Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 97 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LỤC THỊ ÚT





TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN
HÀNG CẤM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)






luận văn thạc sĩ luật học









Hà nội - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LỤC THỊ ÚT





TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN
HÀNG CẤM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Luyện




HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Lục Thị út












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG
TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
8
1.1.
Khái niệm hàng cấm; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm
8
1.1.1.
Khái niệm hàng cấm
8
1.1.2.
Khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
10
1.2.
Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
13
1.2.1.
Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
14
1.2.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
15
1.2.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
17
1.3.

Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm tại Điều 155 Bộ luật hình sự
năm 1999
19
1.3.1.
Khách thể của tội phạm
19
1.3.2.
Mặt khách quan của tội phạm
20
1.3.3.
Mặt chủ quan của tội phạm
23
1.3.4.
Chủ thể của tội phạm
24

5
1.4.
Đường lối xử lý đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự
27

Chương 2: TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN
HÀNG CẤM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
30
2.1.
Đặc điểm về địa lý dân cư, kinh tế - xã hội của tỉnh Cao Bằng
có liên quan đến tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán

hàng cấm
30
2.2.
Tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ năm 2009 - 2013
32
2.2.1.
Kết quả hoạt động điều tra
32
2.2.2.
Kết quả hoạt động truy tố
34
2.2.3.
Kết quả hoạt động xét xử
37

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI PHẠM SẢN XUẤT, TÀNG
TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM
56
3.1.
Hoàn thiện pháp luật hình sự quy định về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
56
3.1.1.
Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về phòng chống
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
56
3.1.2.

Hoàn thiện bộ luật hình sự quy định về tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm
58
3.2.
Giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng
62
3.2.1.
Nâng cao chất lượng hoạt động phát hiện điều tra tội phạm
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
62
3.2.2.
Nâng cao hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc phát hiện, xử lý, truy tố tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm của Viện kiểm sát
65

6
3.2.3.
Đổi mới hoạt động xét xử tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm

3.2.4.
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong điều tra, xử lý tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm
69

KẾT LUẬN
72


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
76

PHỤ LỤC
83


7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
: Bộ luật Hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa


8
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, đất nước ta chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Với đường lối của Đảng và Nhà nước
ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Công cuộc đổi mới toàn diện đó, xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sự vận hành kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đã và đang đem lại sự chuyển
biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã có
nhiều khởi sắc với những biến đổi quan trọng.
Những thành tựu đã đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Cùng
với những chủ trương, chính sách phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội, Nhà
nước ta luôn quan tâm đến các biện pháp bảo đảm quyền tự do, bình đẳng
trước pháp luật, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, tăng
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Nhà
nước tạo sự tự chủ cho các tổ chức và cá nhân, tập thể đăng ký, hoạt động
kinh doanh ngoài những ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức,
thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân. Tuy nhiên, do đặc
thù của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh và những yếu kém trong
quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm về kinh tế có môi trường
phát sinh, phát triển, trong đó có tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm.

9
Bên cạnh những hoạt động kinh doanh hợp pháp, vẫn còn những hoạt

động kinh doanh các ngành nghề, mặt hàng Nhà nước cấm, tạo nên sự mất cân
đối trên thị trường ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế và ảnh
hưởng tới tình hình an ninh trật tự. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, việc đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm nói riêng đang là một trong
những vấn đề cấp thiết đặt ra mà Đảng, Nhà nước cùng các ngành, các cấp cần
phải quan tâm giải quyết. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ
đạo sát sao công tác đấu tranh phòng, chống sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm. Các ngành, các cấp, đã có nhiều cố gắng triển khai các biện pháp
đấu tranh phòng ngừa, phát hiện xử lý nhưng hiệu quả thấp và còn nhiều hạn
chế. Vì vậy, để đấu tranh, phòng chống tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm sẽ thực hiện như thế nào? Cơ sở lý luận về hình sự hóa, khái
niệm hàng cấm, quy định tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
trong Luật Hình sự như thế nào và nhận thức về hàng cấm trong thực tiễn ra sao,
cũng như chúng ta cần có những biện pháp nào để đấu tranh phòng, chống tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có hiệu quả trên cả nước nói
chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng? Đây là những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Cao Bằng là một trong những tỉnh biên giới xuất hiện về tình hình buôn
lậu, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Hoạt động sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong
thời gian gần đây không chỉ có chiều hướng tăng về số lượng, chủng loại mà
còn diễn biến phức tạp về cả tính chất, quy mô. Đối tượng phạm tội có rất
nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, táo bạo và có tính chất rất quyết liệt.
Trong khi đó, hoạt động điều tra xử lý tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
trước tình hình thực tế tại địa phương, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự
và sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế xã hội.

