Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 87 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




KIỀU THỊ HUYỀN TRANG



QUAN HÖ CHA MÑ NU¤I - CON NU¤I
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN




HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Kiều Thị Huyền Trang

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ CHA MẸ
NUÔI – CON NUÔI 6
1.1. Khái niệm chung về nuôi con nuôi 6
1.1.1. Khái niệm con nuôi 6
1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi 7

1.2. Khái niệm quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi 12
1.2.1. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ xã hội 12
1.2.2. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ pháp luật 15
1.2.3. Đặc điểm quan hệ pháp luật cha mẹ nuôi – con nuôi 19
1.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi 22
1.3.1. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi 22
1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện quan hệ nuôi con nuôi 24
Chƣơng 2: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG
QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI – CON NUÔI THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 26
2.1. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi 27
2.1.1. Các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa cha mẹ nuôi và con nuôi 27
2.1.2. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa cha mẹ nuôi và con nuôi 36
2.2. Quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia
đình cha mẹ nuôi 43
2.2.1. Quan hệ giữa con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của cha mẹ nuôi 43
2.2.2. Quan hệ giữa con nuôi với các con đẻ của cha mẹ nuôi 46
2.2.3. Quan hệ giữa người con nuôi với anh, chị, em ruột của cha
nuôi, mẹ nuôi 48
2.3. Quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi 50
2.3.1. Trường hợp không có sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi 50
2.3.2. Trường hợp có sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi 53
2.4. Chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi 56
2.4.1. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi 56
2.4.2. Thủ tục và đường lối giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi 59
2.4.3. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi 61
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI -
CON NUÔI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT 64
3.1. Một vài nét khái quát về thực tiễn thực hiện quan hệ cha mẹ

nuôi – con nuôi từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực 64
3.2. Một số vƣớng mắc, bất cập về pháp luật điều chỉnh quan hệ
cha mẹ nuôi – con nuôi và kiến nghị hoàn thiện 68
3.2.1. Một số vướng mắc, bất cập về pháp luật điều chỉnh quan hệ cha
mẹ nuôi – con nuôi 68
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện 70
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
BLTTDS
Bộ luật dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự
BVCSVGDTE
Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
CUQTVQTE
Công ước quốc tế về quyền trẻ em
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
Nghị định 06/2012/NĐ-CP
Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều về các nghị
định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực
Nghị định 158/2005/NĐ-CP
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch
Nghị định 19/2011/NĐ-CP
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều

của Luật Nuôi con nuôi
Nghị quyết 01/1988/NQ-HĐTP
Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP ngày
20/02/1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình
UBND
Ủy ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều được
pháp luật các nước điều chỉnh. Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề nhân
đạo, được Đảng và Nhà nước quan tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước
còn phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế -
xã hội có nhiều khó khăn, mức thu nhập của người dân còn thấp, nhiều trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt cần có mái ấm gia đình, thì vấn đề nuôi con nuôi càng
trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội. Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình
cho trẻ em, việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của
người nhận con nuôi.
Việc nuôi con nuôi nhằm bảo đảm quyền lợi của trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn, không có được sự chăm sóc, nuôi dưỡng của gia đình, người thân
và qua đó góp phần làm cho xã hội ổn định. Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi từng bước được hoàn thiện và ngày càng hướng tới việc bảo đảm tốt
hơn các quyền cơ bản của trẻ em được nhận làm con nuôi theo yêu cầu của
pháp luật về quyền trẻ em.
Việc nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người

nhận nuôi và con nuôi, đồng thời làm phát sinh các quan hệ pháp lý giữa
người được nhận nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi.
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi nhằm
bảo đảm cho con nuôi được hòa nhập một cách tốt nhất vào môi trường gia
đình của cha, mẹ nuôi, cũng như bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của các bên
có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi. Trong quan hệ nuôi con nuôi luôn
tồn tại mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ đẻ - con nuôi - cha mẹ nuôi, đây là ba
chủ thể luôn có sự gắn kết, gắn bó với nhau chặt chẽ trong quan hệ nuôi con
nuôi. Luật Nuôi con nuôi đã có sự điều chỉnh nhất định đối với mối quan hệ


