẤT ĐAI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.1.
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
4
35
2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm
35
2.1.2. Hình phạt
52
2.2.
58
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
2.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm
58
2.2.2. Hình phạt
70
2.3.
Phân biệt các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất
đai với một số tội khác trong Bộ luật hình sự năm 1999
73
Chương 3:
79
THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH
VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI; MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HỒN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
3.1.
Thực tiễn xét xử các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử
dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
79
3.1.1. Đặc điểm tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
79
3.1.2. Kết quả xét xử các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
89
3.1.3. Những tồn tại, hạn chế trong xét xử các tội phạm trong lĩnh
vực quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố và những
ngun nhân của nó
95
3.2.
Nhu cầu hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai và nâng cao
hiệu quả áp dụng
101
3.3.
Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
105
3.3.1. Về dấu hiệu "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn
vi phạm"
105
3.3.2. Về dấu hiệu "đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm"
107
3.3.3. Về các dấu hiệu: đất có diện tích "lớn", "rất lớn", "đặc biệt
108
5
lớn"; đất có giá trị "lớn", "rất lớn", "đặc biệt lớn" và gây hậu
quả "nghiêm trọng", "rất nghiêm trọng", "đặc biệt nghiêm trọng"
3.3.4. Về cấu trúc điều luật
109
3.3.5. Về khung hình phạt
110
3.3.6. Về hình phạt
110
3.3.7. Tăng cường hiệu lực và thực thi các quy định pháp luật hình sự
111
3.4.
113
Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các tội
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn
thành phố Hà Nội
3.4.1. Nâng cao chất lượng tiếp nhận, xử lý thông tin và hiệu quả
113
điều tra các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
3.4.2. Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát và chất lượng thực hành
114
quyền công tố
3.4.3. Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án
115
3.4.4. Thực hiện tốt một số biện pháp hỗ trợ phòng ngừa tội phạm
116
KẾT LUẬN
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
119
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
CTTP
: Cấu thành tội phạm
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Phân biệt tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai với
74
bảng
2.1
tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng
2.2
Phân biệt tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai với
75
các tội phạm tham nhũng
2.3
Phân biệt tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
78
với tội Sử dụng trái phép tài sản
3.1
Tình hình vi phạm pháp luật do Cơng an thành phố khám
82
phá, phát hiện
3.2
So sánh tình hình tội phạm vi phạm các quy định về quản
83
lý và sử dụng đất đai với tình hình tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế, tội phạm về chức vụ và tổng số tội phạm
xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.3
Số vụ vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai
86
đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
3.4
So sánh giữa án xét xử sơ thẩm các tội phạm trong lĩnh
90
vực quản lý và sử dụng đất đai với tổng số án hình sự sơ
thẩm, các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và các tội
phạm về chức vụ trên địa bàn Hà Nội
3.5
Cơ cấu loại tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
91
đất đai trên địa bàn Hà Nội
3.6
So sánh kết quả giải quyết án phạm tội về sử dụng đất đai
92
trên địa bàn Hà Nội và cả nước
3.7
So sánh kết quả xét xử bị cáo phạm tội vi phạm các quy
93
định về sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội và cả nước
3.8
Đặc điểm nhân thân người phạm tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội và cả nước
8
93
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra những yêu
cầu to lớn đối với công tác quản lý nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế
- xã hội, trong đó, quản lý về đất đai là một nội dung quan trọng liên quan tới
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
vấn đề đất đai; ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ liên quan đến đất đai cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất
nước. Sự ra đời của Luật đất đai năm 2003 và các văn bản có liên quan góp
phần khơng nhỏ trong việc quản lý "lĩnh vực nóng" và được coi là nhạy cảm
này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cần thẳng thắn nhìn
nhận vẫn cịn khơng ít tồn tại, hạn chế nhất định trong cơng tác quản lý nhà
nước về đất đai, như: công tác quản lý đất đai ở nhiều địa phương cịn bị
bng lỏng; ý thức và hiểu biết pháp luật đất đai của nhiều tổ chức, cá
nhân cịn hạn chế; tình trạng một bộ phận cán bộ, cơng chức, người có thẩm
quyền trong các cơ quan nhà nước vì động cơ tư lợi cá nhân đã có hành vi làm
trái, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn… dẫn đến gây ra nhiều hậu
quả xấu về kinh tế - xã hội. Khi "tấc đất" ngày càng khẳng định giá trị là "tấc
vàng", những sai phạm về đất đai cũng ngày càng nhiều hơn. Liên tục xảy ra
những vụ án liên quan đến sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đai thời
gian qua, cho thấy loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng và phức
tạp. Sự phức tạp không chỉ thể hiện ở số người vi phạm, mức độ thiệt hại mà còn
là sự cấu kết của một số cán bộ có chức, có quyền, với những thủ đoạn hết sức
tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận cả nước, đủ yếu tố
cấu thành tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, địi hỏi cần có sự vào
cuộc sát sao, mạnh mẽ của các cấp, các ngành, trong đó, khơng thể khơng kể
đến vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải nghiêm khắc xử lý.