10
Tình hình trên đã đặt ra một vấn đề rất bức thiết là phải có những giải

pháp hữu hiệu, phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh, phòng chống tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm. Để xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội,
tạo lòng tin trong nhân dân và điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh
tế xã hội tại địa phương cũng như của đất nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm vẫn chưa được
thực hiện một cách có hệ thống và chuyên sâu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Vì vậy tác giả chọn đề tài: "Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn
địa bàn tỉnh Cao Bằng)" làm Luận văn thạc sĩ Luật học là cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh, phòng chống, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
nói chung và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm nói riêng đã
được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) và được một số nhà Luật học đề
cập một cách khái quát trong các bài giảng như Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(phần các tội phạm), của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, 2011; Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, tập II, của Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân; Bình luận khoa học Bộ luật Hình
sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện,
LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại,
ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. Tuy nhiên các
công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, chưa đề cập một
cách trực tiếp, tổng thể và phương hướng hoàn thiện loại tội phạm này. Tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm chưa được quan tâm đúng mức,
các nghiên cứu về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển buôn bán hàng cấm thường

11
mới chỉ đề cập, tập trung nghiên cứu chung với các tội phạm khác liên quan đến

các đối tượng hàng cấm cụ thể đã được quy định tại các điều luật cụ thể khác
hoặc việc nghiên cứu thực trạng tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm đã được thực hiện trong nhiều báo cáo khoa học, các bài báo, tạp
chí, khóa luận trên nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Một số khác đặt việc
nghiên cứu tội phạm tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong sự liên quan
đến các loại tội phạm khác như buôn lậu, trốn thuế, vận chuyển hàng hóa, tiền tệ
trái phép qua biên giới hoặc ở những nội dung khái quát khác liên quan tội phạm
kinh tế nói chung. Trong thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử cũng có tổ
chức tổng kết, nghiên cứu nhiều vụ án điển hình về sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm trong phối kết hợp liên ngành cũng như các đơn vị
cấp độc lập nhưng còn mang tính chất báo cáo, rút kinh nghiệm. Cho đến nay
chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện được giải pháp
hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm nâng cao hiệu quả khi xử lý tội phạm này. Vì
vậy, cần phải nghiên cứu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm tương đối có hệ thống, toàn diện từ góc độ lý luận và thực tiễn, trên cơ sở
đó đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cầm ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống giải pháp hoàn
thiện pháp luật nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ
cụ thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm hiện nay ở Việt Nam.

12
- Phân tích các quy định của BLHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán hàng cấm.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự
đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ở tỉnh Cao
Bằng, làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng
mắc trong điều tra, truy tố, xét xử.
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS và giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của BLHS về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận,
pháp lý và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm ở Việt Nam hiện nay, trực tiếp là hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Tập trung nghiên cứu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm theo Điều 155 Chương XVI BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009).
- Nghiên cứu khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.
- So sánh tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với
tội buôn lậu.
- Đồng thời, luận văn cũng đi sâu nghiên cứu hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm này trong vòng 5 năm từ năm 2009 đến hết năm 2013 trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN

13
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và những quan điểm cơ bản của

Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia
và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Để phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề
tài, luận văn sử dụng một cách linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên
cứu cụ thể, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, lôgíc, kết hợp với các
phương pháp khác như tổng kết thực tiễn, chuyên gia, điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn
Qua kết quả nghiên cứu và phân tích, đánh giá tình hình tội phạm đối
với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, tác giả đã chỉ ra
những vướng mắc, bất cập, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử loại tội
phạm này. Đồng thời, đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.
Những kết quả đạt được của luận văn, các cơ quan chức năng tỉnh Cao
Bằng có thể nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả
áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề
xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển
khoa học luật hình sự nói chung, hoàn thiện về tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm nói riêng.
Luận văn đề cập các giải pháp phòng, chống có hiệu quả tội phạm sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm để các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp có thể tham khảo, hoàn thiện pháp luật xây dựng kế hoạch tổ
chức đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này.
Luận văn còn là tài liệu nghiên cứu tham khảo trong các trường đào
tạo pháp luật tại Việt Nam.

14
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm theo quy định của Bộ luật hình sự.
Chương 2: Tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
và thực trạng áp dụng pháp luật về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.