2
giữa ba bên, tuy nhiên sự điều chỉnh của pháp luật chưa thật triệt để và còn có
nhiều quy định chưa rõ ràng, có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Luật
Nuôi con nuôi mới có hiệu lực chưa lâu, các quy định về quan hệ cha mẹ nuôi
- con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi có nhiều điểm khác so với các quy định
điều chỉnh việc nuôi con nuôi trong các văn bản pháp luật trước đây, vì vậy
các quy định của Luật Nuôi con nuôi chưa được nhận thức đầy đủ và đúng
đắn. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một nội dung rất quan trọng và có ý
nghĩa trong Luật Nuôi con nuôi. Do đó, việc nghiên cứu quan hệ nuôi con
nuôi là cần thiết.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tài: “Quan hệ cha mẹ
nuôi – con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo
pháp luật Việt Nam hiện hành, nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm:
quan hệ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ đẻ - con nuôi và
quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi

theo Luật Nuôi con nuôi.
Nghiên cứu, phân tích các quy định của Luật Nuôi con nuôi về quan hệ
cha mẹ nuôi – con nuôi trong sự so sánh với các quy định của pháp luật trước
đây về vấn đề này, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế của các quy
định về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi –
con nuôi theo quy định của pháp luật hiện hành.


3
- Phân tích các quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ nuôi
con nuôi khi việc nuôi con nuôi được công nhận theo quy định của pháp
luật hiện hành.
- Đánh giá việc áp dụng, thực hiện các quy định của pháp luật về quan
hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong thực tiễn, phát hiện những điểm chưa hợp lý,
còn bất cập, chưa có tính khả thi cũng như chỉ ra những điểm chưa tương
đồng với các văn bản pháp luật khác có liên quan điều chỉnh về quan hệ cha
mẹ nuôi – con nuôi.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong Luật Nuôi con nuôi và một số văn bản
pháp luật có liên quan.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Những vấn đề lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên trong quan hệ nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi cũng như các văn bản
pháp luật khác có liên quan và việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn;
- Thực tiễn thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan

hệ nuôi con nuôi từ khi Luật nuôi con nuôi có hiệu lực đến nay.
 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài thì quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi
được hiểu là quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh khi việc nuôi con
nuôi được công nhận. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì khi quan hệ
nuôi con nuôi được xác lập sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể
sau: cha mẹ nuôi – con nuôi, cha mẹ đẻ - con nuôi, giữa con nuôi với các thành
viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Cũng theo quy định của Luật Nuôi con
nuôi thì quan hệ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi không luôn luôn tồn tại một cách


4
độc lập với mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi mà điều đó
còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài một cách đầy đủ đòi hỏi phải nghiên cứu không chỉ quan hệ
giữa cha mẹ nuôi – con nuôi, mà còn phải nghiên cứu quan hệ giữa cha mẹ đẻ
với con đã cho làm con nuôi và quan hệ giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi theo
quy định của Luật Nuôi con nuôi. Các quyền và nghĩa vụ giữa ba chủ thể này
luôn có sự gắn kết, chi phối và chế ước lẫn nhau tạo thành đặc trưng của quan
hệ nuôi con nuôi. Do đó, nghiên cứu về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi phải
nghiên cứu đồng thời cả ba mối quan hệ qua lại này.
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, đề tài được nghiên cứu trên cơ sở
các quy định của Luật Nuôi con nuôi và một số văn bản pháp luật có liên quan
điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau.
Luận văn không nghiên cứu quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
Đồng thời, nội dung nghiên cứu của đề tài còn có sự liên hệ, so sánh
với các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 và
một số văn bản pháp luật khác có liên quan điều chỉnh vấn đề này như BLDS
năm 2005, Luật BVCSGDTE…, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá việc áp

dụng các quy định đó trong thực tế thực hiện quan hệ nuôi con nuôi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của trẻ em nói chung và quyền của
trẻ em làm con nuôi nói riêng.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp,


5
điều tra xã hội. v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
5. Những điểm mới của luận văn
Sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, luận văn là công trình đầu tiên
nghiên cứu có tính chất chuyên sâu và hệ thống về quan hệ cha mẹ nuôi – con
nuôi - một lĩnh vực hẹp nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nuôi con nuôi.
Vấn đề này được điều chỉnh không chỉ bởi Luật Nuôi con nuôi mà còn được
điều chỉnh bởi một số luật khác có liên quan như Luật HN&GĐ, BLDS. Luận
văn phân tích một cách toàn diện, sâu sắc các khía cạnh pháp lý về quan hệ cha
mẹ nuôi – con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, có sự so sánh với các quy phạm
pháp luật đã có trước đây điều chỉnh vấn đề này, đồng thời đánh giá việc áp
dụng các quy định đó trong thực tế. Trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những điểm
còn bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ cha mẹ
nuôi – con nuôi và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định về
quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích chính
đáng của trẻ em được nhận nuôi cũng như của người nhận nuôi con nuôi.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu gồm ba chương, như sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi

Chƣơng 2: Quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quan hệ cha mẹ
nuôi – con nuôi theo quy định của pháp luật hiện hành
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật



6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUAN HỆ CHA MẸ NUÔI – CON NUÔI

