Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN NHẬT LỆ



NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN



HÀ NỘI - 2014






LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Nhật Lệ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 7
1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ 7
1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ 7

1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong
việc chứng minh tội phạm 10
1.2. Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ 20
1.2.1. Vật chứng 20
1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng 21
1.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia
trên thế giới 32
1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình tố tụng thẩm vấn 32
1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình tố tụng tranh tụng. 36
1.3.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình kết hợp tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. 41
Chương 2: NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ 47

2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ qua
các thời kỳ lịch sử 47
2.1.1. Nguồn chứng cứ trong pháp luật phong kiến Việt Nam 47
2.1.2. Nguồn chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến khi ban hành
BLTTHS năm 1988 52
2.1.3. Pháp luật Việt Nam về nguồn chứng cứ theo bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 57
2.2. Thực trạng sử dụng nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Việt Nam 64
2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ
trong các vụ án hình sự 64
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tế sử dụng nguồn chứng
cứ trong các vụ án hình sự 72

Chương 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO HIỆU
QUẢ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG
CỨ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 84
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự 84
3.2. Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định
nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự 91
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 92
3.3.1. Về khái niệm chứng cứ 93
3.3.2. Mở rộng nguồn chứng cứ 94
3.3.3. Xác định quyền thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự - Luật
sư, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ 96

3.3.4. Về các nguyên tắc thu thập chứng cứ 98
3.3.5. Về chế định giám định 99
3.3.6. Xây dựng Luật về chứng cứ nhằm nâng cao chất lượng xét xử án
hình sự 101
3.4. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả quy định pháp luật
về nguồn chứng cứ 103
KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109







DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


TT
Viết tắt
Nội dung từ
1.
BLHS
Bộ luật hình sự
2.
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
3.
CQĐT
Cơ quan điều tra
4.
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
5.
DVBC
Duy vật biện chứng
6.
KSV
Kiểm sát viên
7.
TA
Tòa án
8.
TNHS
Trách nhiệm hình sự
9.
VKS

Viện kiểm sát










DANH MỤC BẢNG


Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa 2009-2012
68




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đi cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay, vấn đề tội phạm đang
ngày một gia tăng và có những diễn biến hết sức phức tạp. Công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm luôn được Đảng và Nhà nước ta xem là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là hai mặt của nhiều
vấn đề mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân và toàn xã hội. Để phát hiện và
xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì
cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất
được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án.
Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, chứng cứ luôn là một vấn đề không thể
thiếu nhằm chứng minh một người có thực hiện hành vi phạm tội hay không.
Chỉ có chứng cứ hợp pháp mới có giá trị chứng minh tội phạm. Một trong
những điều kiện để chứng cứ được coi là hợp pháp là nó phải được rút ra từ
một trong các nguồn chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS
Việt Nam năm 2003. Việc nghiên cứu nguồn chứng cứ nói chung và nguồn
chứng cứ trong vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt
pháp lý mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng
để rút ra những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án.
Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải
thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các
cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính
xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự. Việc làm rõ lý luận và thực tiễn về

2
nguồn chứng cứ không chỉ giúp cho hoạt động nghiên cứu mà còn tạo điều
kiện để nâng cao kiến thức cho các cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức và cá
nhân hiểu đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ và nguồn chứng cứ.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
tính đến năm 2014, chiến lược cải cách tư pháp đã đi được gần hai phần ba

chặng đường, hoạt động cải cách tư pháp được các cơ quan nhà nước tiến
hành một cách mạnh mẽ và đạt được một số thành tựu đáng kể, trong đó có
các cải cách về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát
hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
Thực tế tố tụng hình sự nước ta thời gian qua cho thấy có không ít các
vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật
trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Điều này dẫn
đến giải quyết vụ án không chính xác, không ít vụ án hình sự mà những
chứng cứ được đưa ra để kết luận một người đã thực hiện hành vi phạm tội
của cơ quan tiến hành tố tụng còn có điểm gây nghi ngờ trong dư luận, nhiều
trường hợp đã kết án oan cho người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Những sai sót
này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó việc thu thập chứng cứ không
phải từ các nguồn chứng cứ hợp pháp là một trong những nguyên nhân làm
cho việc đánh giá và sử dụng chứng cứ không chính xác. Thông qua luận văn
này, tác giả hi vọng có thể đóng góp phần nào làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
“Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” là một đề
tài mới, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này. Chỉ có các công trình và các bài viết được đăng trên các báo, tạp
chí có nội dung liên quan như: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình

3
sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường năm 2003 của Trường Đại học Luật Hà Nội do ThS. Bùi Kiên Điện
chủ nhiệm đề tài; “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương, Luận án tiến sĩ
năm 2000; Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ trong BLTTHS Việt
Nam năm 2003, Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh, tạp chí kiểm sát số
12/2005; Nguồn chứng cứ: Lời khai của bị can, bị cáo, Vũ Xuân Thu, tạp chí

kiểm sát số 10/2001…
Như vậy, có thể nói ít có các công trình nghiên cứu một cách toàn
diện và sâu sắc về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam với hình thức là một đề tài độc lập, chuyên sâu. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là
một vấn đề cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng
cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phân tích, đánh giá những quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ. Qua đó, đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định về nguồn chứng cứ
trong pháp luật tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các
vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên
cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
1- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ (làm rõ
khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm “nguồn chứng cứ” với một số
khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương tiện chứng
minh…). Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
nguồn chứng cứ, có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước
trên thế giới;

4
2- Đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam về nguồn chứng cứ;
3- Chỉ rõ những hạn chế trong những quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam về nguồn chứng cứ;
4- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng
hình sự về nguồn chứng cứ và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc sử
dụng nguồn chứng cứ trong thực tế.

- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về
nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đánh giá thực tiễn áp
dụng và chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong quá trình áp dụng của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả giai đoạn
tố tụng: Điều tra; truy tố; xét xử vụ án hình sự; trong đó chủ yếu tập trung
trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật tố tụng hình sự Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác
xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về
vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng…
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn còn kết hợp với một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như các phương pháp: hệ thống; logic;
phân tích; tổng hợp; so sánh; khảo sát thực tế để chọn lựa tri thức khoa học,
kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Việt Nam, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.

5
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Việc làm rõ lý luận và thực tiễn của nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan
trọng trong việc giúp nâng cao nhận thức không chỉ của những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng mà còn đối với mọi tổ chức và cá nhân
về vấn đề nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự.
- Góp phần quan trọng để giải quyết vụ án hình sự một cách khách
quan, chính xác và đúng pháp luật.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ

luật học về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam mà
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan
tới nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm
mới cơ bản của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp
luật Việt Nam về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, trên cơ sở
có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới;
- Làm rõ khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm nguồn chứng
cứ với một số khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương
tiện chứng minh…;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình áp dụng các quy định
pháp luật về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự; những kết quả đạt
được, những tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định, nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự,
đảm bảo giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, chính xác, kịp thời.

6
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, lời cảm ơn và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
qua các thời kỳ lịch sử
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện và đảm bảo hiệu quả các quy
định của pháp luật về nguồn chứng cứ trong các vụ án
hình sự.



















7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ
1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ
Để nhận thức được về các sự vật, hiện tượng nói chung và nhận thức về
nguồn chứng cứ nói riêng, con người phải dựa vào cơ sở phương pháp luận
nhất định. Trong lịch sử nhân loại đã từng có các quan điểm khác nhau về
nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đã từng tồn tại
các quan điểm phi mác xít về vấn đề này như các quan điểm thần học, tôn
giáo, quan điểm hình thức, quan điểm nhân chủng học, quan điểm niềm tin

nội tâm của Thẩm phán…
Lịch sử đã chứng minh để nhận thức được chính xác các sự vật, hiện
tượng, con người cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa
trên phương pháp biện chứng khoa học, việc nhận thức về nguồn chứng cứ
trong các vụ án hình sự cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lý luận của chủ
nghĩa DVBC về nhận thức thế giới được sử dụng như là cơ sở khoa học của
nguồn chứng cứ và việc chứng minh thông qua những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, vụ án hình sự được phản ánh bởi con người và các vật. Chủ
nghĩa DVBC đã chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại và
chịu sự tác động lẫn nhau. Bằng sự tác động qua lại đó, sự tồn tại của sự vật,
hiện tượng này luôn để lại dấu vết ở sự vật, hiện tượng khác.
Theo BLHS Việt Nam thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt” [23, tr.50].
Theo khái niệm trên, “tội phạm trước hết là hành vi của con người, những gì