15
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM HÀNG CẤM; TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
BUÔN BÁN HÀNG CẤM
1.1.1. Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm là một loại hàng hóa nhưng do Nhà nước thống nhất quản
lý, cấm các cá nhân tự do sản xuất, buôn bán kinh doanh.
Dưới góc độ kinh tế, hàng hóa và sản xuất, buôn bán hàng hóa gắn liền
với hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm

mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất hàng
hóa là bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó
cũng phù hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các
thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa
dạng. Một số được tự do buôn bán kinh doanh để phục vụ nhu cầu hàng ngày
của con người nhưng một số mặt hàng do Nhà nước thống nhất quản lý cấm
các cá nhân, tổ chức buôn bán tự do. Tuy nhiên, những hàng hóa thuộc diện Nhà
nước thống nhất quản lý vẫn bị các cá nhân, tổ chức lén lút sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán do đó sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu đủ yếu tố
cấu thành tội phạm (CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Nhưng khái niệm hàng cấm
là gì vẫn chưa được quy định trong BLHS hay các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử về tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm, một vấn đề đặt ra cho các cơ quan chức năng là
phải hiểu rõ thế nào là hàng cấm và các loại hàng cấm để từ đó đưa ra những

16
quyết định, bản án phù hợp "đúng người, đúng tội" nhằm loại trừ các hành vi
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ra khỏi đời sống xã hội,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của mỗi người dân. Tuy nhiên, khái
niệm hàng cấm là gì chưa được BLHS và các văn bản pháp luật liên quan quy
định cụ thể, rõ ràng.
Để hiểu rõ về hàng cấm ngoài việc xem xét giá trị của hàng hóa nói
chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản quy định về hàng cấm và
các dấu hiệu của hàng cấm. Tuy nhiên, cho đến nay các quy định pháp lý về
hàng cấm còn nhiều bất cập hoặc chưa chỉ ra rõ ràng khái niệm hàng cấm và
quy định cụ thể các dấu hiệu trùng với các đối tượng hàng cấm đã được điều
chỉnh tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS. Điều này đã gây những khó
khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng
cấm dưới góc độ pháp lý.

Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập đến hàng cấm
là "hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh" [67]; nhưng khái niệm
này không nêu lên được đầy đủ hàng cấm gồm những loại nào dẫn đến nhiều
khó khăn trong việc nhận thức về chúng.
Chúng ta thấy khái niệm hàng cấm cần phải phản ánh được một số nội
dung cơ bản sau đây:
Hàng cấm là những sản phẩm, hàng hóa do Nhà nước thống nhất quản lý;
Chỉ ra được những dấu hiệu cơ bản của hàng cấm để phân biệt rõ với
nhưng đối tượng đã được điều chỉnh bởi các điều luật khác của BLHS;
Chỉ ra các tác hại của hàng cấm là gây thiệt hại về kinh tế, có khả
năng gây hại cho tính mạng, sức khỏe của con người.
Để ngăn chặn, phòng ngừa và đấu tranh chống hàng cấm Nhà nước ta
cũng như một số nhà khoa học đã đưa ra một số quan niệm về hàng cấm trong
các từ điển hoặc các văn bản có liên quan, chứ chưa quy định cụ thể, đầy đủ
nội hàm khái niệm hàng cấm.

17
Trước đây chưa có văn bản nào nêu ra khái niệm hàng cấm và các loại
hàng cấm, các nghị định trong thời gian gần đây quy định về danh mục và các
loại hàng hóa cấm lưu thông và kinh doanh.
Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/03/1999 của Chính phủ quy
định về danh mục các mặt hàng cấm lưu thông.
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định
về 18 loại hàng hóa cấm kinh doanh.
Nhưng hai Nghị định trên không có quy định cũng như giải thích từ
ngữ về hàng cấm.
Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định
về xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có quy định: "Hàng cấm
gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa

chưa được phép lưu hành, sử dụng ở Việt Nam" [14].
Khái niệm trên cũng chỉ quy định hàng cấm là hàng hóa gồm những
loại cấm kinh doanh, cấm lưu hành, sử dụng ở Việt Nam và hàng hóa chưa
được phép lưu hành, sử dụng ở Việt Nam. Quy định này còn mang tính chất
chung chung, chưa bao quát, chưa thể hiện được đầy đủ nội hàm khái niệm
hàng cấm.
Từ những phân tích trên và thực tiễn áp dụng pháp luật chúng ta có
thể đưa ra định nghĩa về hàng cấm như sau: Hàng cấm là những hàng hóa
Nhà nước thống nhất quản lý, không được phép sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán.
1.1.2. Khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm
Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân
được Nhà nước ta quy định tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013: "mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm" [43],