1.1. Khái niệm chung về nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm con nuôi
Con nuôi là khái niệm được dùng để phân biệt với khái niệm con đẻ.
Con đẻ là người con được sinh ra từ chính người mẹ, có cùng huyết thống và
mang gen di truyền của người mẹ. Khi một đứa trẻ được sinh ra mà không cùng
huyết thống với người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục thì đứa trẻ đó có
thể được gọi là con nuôi. Đứa trẻ được người không sinh ra mình nhận nuôi
dưỡng, chăm sóc chỉ được coi là con nuôi của người nuôi dưỡng, chăm sóc khi
được pháp luật công nhận trên cơ sở mong muốn xác lập quan hệ cha mẹ và
con của người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc đối với đứa trẻ đó. Vì vậy, không
phải bất cứ trường hợp nào việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em đều làm cho trẻ
em được nhận nuôi dưỡng trở thành con nuôi của người nuôi dưỡng. Yếu tố
mong muốn xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên là điều kiện quan
trọng nhất để đứa trẻ được nhận nuôi trở trở thành con nuôi. Việc xác lập mối
quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi được thực hiện trên cơ sở tình cảm, mong
muốn, nhu cầu của cả hai bên, tuy nhiên chỉ được pháp luật công nhận khi việc
nuôi con nuôi được đăng ký theo đúng thủ tục, quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 của Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì

con nuôi được định nghĩa như sau: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi
sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký” [31].
Như vậy, khái niệm con nuôi bao hàm một số nội dung cơ bản như sau:
- Con nuôi là người được một người độc thân hoặc một cặp vợ chồng
không sinh ra nhận làm con nuôi, về nguyên tắc không có quan hệ huyết
thống và không mang gen di truyền của người nhận nuôi.


7
- Con nuôi có thể có huyết thống trong phạm vi nhất định với người
nhận nuôi nhưng không do người nhận nuôi sinh ra (cô, dì, chú, bác ruột nhận
cháu ruột làm con nuôi).
- Người được nhận nuôi chỉ được công nhận là con nuôi của người
nhận nuôi khi người được nhận nuôi đáp ứng được các điều kiện của người
được nhận nuôi theo quy định của pháp luật, như điều kiện về độ tuổi, ý
chí, về chủ thể (ví dụ: cháu không thể trở thành con nuôi của ông bà nội
hoặc ông bà ngoại).
1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi
Trong xã hội, việc nuôi con nuôi là một hiện tượng khá phổ biến và thể
hiện tính nhân đạo sâu sắc. Trong lịch sử xã hội loài người, việc nuôi con nuôi
có thể vì các mục đích khác nhau, có thể là nhằm đáp ứng những nhu cầu, lợi
ích vật chất như có thêm lao động, có người thờ tự, có người chăm sóc khi
tuổi già… hay những nhu cầu, lợi ích về tinh thần, xuất phát từ lòng nhân đạo
như sự cảm thông, sự chia sẻ… Ở nước ta, bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia
đình cho trẻ em, vấn đề nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính
đáng của vợ chồng nhận con nuôi, nhất là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm
con; phụ nữ đơn thân… Hiện nay, vì lợi ích tốt đẹp của trẻ em, đặc biệt là
những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn mà việc nuôi con nuôi được xác lập và
ngày càng được khuyến khích, quan tâm một cách thích đáng.
Việc nuôi con nuôi có thể được xem xét ở các góc độ:

- Dưới góc độ xã hội: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ -
con giữa người nuôi và người được nhận nuôi không dựa trên quan hệ huyết
thống, được thiết lập trên thực tế và không phải bao giờ cũng có sự thừa nhận
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử,
hình thành trên cơ sở cá nhân “tiếp nhận những liên hệ mới mang tính chất
gia đình” [18]. Trong thực tế, xuất phát từ tình yêu thương hay phong tục tập


8
quán, việc nuôi con nuôi được xác lập mà không có sự công nhận của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Các hình thức nuôi con nuôi danh nghĩa, nuôi con
nuôi thực tế mặc dù không được sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền nhưng nó vẫn tồn tại. Do đó, trong đời sống xã hội, dù được sự công
nhận hay không công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì việc
nuôi con nuôi vẫn được xác lập, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi vẫn tồn tại trên thực tế. Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội tồn tại một
cách khách quan nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi
và người được nhận nuôi trên thực tế.
- Dưới góc độ pháp lý
Việc nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới hai góc độ: nuôi con nuôi
là một sự kiện pháp lý và nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật.
+ Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý.
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế và chỉ trở thành
sự kiện pháp lý khi pháp luật xác định rõ điều đó [35]. Nuôi con nuôi là một
sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ - con giữa người nhận
nuôi và người được nhận nuôi, khi giữa họ không có quan hệ huyết thống trực
hệ mà được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền theo ý chí, nguyện vọng của các đương sự và tuân thủ đầy đủ quy định
của pháp luật về các điều kiện xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.