8
mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bằng hành vi thì không phải là tội
phạm, hành vi phạm tội là hành vi đã thực tế xảy ra trong thế giới khách quan
và là một hiện tượng thuộc thế giới khách quan” [23, tr.50]. Chính vì sự tồn
tại khách quan mà tội phạm cũng để lại các dấu vết nhất định. Bằng cách thu
thập các dấu vết để lại và thông qua chúng, con người có thể xác định được sự
thật khách quan của vụ án. Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của
từng loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập, bảo
quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau để đảm bảo cho việc xác định sự
thật khách quan của vụ án. Thủ tục thu thập kiểm tra nguồn chứng cứ vật chất
sẽ khác so với thủ tục kiểm tra nguồn chứng cứ phi vật chất.
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được sự thật khách quan của
vụ án hình sự. Chủ nghĩa DVBC khẳng định rằng con người có khả năng
nhận thức được thế giới khách quan. Trong sự tồn tại bất tận của thế giới

khách quan, nhận thức của con người là tương đối nhưng cùng với sự phát
triển của tự nhiên và xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật
cũng như sự phụ thuộc vào nhiệm vụ nhận thức cụ thể, nhận thức của con
người về thế giới khách quan ngày càng tiến dần đến tuyệt đối.
Trong TTHS, phải nói rằng tội phạm là một hiện tượng xã hội có muôn
hình, muôn vẻ. Tuy nhiên, các yếu tố có ý nghĩa pháp lý hình sự của một tội
phạm lại được xác định rất cụ thể. Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của tội
phạm mà người làm luật quy định đối tượng chứng minh, giới hạn các vấn đề
chứng minh ở một phạm vi nhất định. Đó là “sự việc phạm tội, người thực hiện
tội phạm, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân người phạm tội cũng như các
thiệt hại do tội phạm gây ra” [12, tr.43]. Như vậy, nhiệm vụ chứng minh trong
TTHS là rất cụ thể và được giới hạn trong phạm vi nhất định. Nhìn từ góc độ
nhiệm vụ tố tụng đặt ra, có thể nói việc chứng minh trong TTHS có thể đạt

9
được sự thật khách quan tuyệt đối. Nói cách khác, với quan điểm này thì bất kỳ
tội phạm nào xảy ra, con người đều có thể phát hiện và chứng minh được.
Thứ ba, học thuyết về nhận thức của CNDVBC là cơ sở phương pháp
luận đặc biệt quan trọng trong lý luận về nguồn chứng cứ trong luật TTHS
nước ta. Tinh thần cơ bản của học thuyết Mác – Lê nin về nhận thức là “từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức
hiện thực khách quan” [26, tr.179]. Từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động), con người thu nhận các thông tin về tội phạm, từ đó có sự kiểm tra,
đánh giá thông qua tư duy của mình, từ đó có kết luận về các tình tiết nói
riêng và về tội phạm nói chung. Học thuyết về nhận thức của CNDVBC là
học thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người;
cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý
thức. Ý thức của con người có khả năng phản ánh chính xác, khách quan hiện

thực khách quan, là xuất phát điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về nguồn
chứng cứ, cho lập pháp TTHS về nguồn chứng cứ và áp dụng các quy định
của pháp luật về nguồn chứng cứ trong thực tiễn.
Thực tiễn là thước đo của nhận thức. Mặc dù chứng minh trong TTHS
có những nét đặc trưng riêng, là nhận thức về một sự kiện đã xảy ra trong
quá khứ với phạm vi và giới hạn xác định. Tuy nhiên, quan điểm này của
học thuyết DVBC về nhận thức không phải là ngoại lệ của quá trình chứng
minh. Do quá trình chứng minh trong TTHS có những đặc trưng riêng nên
việc dùng thực tiễn làm thước đo trong nhận thức về tội phạm cũng mang
những nét đặc trưng riêng. Điều này thể hiện trong biện pháp thu thập chứng
cứ như các biện pháp khám nghiệm, giám định, thực nghiệm điều tra để tái
tạo lại thực tiễn tội phạm, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác và
kiểm tra lại nhận thức chung về tội phạm. Thông qua các nguồn chứng cứ