9
Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học kỹ
thuật và giao lưu quốc tế của cả nước. Những năm gần đây, cùng với tác động
của cơ chế thị trường và xu hướng đô thị hóa ở nhiều địa phương, trên địa bàn
thành phố đang ngày càng gia tăng số vụ vi phạm về quản lý và sử dụng đất
đai, mà đối tượng bao gồm cả đội ngũ cán bộ, cơng chức, người có thẩm
quyền trong các cơ quan nhà nước cho đến mọi người dân. Yêu cầu trên đặt ra
công tác quản lý và sử dụng đất đai một cách hiệu quả, hợp lý là mục tiêu
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố giai đoạn
2010 - 2020, tầm nhìn đến 2050 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố
lần thứ XV đã đề ra. Để đạt được những mục tiêu đó, cần phải có sự phối hợp
chặt chẽ của các cấp chính quyền, ban, ngành thành phố có liên quan. Bên
cạnh việc tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật về đất đai cho mọi tầng lớp nhân dân, phải đi đôi với việc xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm; truy cứu TNHS đối với những vụ việc đã đủ yếu
tố CTTP, nhằm lập lại trật tự kỷ cương ngay trong hệ thống các cơ quan nhà
nước và tại các địa phương. Giải quyết tình trạng này là một vấn đề khơng
đơn giản và nóng vội, u cầu chúng ta lần lượt chỉ ra từng nguyên nhân sâu
xa và đưa ra những giải pháp đồng bộ mới có thể từng bước khắc phục được.
Nhận thấy việc nghiên cứu về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và
sử dụng đất đai thực sự mang tính cấp thiết khơng những về lý luận, mà còn
là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống nhóm tội phạm này, tác giả chọn đề tài
nghiên cứu: "Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong
Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn
thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ thực trạng về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử
dụng đất đai trên phạm vi cả nước, cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến đề tài, có thể kể đến: Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm), của TSKH.PGS. Lê Văn Cảm chủ biên (2007);
10
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hịa chủ biên (2000); Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, của PGS.TS. Kiều
Đình Thụ (1998); Bình luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 1999, của Nguyễn Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010); Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), của ThS. Đinh Văn Quế
(2006); Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, của
Nguyễn Mai Bộ (2004) và nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học khác... Tuy
nhiên, hiện vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về các tội
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Trong công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh vực
cần được làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là cơ sở cho việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.