Sự kiện pháp lý nuôi con nuôi gồm các yếu tố cấu thành sau:
Một là: các chủ thể có liên quan đáp ứng các điều kiện của việc nuôi
con nuôi. Các chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi bao gồm: cha
mẹ nuôi (người nhận con nuôi), con nuôi (người được nhận làm con nuôi) và
cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi. Điều kiện đối với mỗi chủ thể
trong quan hệ nuôi con nuôi đều được pháp luật quy định cụ thể.
Đối với người nhận con nuôi (cha mẹ nuôi), theo Điều 14 Luật Nuôi con


9
nuôi thì họ phải có đầy đủ những điều kiện về năng lực hành vi dân sự, về độ
tuổi, điều kiện sức khỏe, khả năng kinh tế,…. và không thuộc những trường
hợp không được nhận con nuôi như đang chấp hành hình phạt tù…. [31]. Quy
định này nhằm bảo đảm cho trẻ em được nhận nuôi được chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục trong môi trường an toàn nhất đảm bảo và tốt nhất.
Đối với người được nhận làm con nuôi, Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy
định cụ thể về độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi. Theo quy định thì
người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Trong trường hợp
người được cha dượng, mẹ kế; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi thì
theo khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định là người “đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi” [31].
Hai là: sự thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan. Quan hệ nuôi
con nuôi chỉ được hình thành khi các bên có liên quan trong quan hệ nuôi con
nuôi thể hiện ý chí trong việc cho và nhận con nuôi. Pháp luật không thừa
nhận quan hệ nuôi con nuôi khi ý chí của một trong các bên không thể hiện rõ
hoặc thể hiện không đúng theo quy định của pháp luật, cụ thể:
- Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được
cho làm con nuôi. Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con
nuôi phải minh bạch và xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà
không có bất cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực nào và

không nhằm mục đích trục lợi. Nói cách khác, ý chí đó phải hoàn toàn tự
nguyện, độc lập. Nội dung của ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con nuôi
của người khác. Việc cho trẻ em làm con nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ
hoặc người giám hộ của trẻ em. Quy định này nhằm bảo đảm được các quyền
cơ bản của trẻ em theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em là trẻ em không bị
buộc phải cách ly khỏi cha mẹ đẻ, trẻ em có quyền được sống chung với cha
mẹ đẻ. Sự đồng ý hay không đồng ý của cha mẹ đẻ và người giám hộ là một


10
trong những điều kiện để xác lập có hay không mối quan hệ cha mẹ nuôi và
con nuôi. Sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con làm con nuôi của người
khác chỉ hợp pháp sau khi đứa trẻ sinh ra ít nhất được 15 ngày [31, Điều 4].
- Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi. Người nhận nuôi con
nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và
thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Ý chí, mong muốn đó của
người nhận nuôi phải được thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi.
- Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi. Khoản 1 Điều 21 Luật
Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi
trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó” [31]. Với lứa
tuổi này, đứa trẻ chưa được coi có năng lực hành vi đầy đủ. Trẻ em ở độ tuổi
này phần nào đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận
biết và bày tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con
nuôi người khác, cũng như cảm nhận phần nào đó được sự an toàn, thích nghi
được hay không khi được cho làm con nuôi người khác, khi phải thay đổi môi
trường sống… Do đó, pháp luật quy định đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền
thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống
của mình. Sự đồng ý làm con nuôi của đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện
bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý;
Ba là: sự thể hiện ý chí của Nhà nước. Sự thể hiện ý chí của Nhà

nước chính là sự thể hiện ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về
quan hệ nuôi con nuôi. Ý chí này được thể hiện qua việc cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền công nhận hay không công nhận việc nuôi con nuôi, thông
qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi hay từ chối việc đăng kí nuôi con
nuôi. Ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là bước then chốt trong
việc làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi bởi nếu cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền không công nhận việc nuôi con nuôi thì quan hệ