10
khác nhau, con người có sự đối chiếu, so sánh các chứng cứ để tìm ra chân
lý của sự việc.
Thứ tư, phương pháp biện chứng đặt nền móng cho việc áp dụng các quy
luật của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá
chứng cứ. Các nội dung quan trọng của phép biện chứng trong nhận thức như
nguyên tắc toàn diện, đầy đủ, cụ thể, hệ thống… đóng vai trò quan trọng trong
quá trình chứng minh. Phương pháp biện chứng của triết học Mác – Lê nin được
thể hiện tương đối đầy đủ tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
“Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm xác định và đánh giá mọi
chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng
hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án” [12, tr.45].
CNDVBC chỉ ra rằng khi xem xét thế giới khách quan, cần đặt trong sự
vận động, biến đổi không ngừng. Lê nin đã từng nói: thế giới tồn tại trong vận
động. Luận điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ,
không thể tách rời từng chứng cứ khi chứng minh tội phạm mà phải xem xét

đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ khác nhau
và đặt trong thực tế diễn biến vụ án.
1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong
việc chứng minh tội phạm
1.1.2.1. Khái niệm nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ trong TTHS là một trong những vấn đề được các nhà
lập pháp trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đề cập từ khá sớm,
trong lịch sử đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong khoa học
pháp lý, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng để đưa ra một khái niệm về nguồn
chứng cứ hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên
các quan niệm của họ luôn có sự mâu thuẫn nhất định. Sở dĩ có sự khác nhau
đó là do xuất phát từ những thế giới quan khác nhau, do trình độ phát triển
không đều về kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật

11
Chế định nguồn chứng cứ trong TTHS Việt Nam được ghi nhận lần đầu
tiên trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự được ban
hành kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TAND tối cao.
Theo đó, nguồn chứng cứ bao gồm: Dấu vết, đồ vật, tài liệu có thể chứng
minh việc phạm pháp; lời khai của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
người có trách nhiệm bồi thường, người có tài sản, quyền lợi có liên quan đến
việc phạm pháp, nhân chứng; lời kết luận giám định viên, những tài liệu của
cơ quan, đoàn thể cung cấp về nhân thân bị cáo. Pháp luật TTHS Việt Nam
hiện nay đã kế thừa các quy định và phát triển một số các loại nguồn chứng
cứ của Thông tư trên.
Có ý kiến cho rằng giữa nguồn chứng cứ và chứng cứ có quan hệ đến
việc sử dụng chứng cứ:
Từ những nguồn này, sau khi cơ quan tố tụng xác định nguồn
nào để chứng minh trong từng vụ án cụ thể thì nguồn chứng cứ ấy
trở thành chứng cứ… Giả dụ ta coi bàn tay úp sấp là nguồn chứng

cứ và cũng bàn tay ấy để ngửa là chứng cứ thì động tác xoay cổ tay
để bàn tay từ sấp thành ngửa được ví như quá trình điều tra, tư duy
để xác định nguồn chứng cứ nào có thể được dùng là chứng cứ để
chứng minh [8, tr.50].
Như vậy, theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ chính là chứng cứ.
Nó chỉ phụ thuộc vào việc có sử dụng hay không trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Chứng cứ được chia làm hai loại là chứng cứ vật chất và chứng cứ
phi vật chất.
Theo sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng thì “Chứng cứ phải được rút ra
từ những phương tiện chứng minh” [7, tr.75]. Ý kiến khác cho rằng “Nguồn
chứng cứ là những hình thức biểu hiện sự tồn tại của chứng cứ, được quy định
bởi các quy phạm pháp luật, mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ” [15, tr.59].