Nhìn chung, khơng chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới
đều dựa trên các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể để đưa
ra những thiết chế pháp luật riêng cho mình nhằm đấu tranh phịng, chống tội
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Chọn đề tài này tác giải
mong muốn góp tiếng nói nhất định trong q trình hồn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung, đẩy mạnh cơng tác đấu tranh phịng ngừa loại tội
phạm này nói riêng trên địa bàn Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cơng tác đấu tranh phịng, chống các
tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, nêu được thực trạng tình
hình vi phạm cũng như cơng tác đấu tranh xử lý nhóm tội phạm này. Qua đó,
chỉ ra được những vấn đề đang tồn tại, bất cập trong xử lý tội phạm; đề xuất
những giải pháp mang tính đồng bộ, có hệ thống về cơng tác phòng, chống tội
11
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước nói
chung và thành phố Hà Nội nói riêng cho phù hợp với sự phát triển của Thủ
đơ trong giai đoạn hiện nay, góp phần nâng cao tính khả thi trong q trình áp
dụng pháp luật trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những
quy định của pháp luật liên quan đến các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và
sử dụng đất đai; phát hiện những tồn tại, bất cập trong những quy định của
pháp luật cũng như thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm, để từ đó đưa ra
những kiến nghị, giải pháp, đề xuất hợp lý.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tội phạm trong lĩnh vực
quản lý và sử dụng đất đai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn công tác đấu tranh phòng,
chống các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn đấu tranh xử lý trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn
từ năm 2008 đến 2012).
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
5.2. Cơ sở thực tiễn
12
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai; các báo cáo tổng
kết, số liệu thống kê của các cơ quan có liên quan đến các tội phạm trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp luận biện chứng
lịch sử, kết hợp một số phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp nghiên cứu và xử lý
thông tin, phương pháp thống kê, phương pháp lôgic, phương pháp khảo sát
thực tế, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp phân tích - dẫn giải
các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là cơng trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý Việt Nam ở
cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống
về thực trạng đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và
sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đấu tranh xử lý trên địa bàn
thành phố Hà Nội). Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp
mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội phạm trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai;
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực quản lý
và sử dụng đất đai cả nước nói chung, trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
riêng. Phân tích, làm rõ những tồn tại và hạn chế trong xét xử các tội phạm
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội và
những nguyên nhân của nó;
- Xác định sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về
tội phạm trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai và nâng cao hiệu quả áp
13
dụng. Đồng thời đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm hồn thiện các
quy định pháp luật hình sự cũng như nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
chống, phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói
chung, trên địa bàn Hà Nội nói riêng.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa các tội
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước nói
chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu và các
kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp một phần vào kho tàng lý luận về luật
hình sự, cũng như cơng cuộc đấu tranh phịng, chống nhóm tội phạm có tính
phức tạp, nhạy cảm này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự
nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan Công an,
Viện kiểm sát, Tòa án, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và
sử dụng đất đai theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
theo Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội
phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội và nâng
cao hiệu quả áp dụng.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ
VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. TRẬT TỰ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ BẢO
VỆ CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Đất đai là một trong những bộ phận cấu thành lãnh thổ của mỗi quốc
gia. Nói đến chủ quyền quốc gia, không thể không nhắc đến lãnh thổ, mà nền
tảng pháp lý của nó chính là đất đai.
Trong tiến trình lịch sử của xã hội lồi người, con người và đất đai
ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đất đai tham gia vào tất cả các
hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội; là cơ sở hình thành làng mạc, khu đơ
thị, thành phố, các cơng trình cơng cộng, thể thao, văn hóa… và các ngành
sản xuất vật chất phục vụ cho nhu cầu của con người. Tuy nhiên, đối với từng
ngành cụ thể trong nền kinh tế quốc dân, đất đai có vị trí khác nhau: là nguồn
của cải, tài sản cố định; là thước đo nguồn lực giàu có của mỗi người, mỗi
quốc gia; là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính thơng qua sự
chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và là nguồn lực cho các mục đích sản
xuất và tiêu dùng.
Ở nước ta, việc quản lý đất đai đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm ngay từ những ngày đầu giành độc lập, thống nhất đất nước. Tại phần mở
đầu của Luật Đất đai năm 1993 đã ghi:
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống,
là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta
đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai
như ngày nay [53].
15
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCH thì nhu cầu sử dụng đất (nhất là đất đô thị)
của người dân, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội nhằm phục vụ cho việc
phát triển đất nước là rất lớn. Cho nên, có nhiều vấn đề đã nảy sinh trong quá
trình quản lý và sử dụng đất đai, như việc sử dụng đất không theo quy hoạch,
kế hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; sử dụng lãng
phí, sử dụng khơng đúng mục đích hoặc vi phạm các quy định về giao đất, thu
hồi, cho thuê, chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng, lấn chiếm đất… đang
diễn ra hết sức phức tạp. Có nơi, có lúc cịn để xảy ra tình trạng bng lỏng
quản lý dẫn đến hàng loạt các vi phạm nghiêm trọng trong việc sử dụng đất.