11
nuôi con nuôi sẽ không được hình thành. Việc nuôi con nuôi được công
nhận tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý
của việc nuôi con nuôi [23].
Như vậy, với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi là một cấu
thành sự kiện bao gồm các yếu tố cấu thành mà nếu thiếu đi một trong các
yếu tố thì cấu thành đó sẽ không có hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ
pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
+ Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các
quy phạm pháp luật điều chỉnh. Quan hệ nuôi con nuôi là những quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi được các quy phạm pháp luật điều
chỉnh. Là quan hệ pháp luật, nuôi con nuôi có đầy đủ các yếu tố: chủ thể,
khách thể, nội dung.
Chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ đẻ, cha
mẹ nuôi và người con nuôi. Để được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật nuôi
con nuôi thì các bên chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tương ứng
theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.
Khách thể của quan hệ nuôi con nuôi là những lợi ích mà các bên chủ
thể hướng tới. Những lợi ích đó là những lợi ích tinh thần và vật chất mà cả
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi mong muốn được

hưởng và hướng tới. Đó có thể là lợi ích tình cảm của cha mẹ nuôi và con
nuôi, đáp ứng điều kiện cho sự phát triển đầy đủ của đứa trẻ, đáp ứng được
mong muốn của cha mẹ đẻ là con của họ sẽ có một mái ấm tốt đẹp hơn tại gia
đình của cha mẹ nuôi….
Nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể do pháp luật quy định khi tham gia vào quan hệ
nuôi con nuôi, bao gồm các quyền nghĩa vụ nhân thân và quyền nghĩa vụ tài
sản giữa các chủ thể.


12
1.2. Khái niệm quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi
Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi có thể hiểu từ hai góc độ: là một quan
hệ xã hội và là quan hệ pháp luật.
1.2.1. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ xã hội
Với ý nghĩa là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan
hệ nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có thể được thực hiện theo
những cách thức khác nhau, tuỳ theo sự lựa chọn của cá nhân trong những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Quan hệ nuôi con nuôi đã từng tồn tại một số
dạng cơ bản như: nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi để
khuếch trương quyền thế của gia đình, nuôi con nuôi để lấy phúc, nuôi con
nuôi trên danh nghĩa và nuôi con nuôi thực tế [20].
- Nuôi con nuôi theo phong tục tập quán đã được phản ánh trong pháp
luật nhà Lê qua bộ Quốc triều hình luật tại Điều 294, Điều 295. Bên cạnh đó,
dân tộc Mường, Thái, Dao, Thổ, Mông, Khơ Mú đều có phong tục nhận nuôi
con nuôi [33, tr.70-101]. Các quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán
đã từng tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và hiện nay vẫn
còn tồn tại. Những quan hệ nhận nuôi con nuôi này được xã hội, cộng đồng
thừa nhận, các bên đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của quan hệ cha mẹ và con
trên thực tế, mặc dù có thể không thực hiện việc đăng ký tại cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền.
- Trong xã hội phong kiến, nuôi con nuôi để khuếch trương quyền thế
của gia đình thường diễn ra ở những gia đình trong giới cầm quyền, nhằm
mục đích được hưởng một số lớn đất đai, có thêm nguồn nhân công mà không
phải trả tiền. Việc nhận nuôi con nuôi để có thêm người giúp việc trong gia
đình có thể vẫn tồn tại, nhưng việc nhận nuôi con nuôi chỉ có tính chất hình
thức, không có giá trị pháp lý. Giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi
cũng không tồn tại quan hệ cha mẹ và con trên thực tế [20].


13
- Nuôi con nuôi để lấy phúc. Trong thực tế đời sống, có không ít
trường hợp vì mê tín mà người ta nhận nuôi một đứa trẻ, coi như con của
mình để làm phúc, để có thể giảm bớt tai vạ, những điều không may mắn cho
gia đình hoặc để vợ chồng có thể sinh được con của mình. Người nhận nuôi
đối xử với người con nuôi như con đẻ, nhưng việc nuôi con nuôi này không
được sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [20].
- Nuôi con nuôi trên danh nghĩa: đây là những trường hợp thường xảy
ra trong cuộc sống. Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau
là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ tình cảm, nhưng không gắn với quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục đích hình thành quan hệ cha
mẹ và con trong thực tế. Các bên có thể đối xử với nhau, gọi nhau là cha mẹ
và con, nhưng không ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau trên thực tế. Việc nuôi con nuôi này không phụ thuộc vào bất cứ điều
kiện nào, mà chỉ tuỳ thuộc vào tình cảm, sự tự nguyện của các bên, phù hợp
với cách ứng xử, chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Việc nuôi con nuôi
này thường được thực hiện dưới hình thức thoả thuận bằng lời giữa các bên
chủ thể. Quan hệ cha mẹ và con trong hình thức này thường chỉ tồn tại trên
danh nghĩa, có ý nghĩa đối với hai bên chủ thể, mà không có ý nghĩa nhiều đối
với những người khác trong gia đình của hai bên, những người xung quanh và

xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội Việt Nam, hình thức nhận con nuôi hoặc nhận
cha mẹ nuôi trên danh nghĩa thường hay xảy ra, vì người Việt Nam vốn có lối
sống trọng tình, trọng nghĩa. Việc nhận nuôi con nuôi này chủ yếu hướng tới
những giá trị đạo đức, tinh thần, nhưng không có giá trị pháp lý [20].
- Nuôi con nuôi thực tế:
Nuôi con nuôi thực tế là hình thức nuôi con nuôi làm hình thành quan
hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi.
Việc nhận nuôi thoả mãn đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, không