12
Theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ được hiểu theo hai khía cạnh: thứ
nhất, nguồn là hình thức biểu hiện của chứng cứ, cho phép ta nhận thức được
một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ; thứ hai, nguồn là nơi chứa đựng chứng
cứ mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ. Quan niệm này có nét gần gũi với
quan niệm cho rằng nguồn chứng cứ là cái rút ra được chứng cứ: “ nguồn
chứng cứ với nghĩa là nơi là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tìm ra được
những tình tiết có giá trị chứng minh về tội phạm” [9, tr.5].
Trong khi đó, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội cho rằng: “Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ thường
được gọi bằng thuật ngữ khác là phương tiện chứng minh” [24, tr.168]. Có thể
thấy rằng, việc sử dụng cụm từ “phương tiện chứng minh” thay thế cho cụm
từ “nguồn chứng cứ” như vậy là thiếu chính xác, bởi lẽ khái niệm nguồn
chứng cứ không đồng nhất với khái niệm phương tiện chứng minh. Nếu như
nguồn chứng cứ được hiểu là nơi mà từ đó các CQTHTT cũng như người
THTT có thể tìm ra chứng cứ trong vụ án hình sự, thì phương tiện chứng
minh được hiểu là chứng cứ được chủ thể sử dụng để chứng minh. Như vậy,

chứng cứ mới được coi là phương tiện chứng minh, còn nguồn chứng cứ
không thể là phương tiện chứng minh, mà chỉ là nơi mà từ đó có thể tìm ra đối
tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ thông qua hiểu rõ bản chất
của một sự vật, hiện tượng ta mới có thể nhận diện chính xác sự vật, hiện
tượng đó là gì? Để làm rõ khái niệm cũng như thuật ngữ nguồn chứng cứ, ta
cần phải hiểu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ. Để làm rõ bản chất của
nguồn chứng cứ, ta không thể không đề cập đến chứng cứ, bởi vì chứng cứ và
nguồn chứng cứ có mối quan hệ qua lại với nhau, chứng cứ và nguồn chứng
cứ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm
chứng cứ và nguồn chứng cứ như một số học giả quan niệm được. Có thể

13
hiểu, chứng cứ là thông tin, còn nguồn chứng cứ lại chứa đựng những thông
tin đó. Một nguồn chứng cứ có thể chứa đựng nhiều thông tin khác nhau về
vụ án hình sự. Ngược lại, một thông tin phản ánh về vụ án cũng có thể chứa
đựng trong nhiều nguồn chứng cứ khác nhau. Chứng cứ là thông tin, chúng ta
không thể cầm nắm được chứng cứ mà nó phải được chứa đựng dưới các
dạng nguồn chứng cứ thích hợp. Nguồn chứng cứ chính là nơi chứa đựng
chứng cứ, là vật mang thông tin. Nguồn chứng cứ là nguồn cung cấp những
thông tin quan trọng, mà từ đó có thể rút ra được những chứng cứ có giá trị
chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Từ những phân tích trên, có thể rút
ra được một số đặc điểm về nguồn chứng cứ như sau:
Thứ nhất, nguồn chứng cứ là nguồn chứa đựng các thông tin tồn tại một
cách khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người và có liên quan đến vụ
án. Các thông tin trên chỉ có thể trở thành chứng cứ để chứng minh tội phạm
nếu nó có đầy đủ các thuộc tính của một chứng cứ, gồm tính khách quan, tính
liên quan và tính hợp pháp.
Thứ hai, nguồn chứng cứ là căn cứ để xác định tính hợp pháp của
chứng cứ. Một chứng cứ được coi là hợp pháp khi nó được rút ra từ một trong

các loại nguồn chứng cứ hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, nguồn chứng cứ được các cơ quan và người có thẩm quyền thu
thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội, “Nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng chứng cứ, tức chứa đựng
các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tế khách quan, liên quan đến vụ án và
được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định” [24, tr.168]. Khái
niệm này đã phần nào nêu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ, tuy nhiên nó
chưa phản ánh hết bản chất của nguồn chứng cứ, chưa chỉ hết ra được mối
quan hệ giữa nguồn chứng cứ với chứng cứ, chưa chỉ được ra ý nghĩa của
nguồn chứng cứ đối với hoạt động tố tụng hình sự.