Thực trạng này đặt ra cho Nhà nước phải quan tâm hơn trong công tác quản lý
đất đai, tăng cường việc phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cố
tình vi phạm và lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm.
Công tác đấu tranh phịng, chống các vi phạm nói chung, tội phạm nói
riêng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nhằm giữ vững an ninh chính
trị và trật tự, an tồn xã hội ln là địi hỏi cấp bách trong sự nghiệp xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH của Đảng ta năm 1991 đã viết: "Kết hợp lực lượng chuyên
trách, nửa chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào quần
chúng. Kết hợp biện pháp phòng ngừa, giáo dục là cơ bản với trấn áp, trừng
trị các loại tội phạm" [36]. Thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, trước tiên
phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bảo đảm Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Theo đó, "pháp chế như là tính thiêng liêng của pháp luật, tính bền vững của
các quy phạm pháp lý… Pháp chế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, với
bình đẳng và với sự tuân thủ luật pháp, không một ai, không một người nào
có bất kỳ một đặc quyền nào trước pháp luật…" [73, tr. 100-102]. Đến lượt
mình, pháp chế bảo đảm sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã
hội, bảo vệ vững chắc các thành quả của cách mạng, phục vụ đắc lực công
cuộc đổi mới của xã hội. Pháp chế góp phần đưa pháp luật có hiệu lực, hiệu
16
quả thực sự trong thực tiễn; mọi công dân không phân biệt địa vị xã hội, dân
tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác… đều bình đẳng trước pháp luật; được pháp
luật bảo đảm, bảo vệ các quyền của công dân. Ngược lại, pháp luật đòi hỏi sự
tuân thủ nghiêm chỉnh của các chủ thể trong xã hội, khẳng định tính tối cao
của Hiến pháp và các đạo luật, mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành và
phải xử sự phù hợp với pháp luật.
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy
định về quản lý và sử dụng đất đai, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa
rất quan trọng, là một trong những điều kiện cơ bản để "ổn định xã hội, góp
phần đẩy mạnh q trình phát triển và tiến bộ xã hội, làm tiền đề cho sự
nghiệp đổi mới đạt những kết quả vững chắc, là một bộ phận quan trọng trong
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân…" [18, tr. 224-225]. Cùng với đó,
một nhiệm vụ cũng vơ cùng quan trọng, đó là phải tổ chức được mọi tầng lớp
nhân dân, cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội, đồn thể tham gia vào cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm về đất đai, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm đều bị
phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, tránh làm oan - sai người vơ tội.
Đóng vai trị là một công cụ pháp lý quan trọng trong cuộc đấu tranh
phịng, chống tội phạm nói chung, trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai
nói riêng, phải kể đến Luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất
trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, có chức năng bảo vệ các quan hệ xã
hội quan trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân và trật tự xã hội; quy định những hành vi nguy
hiểm cho xã hội nào là tội phạm, TNHS, hình phạt và các biện pháp pháp lý
hình sự cần áp dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm
cho xã hội đó. Song song với việc bảo vệ an ninh quốc gia, Luật hình sự cịn
bảo vệ các lợi ích khác của xã hội, đó là chế độ kinh tế, nền văn hóa, trật tự,
an tồn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… nhằm giữ
vững pháp chế, kỷ cương và bảo đảm trật tự pháp luật XHCN. Trong đó,
17
nhóm khách thể loại - các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế
được quy định và bảo vệ tại Chương XVI của Bộ luật hình sự (BLHS), cịn trật
tự quản lý đất đai là các quan hệ xã hội (khách thể) trực tiếp nằm trong số đó.
Trật tự quản lý kinh tế là các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định
và phát triển của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác, là sự quản lý của Nhà
nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước,
thơng qua pháp luật, chính sách, cơng cụ, mơi trường, lực lượng vật chất và
tài chính trên tất cả các lĩnh vực bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Nền
kinh tế đó phải là "nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế" được Nhà nước thực hiện bằng "chính sách
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [47, Điều 15].
Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm "trật
tự quản lý kinh tế" có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định giới hạn các
hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng
các biện pháp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và đấu tranh phịng, chống các tội
phạm trong lĩnh vực đó.
Trên cơ sở khái niệm "trật tự quản lý kinh tế", chúng ta có thể đưa ra
cách hiểu về "trật tự quản lý đất đai", đó là sự quản lý của Nhà nước về mọi
mặt đối với đất đai bằng quyền lực của Nhà nước, thơng qua pháp luật, chính
sách, mơi trường, lực lượng vật chất và tài chính, nhằm xác lập một trật tự
kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, bền vững, có tổ chức, đảm bảo cho việc
quản lý, sử dụng, phát triển quỹ đất, khai thác các lợi ích từ đất, giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất
đai, hướng tới bảo vệ chế độ "đất đai… thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17],
do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu và “thống nhất quản lý" [46, Điều 18].
Là quan hệ xã hội cụ thể nằm trong nhóm quan hệ về "trật tự quản lý
kinh tế" được điều chỉnh và bảo vệ bởi những quy phạm pháp luật nhất định
của Nhà nước, "trật tự quản lý đất đai" được coi là điều kiện, cơ sở để Nhà
nước quản lý vững chắc, an toàn, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên vô
cùng quý giá. Đây là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược quan trọng của
18
mỗi quốc gia, bởi nó đóng vai trị làm tiền đề để hình thành một nền kinh tế
quan trọng - nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, tạo việc làm, tạo môi trường sống cho dân cư, đồng thời còn đảm
bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đô thị và nông thôn
theo đúng quy hoạch và pháp luật. Cho nên, bằng cách này hay cách khác,
dưới bất kỳ hình thức nào, việc đảm bảo sự ổn định, kỷ cương, tăng cường
pháp chế trong quản lý và sử dụng đất đai không những là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đến
lượt mình, Nhà nước đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân phải tuân
thủ nghiêm chỉnh pháp luật và các quy tắc XHCN. Cho nên, dưới góc độ pháp
luật, tất cả các hành vi xâm phạm "trật tự quản lý đất đai" đều gây nên những
thiệt hại nhất định cho Nhà nước, tổ chức, công dân và gây mất ổn định trật tự
xã hội. Do đó cần thiết phải bị xử lý. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau, từ kỷ luật, xử
phạt hành chính đến xử lý hình sự.
Có thể nói, ngay từ khi giành được chính quyền, bên cạnh việc bảo vệ
thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng
và bảo vệ nền kinh tế của đất nước nói chung, các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng khơng chỉ trên phương diện ban hành
hàng loạt các văn bản có liên quan, mà cịn có những biện pháp thiết thực để
cụ thể hóa và đưa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống. Từ Hiến pháp năm
1959 quy định: "đất hoang… là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân"
[44 , Điều 12], Hiến pháp 1980: "Đất đai… là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu
toàn dân" [45, Điều 19] và "Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch
chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm" [45, Điều 20]; đến
Hiến pháp 1992 thì Nhà nước ta khẳng định nhất quán quan điểm: "đất
đai… là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17], "Nhà
nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm
sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả… Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm
19
bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử
dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật" [ 46, Điều 18].