14
trái với mục đích của việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội. Giữa người nhận
nuôi và người được nhận nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và
con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, đồng thời thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con với nhau để xây dựng một gia
đình thật sự. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã được xác lập trong thực
tế, được họ hàng và mọi người xung quanh công nhận nhưng không đăng ký
tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây cũng là một dạng quan hệ cha mẹ
nuôi – con nuôi không được pháp luật công nhận về mặt pháp lý, dù cho
quan hệ cha mẹ và con đáp ứng đầy đủ các điều kiện về mặt chủ thể, khách
thể, nội dung quan hệ.
Trên thực tế, trường hợp nuôi con nuôi tồn tại mà không đăng ký tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền là rất phổ biến. Mặc dù quan hệ cha mẹ và con
đã được xác lập trên thực tế, được họ hàng, mọi người xung quanh thừa nhận
và trên cơ sở tình cảm, ý chí, nguyện vọng của cha mẹ nuôi và con nuôi, tuy
nhiên lại có không ít trường hợp nhận nuôi con nuôi nhằm mục đích xấu. Mục
đích xấu có thể là trục lợi cho bản thân người nhận nuôi con nuôi, hoặc nhằm
mục đích tổ chức đường dây mua bán trẻ em ra nước ngoài, lợi dụng việc
nuôi con nuôi để hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc lạm dụng lao
động trẻ em…. Những hành vi này bị xã hội lên án kịch liệt vì trái với đạo

đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là “thương người như thể thương
thân, lá lành đùm lá rách”, hơn nữa những hành vi này còn vi phạm nghiêm
trọng về quyền tự do bình đẳng của mỗi cá nhân trong xã hội, vi phạm Công
ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, do quan hệ nhận nuôi con nuôi này
chỉ xác lập giữa các bên mà không có sự tham gia của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền nên khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết và bảo vệ quyền lợi
cho trẻ em không được đảm bảo.
Như vậy, dưới góc độ xã hội, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi được


15
hiểu là quan hệ cha mẹ và con được xác lập và thực hiện trên thực tế giữa
người nhận nuôi và người được nhận nuôi với các mức độ và hình thức khác
nhau nhắm đáp ứng những mục đích nhất định nhưng không có sự công nhận
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không có giá trị pháp lý.
1.2.2. Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là một quan hệ pháp luật
Quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi con nuôi với người được
nhận làm con nuôi là mối quan hệ đặc biệt, vì không phát sinh trên cơ sở sinh
đẻ và quan hệ huyết thống mà là từ ý chí, tình cảm của các bên. Việc nhận
nuôi con nuôi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo thủ tục
luật định sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
Là một quan hệ pháp luật, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi cũng có đầy
đủ các yếu tố cấu thành của một quan hệ pháp luật, gồm ba yếu tố: chủ thể,
khách thể và nội dung.
- Chủ thể của quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi gồm: cha mẹ nuôi
(người nhận con nuôi) và người con nuôi (người được nhận làm con nuôi).
Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi được xác lập trên cơ sở các chủ thể đáp ứng
đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi. Cụ thể:
+ Đối với cha mẹ nuôi, pháp luật quy định người nhận nuôi là cá nhân, có

thể là vợ và chồng hoặc một người độc thân. Pháp luật quy định trẻ em chỉ được
nuôi bởi một người độc thân hoặc cả hai người là vợ chồng [31, Điều 8, khoản 3
]. Ðiều đó có nghĩa rằng, nếu người nhận nuôi con nuôi có chung sống như vợ
chồng với một người khác mà không đăng ký kết hôn, thì trẻ em được nhận
làm con nuôi chỉ có thể là con nuôi của một trong hai người. Đồng thời, Điều
5 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng quy định về thứ tự ưu tiên lựa chọn gia
đình thay thế là những cá nhân có thể là công dân Việt Nam hoặc là người
nước ngoài. Do đó, quan hệ cha mẹ và con chỉ có thể là quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân hoặc giữa cặp vợ chồng với đứa trẻ được nhận nuôi.