18
ngay từ khi xây dựng đất nước Nhà nước ta đã chỉ rõ mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân làm thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của
công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Quyền cơ bản của công
dân về mặt kinh tế được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật, tuy nhiên nếu bất kì
cá nhân, tổ chức nào vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Trong thực tiễn hiện nay bên cạnh các hoạt động kinh doanh hợp
pháp, các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp vẫn diễn ra và ngày càng có
chiều hướng gia tăng, do sức ép của nền kinh tế thị trường cũng như sự yếu
kém trong quản lý kinh tế của Nhà nước. Hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm là một trong những hoạt động kinh doanh bất hợp
pháp, hoạt động này cùng với tình hình tội phạm nói chung có chiều hướng ngày
càng phát triển và tinh vi, khiến cho mất cân đối trên thị trường. Các hành vi sản

xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội, vì nó xâm hại đến chế độ thống nhất quản lý về hàng cấm của Nhà nước
và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Hơn nữa vì lợi nhuận mang
lại từ việc sản xuất, buôn bán hàng cấm rất lớn mà nhiều người, nhiều cá nhân,
tổ chức hám lợi đã bất chấp những quy định của pháp luật, thực hiện hành vi
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, vi phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, xâm hại đến nền
kinh tế quốc dân. Những hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi
phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà còn phải bị coi là tội phạm và phải xử
lý, áp dụng chế tài hình sự. Do đó cần hiểu rõ như thế nào là "tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm" để xử lý, áp dụng chế tài thỏa đáng
nhằm đạt được mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ điển tiếng Việt có
đề cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: sản xuất hàng cấm, vận chuyển
hàng cấm, tàng trữ hàng cấm và buôn bán hàng cấm, từ đó có thể hiểu:

19
Sản xuất hàng cấm là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất,
tái chế, lắp ráp, pha trộn, sang chia, sang chiết, nạp, đóng gói và các hoạt
động khác làm ra hàng cấm.
Tàng trữ hàng cấm là cất giữ trái phép hàng cấm trong người, trong
nhà hoặc ở một nơi nào đó không kể thời gian bao lâu, không vì mục đích sản
xuất hay buôn bán.
Vận chuyển hàng cấm là việc đưa hàng cấm từ địa điểm này đến địa
điểm khác bằng các hình thức khác nhau mà không có giấy phép hợp lệ
nhưng không có mục đích buôn bán, tàng trữ.
Buôn bán hàng cấm là việc mua đi, bán lại hàng cấm nhằm mục đích
kiếm lời.
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) đã quy định tội

sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là một trong các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế và được quy định tại Điều 155 Chương XVI
BLHS như sau:
1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh có số lượng lớn, thu lợi bất chính
lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này
hoặc tại các điều 153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật
này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điều
193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì
bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;

20
b) Lợi dụng, chức vụ quyền hạn;
c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
đ) Hàng phạm pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất
chính rất lớn;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng
đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn, thì bị phạt tù từ tám
năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng
đến ba mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm [42].
Với quy định cụ thể như vậy khi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán hàng cấm đủ yếu tố cấu thành tội này, sẽ bị áp dụng chế tài hình sự
tương ứng với số lượng hàng cấm đã và đang sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán nhưng khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm chưa được quy định cụ thể trong điều luật trên.
Để dễ hiểu và thuận lợi hơn trong việc áp dụng pháp luật để xử lý các
hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thỏa đáng, theo
chúng tôi có thể nêu ra khái niệm tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm là hành vi trái pháp luật hình sự của người có năng lực
TNHS đã sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán với lỗi cố ý những hàng
hóa mà Nhà nước thống nhất quản lý, không được phép sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán tự do nên phải xử lý bằng hình sự.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH
VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Trong từng thời kỳ, căn cứ vào tình hình cụ thể mà Nhà nước quyết
định công bố danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, buôn bán. Ở Việt Nam,

21
Nhà nước cấm tư nhân và các tổ chức kinh doanh các chất ma túy, Nhà nước
thống nhất quản lý các hoạt động này, cấm sản xuất, buôn bán vũ khí và một
số quân trang, quân dụng, hiện vật thuộc di tích lịch sử văn hóa; các sản phẩm
văn hóa đồi trụy, phản động…tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh, tàng trữ
vận chuyển hàng cấm bị truy cứu TNHS. Điều này được thể hiện rõ trong các
giai đoạn lịch sử sau đây.
1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nhà nước ta đã quan tâm
ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đấu tranh hoạt động buôn lậu,
vận chuyển, tàng trữ, buôn bán hàng cấm. Sắc lệnh số 50 ngày 09/10/1945
về cấm xuất cảng ngũ cốc, Sắc lệnh số 160 ngày 21/8/1946 cấm nhập cảng
xe hơi, phụ tùng xe hơi, các máy móc và đồ vật bằng kim khí. Ngày