Để bảo vệ "trật tự quản lý đất đai" với tư cách là khách thể quan trọng
của Luật hình sự, ngay từ lần pháp điển hóa BLHS đầu tiên của nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam năm 1985, đã được quy định tại Điều 180 (thuộc
Chương XIII- Các tội phạm về kinh tế). Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp
luật và nhận thức dưới góc độ khoa học pháp lý cho thấy: việc xây dựng tên
gọi của điều luật (Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai) và
mô tả các khách thể được ghi trong điều luật còn chung chung, chưa cụ thể,
dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, chính sách
hình sự và đường lối xử lý đối với người phạm tội tương đối nhẹ, khơng có sự
phân biệt tội phạm và hậu quả pháp lý giữa chủ thể đặc biệt (người có chức
vụ, quyền hạn) với chủ thể thường, do đó khơng đủ sức răn đe, phịng ngừa
chung, thậm chí cịn tạo kẽ hở cho một số cán bộ tha hóa, biến chất về đạo
đức nghề nghiệp trong các cơ quan tố tụng hình sự lợi dụng để bao che, làm
trái. Nhằm khắc phục những bất cập đó, trong lần pháp điển hóa BLHS năm
1999, nhà làm luật đã sửa lại tên, tách phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội
tại Điều 180 BLHS 1985 thành hai nhóm được quy định tại hai điều luật riêng
biệt với tên gọi khác nhau: tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều
174) và tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173). Sự thay đổi
này của BLHS 1999 đã khắc phục được sự thiếu chính xác về học thuật khoa
học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm
về trật tự quản lý đất đai của Nhà nước; đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng
tội, tương xứng với tính chất, hậu quả của tội phạm đã xảy ra, góp phần từng
bước hồn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng
cường pháp chế XHCN ở Việt Nam.
20
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai
Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý hình sự, tội phạm là một hiện
tượng tiêu cực nhất trong xã hội, đồng thời là "một hiện tượng xã hội - pháp lý
gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của
sở hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng" [5, tr.287].
Cho nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định
những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng chế tài (hình
phạt) đối với người đã thực hiện hành vi đó. Tội phạm ln chứa đựng trong
nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi
ích hợp pháp của con người.
Tội phạm tồn tại và phát triển cùng với lịch sử tồn tại, phát triển của
xã hội loài người. Đấu tranh phịng, chống tội phạm khơng chỉ địi hỏi phải
hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, mà cịn
làm sáng tỏ ngun nhân và điều kiện của nó để đưa ra các biện pháp phịng
ngừa mang tính xã hội và dựa trên những quy luật tất yếu gắn liền với từng
giai đoạn tương ứng của xã hội. Vì thế:
Đổi mới chính sách xã hội chính là một phương hướng quan
trọng góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong giai đoạn
mới…
Đây là một phương sách vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa hiệu
quả, kinh tế và nhân bản. Bản chất của phòng ngừa tội phạm, xét
cho cùng là tạo ra một mơi trường sống lành mạnh, trong đó mỗi
người có điều kiện phát triển tự do, hài hòa với cộng đồng và loại
bỏ nhiều nhất các yếu tố làm nảy sinh và phát triển những tiêu cực
xã hội [18, tr. 202, 204].
21
Nghiên cứu BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), các
nhà làm luật nước ta đã ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa [49, Điều 8].
Theo đó, chế độ kinh tế nói chung, trật tự quản lý đất đai nói riêng là
một trong những quan hệ xã hội quan trọng được Luật hình sự bảo vệ.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu khái niệm tội phạm trong định nghĩa lập
pháp nói trên, chúng ta nhận thấy các nhà làm luật Việt Nam mới chỉ đề cập
(chỉ ra) bốn dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản thuộc nội hàm của thuật ngữ, trong
khi đó, dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự thì "tội phạm" phải hội tụ đủ
năm dấu hiệu (đặc điểm) bắt buộc, được thể hiện trên ba bình diện, đó là:
- Bình diện khách quan (nội dung): tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội (1);
- Bình diện pháp lý (hình thức): tội phạm là hành vi trái pháp luật hình
sự (hành vi đó phải là hành vi xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ) (2);
- Bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS
(3), đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (4) thực hiện một cách có lỗi (5).
Như vậy, đối chiếu với định nghĩa được các nhà làm luật nêu tại Điều
8 BLHS, chúng ta thấy trong khái niệm này còn thiếu dấu hiệu (đặc điểm) cơ
bản thứ 4, đó là: tội phạm do người đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
22
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được
quy định trong BLHS, cũng như mức cao nhất khung hình phạt của tội đó, tội
phạm được chia thành bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Những
hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
khơng đáng kể, thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác (Khoản 3,4 Điều 8 BLHS).