16
Nếu vợ và chồng cùng nhau nhận con nuôi thì mỗi người một phải thỏa
mãn các điều kiện của người nhận nuôi theo quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con
nuôi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [31, Điều 14, khoản 3]. Một
người hoặc một cặp vợ chồng có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi.
Theo Luật Nuôi con nuôi tại Điều 14, người nhận con nuôi phải có đầy
đủ năng lực hành vi; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có tư cách đạo đức tốt;
có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con nuôi; không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối
với con chưa thành niên hoặc không phải đang chấp hành quyết định xử lý
hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; không phải đang chấp hành
hình phạt tù hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược
đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi
dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm
pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối
với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật,
trái đạo đức xã hội. Trường hợp ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh,
chị, em nhận nhau làm con nuôi không được pháp luật cho phép thực hiện bởi

quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi không phát sinh trên sơ sở sinh đẻ nên không
thể là quan hệ huyết thống trực hệ được. Các quy định về điều kiện của người
nhận nuôi nhằm bảo đảm cho người con nuôi có được môi trường sống lành
mạnh để phát triển về thể chất, trí tuệ và nhân cách; điều đó sẽ có tác dụng
tích cực trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội.
+ Đối với đứa trẻ là người được nhận làm con nuôi, pháp luật Nuôi con
nuôi quy định cụ thể điều kiện về độ tuổi của trẻ được nhận nuôi, bởi ở mỗi
lứa tuổi khác nhau thì tâm sinh lý và sự nhận thức về cuộc sống sẽ khác nhau.
Theo khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi là


17
trẻ em dưới 16 tuổi. Ngoài ra, trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi cũng có thể được nhận làm con nuôi nếu được cha dượng, mẹ kế nhận
làm con nuôi hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Độ tuổi
của trẻ em cho làm con nuôi được quy định trong Luật Nuôi con nuôi phù hợp
với độ tuổi của trẻ em được quy định trong Luật BVCSVGDTE “Trẻ em quy
định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mươi sáu tuổi” [27] và Công
ước về quyền trẻ em thì quy định “trẻ em là người dưới 18 tuổi” [24].
Nhà nước khuyến khích người nhận nuôi con nuôi nhận những trẻ có
hoàn cảnh đặc biệt như trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khác
làm con nuôi theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Bởi sinh ra có hoàn cảnh khó khăn đã là một điều không may mắn của các
em, hơn nữa nhiều trẻ còn có những khuyết tật bẩm sinh, do vậy những trẻ
này rất cần được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của không chỉ xã hội nói
chung mà còn cần một mái ấm gia đình thực sự nói riêng.
- Khách thể của quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là xác lập mối quan hệ
cha mẹ và con giữa những người không cùng huyết thống. Cha mẹ nuôi mong
muốn nhận một đứa trẻ làm con nuôi để xác lập quan hệ cha, mẹ và con với
đứa trẻ, còn người con nuôi thì mong muốn có một mái ấm gia đình để được

chăm lo một cách tốt nhất về mặt tinh thần lẫn vật chất và cũng nhằm xác lập
mối quan hệ cha mẹ và con với người nhận nuôi. Quan hệ cha mẹ và con này
được vun đắp trên cơ sở ý chí, tình cảm của các bên chủ thể và được pháp luật
công nhận về mặt pháp lý. Khi xác lập quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi, các
bên đều mong muốn xác lập quan hệ cha mẹ - con bền vững, có sự gắn bó sâu
sắc về tình cảm, được hưởng sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau trong mối
quan hệ gia đình.
- Nội dung của quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là quyền và nghĩa vụ
giữa các bên chủ thể phát sinh khi việc nuôi con nuôi được Nhà nước công


18
nhận. Kể từ khi việc nuôi con nuôi được nhà nước công nhận thì các quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ nuôi, con nuôi được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực
hiện bằng các quy định của Luật Nuôi con nuôi, Luật HN&GĐ. Pháp luật
điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi bao gồm các quy phạm quy định
cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, đặc biệt phải vì lợi ích tốt nhất cho trẻ
được nhận nuôi. Nói cách khác, quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong
quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên chủ thể trong quan hệ cha mẹ nuôi –
con nuôi không chỉ có quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi mà còn
bao gồm cả quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với đứa con đã cho làm con
nuôi, cũng như quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi với các thành viên của gia
đình cha mẹ nuôi.
Nuôi con nuôi là nhằm mục đích tìm cho trẻ em có một mái ấm gia
đình với sự yêu thương, đùm bọc của cha mẹ nuôi khi đứa trẻ không được
nuôi dưỡng trong gia đình ruột thịt của mình. Hơn nữa, khi xảy ra mâu thuẫn
hoặc tranh chấp về quyền, nghĩa vụ liên quan đến tài sản, thừa kế,….thì các
quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên chủ thể là

căn cứ pháp lý để điều chỉnh giải quyết tranh chấp quan hệ cha mẹ nuôi – con
nuôi. Chính vì thế pháp luật điều chỉnh mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi
nhằm bảo đảm được mục đích tốt đẹp đó và thể hiện được quan điểm, chính
sách của Nhà nước đối với nuôi con nuôi.
Như vậy, khi việc nuôi con nuôi được pháp luật công nhận thì các
quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi được điều
chỉnh theo các quy phạm pháp luật về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.
Từ những phân tích trên dưới góc độ là một quan hệ pháp luật, có thể
hiểu khái niệm quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi là quan hệ giữa cha mẹ và con