14
Như vậy, có thể thấy rằng nguồn chứng cứ là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm, nhìn nhận ở nhiều góc nhìn khác nhau. Qua đây, tác giả
cũng xin đưa ra một khái niệm về nguồn chứng cứ như sau:
Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự được hiểu là nơi chứa
đựng những thông tin tồn tại một cách khách quan,có liên quan đến vụ án
hình sự, được các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp
của chứng cứ đối với mỗi vụ án hình sự cụ thể, góp phần giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự.
1.1.2.2. Vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm
Nguồn chứng cứ là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong hoạt
động TTHS, đóng vai trò quan trọng xuyên suốt trong suốt các giai đoạn điều
tra, khởi tố, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Các CQTHTT muốn xác định có
hành vi phạm tội hay không, ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội bắt
buộc phải dựa vào các chứng cứ của vụ án. Có thể nói nguồn chứng cứ trong
pháp luật TTHS là vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao.
Thứ nhất, nguồn chứng cứ là nơi cung cấp phương tiện để các CQTHTT

xác định được sự thật của vụ án: Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố
tụng, CQĐT, VKS và Toà án khi giải quyết các vụ án hình sự cần xác minh
những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được tiến hành xem xét. Để
giải quyết vụ án, cần phải khẳng định được rằng tội phạm đã xảy ra, xác định
được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành
vi đã thực hiện, tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện
thực khách quan. Để làm được điều đó, CQTHTT phải dựa vào chứng cứ
được thu thập từ những nguồn chứng cứ hợp pháp.
Nguồn chứng cứ là nơi cung cấp phương tiện chứng minh tội phạm,
xác định các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án hình sự. Thông qua

15
các tài liệu, chứng cứ, các sự kiện thực tế được xác định, khẳng định và đồng
thời cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Rõ ràng
vai trò, giá trị của nguồn chứng cứ là rất quan trọng, là cơ sở duy nhất, là nơi
cung cấp phương tiện để chứng minh tội phạm trong vụ án hình sự.
Khi giải quyết vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố
tụng, không chỉ CQĐT mà VKS và Toà án cũng cần tiến hành xác minh
những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được xem xét. Đối với hoạt
động xét xử của Tòa án, nguồn chứng cứ có vai trò và vị trí đặc biệt quan
trọng, giúp cho các CQTHTT phát hiện và xác định tội phạm cũng như người
phạm tội một cách nhanh chóng, kịp thời, đề ra biện pháp xử lý phù hợp,
đúng quy định của pháp luật. Thông qua nguồn chứng cứ, KSV thực hành
quyền công tố trước Toà khai thác các thông tin cần thiết từ đó đưa ra lời
buộc tội đối với bị cáo, còn người bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ
lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo.
Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến
hành trên cơ sở của các nguồn chứng cứ, từ các nguồn chứng cứ đó để tìm ra
các chứng cứ, dựa vào đó để làm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh
trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận

chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, các CQTHTT có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ
án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách
quan của sự việc.
Thứ hai, nguồn chứng cứ là căn cứ để các CQTHTT ra các quyết định
cần thiết để giải quyết đúng đắn vụ án: Việc nhận thức được sự thật của vụ án
là cơ sở để những người THTT ra những quyết định đúng đắn để giải quyết vụ
án. Như vậy, xét về nội dung, nguồn chứng cứ là nơi duy nhất cung cấp
phương tiện để xác định sự thật của vụ án và về mặt hình thức, nguồn chứng cứ

16
là nơi cung cấp các chứng cứ làm căn cứ để ra các quyết định tố tụng cần thiết
nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Tất cả các quyết định tố tụng của
CQTHTT đều phải có căn cứ theo luật định, và để xác định được các căn cứ
này phải dựa vào chứng cứ. Điều 100 BLTTHS quy định: “Chỉ được khởi tố vụ
án khi xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm” [12, tr.64]. Thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm cho thấy rằng các cơ quan có thẩm quyền chưa thể biết
ngay được ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi phạm tội đó đã
diễn ra như thế nào nếu chỉ nhận được tin báo tội phạm xảy ra. Để xác định
được tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, các CQTHTT cần thu thập
chứng cứ từ những nguồn chứng cứ hợp pháp từ đó đánh giá, suy luận và đưa
ra những kết luận có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Trong quá trình tố tụng, tùy thuộc vào phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình, các CQĐT, VKS, Tòa án giải quyết vụ án bằng những quyết định tố tụng
khác nhau. CQĐT với chức năng điều tra có trách nhiệm thu thập chứng cứ, lập
hồ sơ vụ án để làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử của VKS và Tòa án. Mặt
khác, dựa trên các chứng cứ đã thu thập được, CQĐT đưa ra những đánh giá,
những quan điểm của mình đối với vụ án như đề nghị VKS truy tố bị can hoặc
đình chỉ điều tra. Để khởi tố bị can đối với một người phải đảm bảo điều kiện
“khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội” [12,