15/8/1951 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời số 116/TTg
quy định các hình thức xử phạt những vi phạm Điều lệ về xuất nhập khẩu.
Ngày 22/12/1952 Chính phủ ban hành Nghị định số 225 quy định tịch thu
thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển buôn bán trái phép, phạt tiền từ 1 đến
5 lần trị giá hàng hóa.
Sau khi miền Bắc được giải phóng, Chính phủ rất quan tâm đến vấn
đề ngăn chặn chống buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm. Ngày 03/7/1966,
Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 118/TTg về tăng cường quản lý thị trường,
đấu tranh chống đầu cơ, buôn lậu trong tình hình mới. Khi đất nước được giải
phóng thống nhất năm 1975, nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu, đầu cơ ngày
càng thêm phức tạp, khó khăn.
Ngày 30/6/1982, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh chống
đầu cơ, buôn lậu. Sau đó, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành
Nghị định số 46/HĐBT ngày 10/5/1983 quy định về xử lý hành chính đối với
các hành vi đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.

22
Năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 68/HĐBT ngày
25/4/1984 về việc chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới. Buôn lậu thời kỳ này được hiểu bao gồm các hành vi buôn bán hàng
cấm, buôn bán trốn lậu thuế. Quan niệm này được định nghĩa trong Từ điển
nghiệp vụ phổ thông Công an nhân dân: "Buôn bán hàng cấm là buôn bán lén
lút trái phép những hàng hóa thuộc diện Nhà nước thống nhất quản lý" [67];
Từ điển tiếng Việt năm 1992 giải thích: "buôn lậu là buôn bán trốn thuế hoặc
hàng cấm" [68].
Cùng với sự phát triển của đất nước, BLHS nước ta lần đầu tiên được
ban hành ngày 27/6/1985 đã pháp điển hóa các văn bản pháp luật để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống tội phạm. Sự ra đời của BLHS là
một bước tiến quan trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta. BLHS
đã góp phần nhận diện đúng bản chất, phân định rõ ranh giới giữa tội buôn

lậu, vận chuyển hàng cấm, tạo điều kiện phát hiện, phòng ngừa và đấu tranh
đúng hướng, đúng đối tượng, có hiệu quả đối với các hoạt động tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã quy định riêng biệt về tội buôn
bán hàng cấm tại Điều 166 như sau: "Người nào buôn bán hàng hóa mà Nhà
nước cấm kinh doanh, ngoại tệ hoặc buôn bán kim khí quý, đá quý thì bị phạt
tù từ 6 tháng đến 5 năm…" [38]. Buôn bán hàng cấm xâm phạm sự độc quyền
quản lý của Nhà nước đối với một số hàng hóa cấm tư nhân và các cơ quan, tổ
chức không có chức năng buôn bán, kinh doanh. Trong thời gian này, Nhà
nước cấm tư nhân và các cơ quan, tổ chức kinh doanh những mặt hàng như:
thuốc phiện và hoạt chất thuốc phiện; vũ khí và một số quân trang, quân dụng;
hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa và các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản
động; thuốc lá điếu của nước ngoài, ngoại tệ (theo Quyết định số 193-HĐBT

23
ngày 23/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về kinh doanh thương mại và du
lịch ở thị trường trong nước; Chỉ thị số 278/CT ngày 03/8/1990 của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng về việc cấm nhập khẩu và lưu thông thuốc lá điếu của
nước ngoài trên thị trường trong nước; Chỉ thị số 330/CT-HĐBT ngày
13/9/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường quản lý ngoại hối;
Quyết định số 337/HĐBT ngày 25/10/1991 về một số biện pháp quản lý ngoại
tệ trong thời gian trước mắt).
Tại Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20/11/1990 của Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp -
Bộ Nội vụ quy định: Lần đầu nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu
nước ngoài với số lượng dưới 500 bao thì chưa coi là tội phạm nhưng phải bị
xử lý hành chính. Trong trường hợp buôn bán thuốc lá ngoại với số lượng từ
500 bao trở lên hoặc dưới 500 bao nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính

mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất
chuyên nghiệp hoặc chống lại người thi hành công vụ thì bị xử lý hình sự.
Nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao thì coi là
phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số lượng lớn. Nếu số lượng
hàng hóa phạm pháp từ 4.500 bao trở lên thì coi là phạm tội trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng. Buôn bán ngoại tệ với số lượng có giá trị từ 3 triệu
đồng Việt Nam trở lên hoặc dưới 3 triệu đồng Việt Nam nhưng đã bị xử lý
hành chính mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính
chất chuyên nghiệp thì bị xử lý về tội buôn bán hàng cấm.
Tuy nhiên, sau thời gian dài áp dụng trong thực tế, BLHS 1985 đã có
nhiều vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng trước yêu cầu đổi mới
liên tục về kinh tế, văn hóa, xã hội. BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung
4 lần: 28/12/1989, 12/8/1991, 22/12/1992 và 10/5/1997. Cho tới kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS năm 1999, có hiệu lực thi hành từ
01/7/2000, thay thế BLHS 1985.

24
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật đòi hỏi
phải xem xét, rà soát lại một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế để có
những sửa đổi bổ sung thích hợp cả về mặt dấu hiệu pháp lý cũng như chính
sách xử lý nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
trong giai đoạn mới. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể về nhóm các
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung tại Chương XVI và tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm nói riêng tại Điều 155.
Trong BLHS 1985 chỉ quy định tội buôn bán hàng cấm ở Điều 166.
Tuy nhiên, trong thực tế không chỉ có hành vi buôn bán hàng cấm mà còn có
hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Do đó, BLHS
năm 1999 đã có sự bổ sung 3 loại hành vi phạm tội mới đó là hành vi sản
xuất, tàng trữ và vận chuyển hàng cấm.

Ngoài ra, các hành vi liên quan đến chất ma túy được quy định thành
chương riêng, Chương XVIII "các tội phạm về ma túy" từ Điều 192 đến
Điều 201, quy định này góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng chống
ma túy.
Ngoài việc quy định thêm một số hành vi mới là hành vi phạm tội mới
Điều 155 của BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) còn có những
điểm bổ sung sau:
- Quy định tình tiết: "có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại các điều 153, 154,
156, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" [42] vừa là yếu tố định tội, vừa là
dấu hiệu làm ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính.
- Quy định tình tiết: "Nếu không thuộc trường hợp quy định tại các
điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này" [42] là
để giới hạn việc áp dụng điều 155 và là dấu hiệu để phân biệt tội sản xuất,

25
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với một số tội phạm khác trong
BLHS mà đối tượng phạm tội cũng là các loại hàng hóa, vật dụng mà Nhà
nước cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán.
- Ngoài những tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đã được quy
định tại Điều 166 BLHS năm 1985, Điều 155 của BLHS năm 1999 còn quy
định thêm một số tình tiết mới là yếu tố định khung hình phạt như: hàng phạm
pháp có số lượng rất lớn hoặc thu lợi bất chính rất lớn; hàng phạm pháp có số
lượng đặc biệt lớn hoặc thu lợi bất chính đặc biệt lớn. So với điều 166 của
BLHS 1985, Điều 155 BLHS 1999 bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính;
các mức phạt tù quy định trong từng khung hình phạt tại Điều 155 BLHS
1999 đều nhẹ hơn mức phạt quy định tại Điều 166 BLHS 1985. Hình phạt bổ
sung cũng được quy định ngay trong cùng điều luật.
Tóm lại, nghiên cứu lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam từ năm 1945 đến nay về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm cho thấy:
- Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến việc phát triển kinh tế, tuy nhiên
những hàng hóa không được Nhà nước cho phép kinh doanh, buôn bán bị kiểm
soát chặt chẽ, chính sách xử lý các hành vi phạm tội cũng rất nghiêm khắc.
- Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm từ chỗ được
quy định trong từng văn bản riêng lẻ đã được pháp điển hóa trong các văn bản
có hiệu lực pháp lý cao là BLHS; từ chỗ chỉ quy định các hành vi bị trừng trị
đến chỗ có tên tội danh, khung hình phạt với các tình tiết tăng nặng trong
khung hình phạt.
- Các loại hàng cấm, các hành vi phạm tội được thay đổi, bổ sung theo
từng thời kỳ để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước.
- Trong quy định về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm, từ chỗ không quy định về định lượng hàng cấm và giá trị thu lợi bất
chính lớn, đến nay khung cơ bản và các khung tăng nặng của tội này đều quy

×