19
phát sinh trên cơ sở việc nhận nuôi con nuôi được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền công nhận, được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật nhằm xác
lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quan hệ
cha mẹ và con.
1.2.3. Đặc điểm quan hệ pháp luật cha mẹ nuôi – con nuôi
- Quan hệ pháp luật cha mẹ nuôi – con nuôi không dựa trên cơ sở sinh
đẻ, về nguyên tắc không gắn với huyết thống sinh học. Trong một số trường
hợp, có thể giữa người nhận nuôi và con nuôi có quan hệ họ hàng gần gũi
nhưng không thể là quan hệ huyết thống trực hệ - sinh thành ra nhau. Điều
này được Luật Nuôi con nuôi quy định cụ thể tại Điều 13 về trường hợp cấm
“Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con
nuôi” [31]. Những đối tượng này đều có mối quan hệ huyết thống với đứa trẻ
và việc xác lập quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi với đứa trẻ sẽ làm đảo lộn tôn
ti trật tự của gia đình, đảo lộn các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình, tạo ra sự phức tạp khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định cho họ.
- Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi phát sinh trên cơ sở ý chí, tình
cảm của các bên mà không phải là quan hệ tự nhiên nên có thể có sự lựa

chọn đứa trẻ được nhận nuôi. Sự lựa chọn đứa trẻ được nhận làm con nuôi
thường xuất phát từ sự chủ động của cha mẹ nuôi. Đứa trẻ được nhận làm
con nuôi trong nhiều trường hợp còn nhỏ tuổi, thậm chí là trẻ sơ sinh bị bỏ
rơi nên không thể thể hiện được ý chí của mình trong việc làm con nuôi
người khác. Pháp luật quy định trong trường hợp trẻ được nhận nuôi từ đủ
9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí của mình vì đối với trẻ em ở lứa tuổi
này đã có nhận thức nhất định về những vấn đề liên quan trực tiếp tới bản
thân. Do đó, khi người nhận nuôi có sự lựa chọn trẻ em được nhận nuôi có
thể sẽ phát sinh những vấn đề tiêu cực gây ảnh hưởng bất lợi đến trẻ em,


20
nên cần có những giải pháp điều chỉnh của pháp luật để bảo đảm lợi ích
của trẻ em, không gây tổn thương cho trẻ…
- Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi phát sinh trên cơ sở tình cảm, tự
nguyện từ cả hai bên chủ thể, không nhằm mục đích trục lợi hay các mục đích
khác quy định tại Điều 13 Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Sự tự nguyện là yếu
tố quan trọng trong việc xác lập quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi bởi quan hệ
này phát sinh trên cơ sở nhu cầu của cả hai bên chủ thể muốn xác lập quan hệ
cha mẹ và con. Bất kì sự áp đặt, ép buộc hoặc thậm chí đe dọa hay mua
chuộc, gây sức ép về mặt tinh thần vì mục đích vụ lợi hoặc lợi ích vật chất
khác đều không được pháp luật công nhận và không làm phát sinh quan hệ
cha mẹ nuôi – con nuôi. Sự tự nguyện của các bên được thể hiện qua việc
mong muốn thiết lập quan hệ nuôi con nuôi. Sự tự nguyện của người nhận
nuôi được thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi và thể hiện mong muốn
được xác lập quan hệ nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi. Việc
bảo đảm sự tự nguyện thật sự của các bên chủ thể nhằm tránh lạm dụng việc
cho nhận con nuôi vì mục đích trục lợi, vì lợi ích vật chất. Điều đó sẽ biến trẻ
em thành hàng hoá, thành đối tượng của việc trao đổi mua bán – xâm phạm
nghiêm trọng quyền trẻ em.

- Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi được pháp luật quy định chặt chẽ về
điều kiện xác lập quan hệ, đặc biệt là điều kiện về chủ thể. Luật Nuôi con
nuôi đã quy định các điều kiện của người được nhận con nuôi tại Điều 14.
Đối với người được nhận nuôi là trẻ em, Luật Nuôi con nuôi cũng có
những quy định cụ thể về điều kiện trẻ được nhận nuôi tại Điều 8 Luật
Nuôi con nuôi. Trên cơ sở bảo đảm quyền được sống trong môi trường gia
đình gốc của trẻ em mà không phải bất kì trẻ em nào đều có thể trở thành
đối tượng được nhận nuôi. Vì lợi ích của trẻ, vì mục đích tìm cho trẻ em

×