Điều 126]. Những căn cứ này cũng phải được xác định, được chứng minh bằng
các hoạt động điều tra trước đó. VKS trên cơ sở xem xét, đánh giá những
chứng cứ trong hồ sơ vụ án để ra quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng
hoặc đình chỉ vụ án. Trong bản cáo trạng phải ghi rõ những chứng cứ xác định
tội trạng của bị can; những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ; nhân thân của bị
can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Bản án và
các quyết định khác của Tòa án cũng phải trên cơ sở chứng cứ. Bản án chỉ
được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.

17
VKS và Tòa án chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ đã
được CQĐT thu thập trong quá trình điều tra, nhưng vẫn có thể tiếp tục thu
thập thêm những chứng cứ mới. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HĐXX có
thể chấp nhận yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật
chứng, tài liệu mới. Những người tham gia tố tụng cũng có thể thay đổi lời
khai khác với lời khai ở giai đoạn điều tra. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền bổ sung xem xét chứng cứ mới. Điều
246 BLTTHS quy định “Chứng cứ cũ và chứng cứ mới, tài liệu đồ vật mới bổ
sung đều phải được xem xét tại phiên tòa…” [12, tr.143].
Nguồn chứng cứ không chỉ là nơi cung cấp các căn cứ để các CQTHTT
ra những quyết định tố tụng nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội dung vụ
án mà còn cung cấp căn cứ để các CQTHTT ra những quyết định áp dụng
biện pháp cưỡng chế tố tụng. Để áp dụng các biện pháp ngăn chặn hay các
biện pháp cưỡng chế khác đều phải có căn cứ theo luật định, và việc xác định
các căn cứ đó phải dựa vào chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ hợp
pháp. Chỉ khi dựa vào nguồn chứng cứ theo quy định của pháp luật, các
CQTHTT mới có đầy đủ chứng cứ để khẳng định những căn cứ nêu trên, mới
có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế. Nếu không,
quyết định đó bị coi là không có căn cứ, vi phạm pháp chế và vi phạm vào
quyền tự do, dân chủ của công dân.

Thứ ba, nguồn chứng cứ còn có ý nghĩa là nơi cung cấp căn cứ để ra
các quyết định tố tụng mà các quyết định đó sẽ ảnh hưởng đến trình tự tố
tụng của một vụ án cụ thể. VKS và Tòa án có thể ra quyết định trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung nếu “thiếu những chứng cứ quan trọng mà VKS và Tòa
án không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội
phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; khi phát hiện có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng” [12, Điều 168, tr.109], những vi phạm này cũng phải

18
được chứng minh bằng chứng cứ. Các quyết định tạm đình chỉ điều tra hay
phục hồi điều tra của CQĐT; quyết định tạm đình chỉ vụ án của VKS và của
Tòa án, quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại của Tòa án cấp
phúc thẩm cũng phải dựa trên cơ sở chứng cứ để xác định có hay không có
căn cứ để ra quyết định đó.
Sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
việc chứng cứ trong vụ án đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá như thế nào
cũng được coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. Bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị
giám đốc thẩm vì “Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không
đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình
tiết khách quan của vụ án” [12, Điều 273] hoặc bị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm nếu “lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời dịch
của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không
đúng sự thật” [12, Điều 291]. Khi có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm, bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ bị xét lại và có thể bị
hủy để điều tra hoặc xét xử lại. Lúc đó, trình tự tố tụng sẽ quay trở lại giai
đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm tùy thuộc vào quyết định của
Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thứ tư, nguồn chứng cứ là phương tiện để người tham gia tố tụng
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình: Để có thể bào chữa cho bị

can, bị cáo, người bào chữa phải sử dụng những chứng cứ gỡ tội để chứng
minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn tội bị truy cứu;
những chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ TNHS cho họ. Người bào chữa
cũng sử dụng chứng cứ để bác bỏ những chứng cứ buộc tội đối với bị can, bị
cáo. Quyền đưa ra chứng cứ của người bào chữa được quy định tại Điều 58
BLTTHS. Để thực hiện được quyền đưa chứng cứ để bào chữa cho bị can, bị

×