Quay trở lại việc tìm hiểu về khái niệm tội phạm trong lĩnh vực quản
lý và sử dụng đất đai. Chúng ta đều biết: nền tảng của chính sách hình sự
trong việc bảo vệ các quan hệ xã hội về quản lý và sử dụng đất đai ở Việt
Nam, trước hết, đã được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
của Nhà nước ta - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Qua nhiều lần sửa
đổi, thay thế, đến nay Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định: "đất đai, rừng
núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất… đều thuộc sở hữu toàn
dân" [46, Điều 17] và "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy
hoạch và pháp luật" [46, Điều 18]. Chính sách hình sự cịn được thể hiện rõ
nét bằng việc chính thức ghi nhận loại tội phạm này trong BLHS năm 1985
(Điều 180 - tội Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai) và gần đây
nhất là BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã thể chế hóa
thành các tội danh cụ thể tại Điều 174 (tội Vi phạm các quy định về quản lý
đất đai) và Điều 173 (tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai), cùng
được đặt trong Chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Trước khi tìm hiểu khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử
dụng đất đai, chúng ta cần hiểu tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là gì?
Như đã phân tích ở trên, xuất phát từ khái niệm "trật tự quản lý kinh
tế" được hiểu là tổng hợp các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác, là sự quản lý của Nhà nước đối
với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, thơng qua
pháp luật, chính sách, mơi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả
các lĩnh vực, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Nếu xem xét vấn đề dưới
23
góc độ khoa học pháp lý về tội phạm, PGS. TS. Dương Tuyết Miên đưa ra
định nghĩa: "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của cơng dân qua việc vi phạm
quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế" [66, tr. 79]. Còn theo quan
điểm của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí lại cho rằng:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý xâm hại trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ
chức và cá nhân [6, tr. 329].
Như vậy, giữa các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có những quan
điểm chưa thực sự "đồng nhất" với nhau. Song, chúng ta có thể nhận thấy một
điểm chung trong các luận điểm của họ đều cho rằng: tội phạm xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế là các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội, đảm bảo
cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, mà tội phạm trong
lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai là một trong những tội phạm xâm phạm
đến nhóm các quan hệ xã hội đó. Tuy nhiên, để làm rõ khái niệm này, dưới
góc độ khoa học luật hình sự cần có sự nhận thức chính xác và đầy đủ, về bản
chất và dấu hiệu pháp lý của tội phạm đó.
Dưới đây, chúng ta cùng tiến hành tìm hiểu khái niệm về các tội phạm
trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai như sau:
* Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174).
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí định nghĩa:
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là việc người có
chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức
vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép
24
chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật mà cịn vi phạm [6, tr. 400].
Theo chúng tơi, định nghĩa này có điểm hợp lý là phù hợp với các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam, nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý thì
chưa nêu bật được các dấu hiệu thuộc về mặt hình thức, năng lực TNHS và
yếu tố lỗi của tội phạm, mà chủ yếu là mô tả hành vi thuộc mặt khách quan
của tội phạm.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội Vi phạm các quy
định về quản lý đất đai phải được xem xét trên cả ba bình diện, tương ứng với
việc thể hiện được đầy đủ năm dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của tội phạm như
đã phân tích ở trên. Do đó, khái niệm tội phạm này, theo chúng tôi, được hiểu
là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi,
cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất trái pháp luật, xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về đất
đai, do người có chức vụ, quyền hạn cố ý thực hiện, thuộc một trong ba
trường hợp: đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, đất có diện
tích lớn hoặc có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
* Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173).
Cũng theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, cho rằng: "Tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là việc người có hành vi lấn chiếm
hoặc chuyển quyền sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lý và
sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng" [6, tr. 397]. Định nghĩa này có ưu
điểm là đã chỉ rõ được khách thể trực tiếp mà tội phạm xâm phạm đến, nhưng
điểm hạn chế là mới chỉ mô tả được một số hành vi thuộc mặt khách quan của
tội phạm và chưa nêu được các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này. Vì vậy,
theo chúng tơi, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm này
cần hiểu là hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất
trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, do người có
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS cố ý thực hiện, gây hậu quả nghiêm
25