1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI ANH TUẤN
CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI ANH TUẤN
CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tuấn
Hà nội - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Bùi Anh Tuấn
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
7
1.1.
Khái niệm chế định hoà giải, đặc điểm và ý nghĩa của hòa
giải trong tố tụng dân sự
7
1.1.1.
Khái niệm về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
7
1.1.2.
Đặc điểm của hòa giải trong tố tụng dân sự
11
1.1.3.
Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự
15
1.2.
Cơ sở của việc xây dựng chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
17
1.3.
Lược sử các quy định về hòa giải trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam
20
1.3.1.
Giai đoạn từ 1945 đến 1989
20
1.3.2.
Giai đoạn từ 1989 đến 2005
26
1.3.3.
Giai đoạn từ 2005 đến nay
28
1.4.
Hòa giải theo quy định của một số nước trên thế giới
28
1.4.1.
Hòa giải theo pháp luật tố tụng dân sự Pháp
29
1.4.2.
Hòa giải theo pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản
31
1.4.3.
Hòa giải theo pháp luật tố tụng dân sự Trung Quốc
33
1.4.4.
Hòa giải theo pháp luật tố tụng dân sự Liên bang Nga
34
Chương 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
38
2.1.
Các quy định về nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự
38
2.1.1.
Nguyên tắc về trách nhiệm hòa giải của Tòa án
38
5
2.1.2.
Nguyên tắc tiến hành hòa giải trong tố tụng dân sự
40
2.2.
Các quy định về chủ thể trong hòa giải
42
2.2.1.
Về chủ thể tiến hành hòa giải
42
2.2.2.
Về chủ thể tham gia hòa giải
44
2.3.
Các quy định về phạm vi hòa giải
45
2.3.1.
Những vụ việc dân sự phải tiến hành hòa giải
45
2.3.2.
Những vụ án dân sự không được hòa giải
46
2.3.3.
Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được
48
2.4.
Các quy định về thủ tục hòa giải vụ án dân sự
49
2.4.1.
Triệu tập đương sự và thủ tục giải quyết trong trường hợp
đương sự vắng mặt
49
2.4.2.
Thủ tục áp dụng trong trường hợp hòa giải không thành
52
2.4.3.
Thủ tục áp dụng trong trường hợp hòa giải thành
52
2.4.4.
Thủ tục áp dụng trong trường hợp các đương sự tự hòa giải
55
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
59
3.1.
Thực tiễn áp dụng chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
59
3.1.1.
Kết quả đạt được trong thực tiễn hòa giải vụ việc dân sự
59
3.1.2.
Những vướng mắc, bất cập trong thủ tục hòa giải
63
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định hòa giải trong tố
tụng dân sự
78
3.2.1.
Kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy phạm về hòa giải trong
tố tụng dân sự
78
3.2.2.
Kiến nghị về thực hiện chế định hòa giải vụ việc dân sự
85
KẾT LUẬN
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
: Tố tụng dân sự
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong dân gian đã có câu "vô phúc đáo tụng đình"; song lại có câu "dĩ
hòa vi quý. Trong luật tố tụng dân sự (TTDS), luật cũng đề cao nguyên tắc
hòa giải. Vì vậy, từ lâu hòa giải đã trở thành thủ tục bắt buộc trong TTDS
Không những vậy, pháp luật TTDS còn phải điều chỉnh hành vi của người
tham gia tố tụng sao cho họ hòa giải với nhau tốt hơn là đưa vụ án ra xét xử.
Phương pháp điều chỉnh của luật TTDS vì vậy hướng tới hai mục tiêu: Đảm
bảo quyền khởi kiện, yêu cầu của các chủ thể thuộc quan hệ dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; chú trọng tới việc khuyến khích
các bên hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng con đường thỏa hiệp.
Hòa giải thành giúp Tòa án giải quyết vụ án mà không phải mở phiên
tòa, tiết kiệm thời gian, tiền của cho cơ quan nhà nước và nhân dân, góp phần
nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật của nhân dân. Tuy nhiên, để áp
dụng chế định hòa giải có hiệu quả, các quy định về hòa giải phải rõ ràng, cụ
thể và thống nhất. Do vậy, chế định hòa giải vụ án dân sự trong pháp luật
TTDS Việt Nam là một trong những vấn đề không chỉ được các nhà nghiên
cứu, xây dựng pháp luật mà còn cả các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm
nghiên cứu.
Hòa giải đã được quy định trọng nhiều văn bản pháp luật do Nhà nước
ta ban hành từ trước tới nay như Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974
của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn về công tác hòa giải trong
TTDS, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án lao động năm 1996… Đặc biệt, các quy định về hòa giải trong TTDS được
quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) Việt Nam năm 2004 và
8
được sửa đổi bổ sung năm 2011 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và hoàn thiện về
chế định hòa giải các vụ việc dân sự nói riêng.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về hòa giải trong TTDS cho
thấy nhiều quy định của BLTTDS vẫn còn có những hạn chế, thiếu sót dẫn tới
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, làm ảnh hưởng không
nhỏ tới hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tiễn tư pháp. Hiện tượng,
các Tòa án lúng túng hoặc thiếu thống nhất trong việc áp dụng các quy định
về hòa giải hoặc các quy định cứng nhắc của pháp luật đã không còn đáp ứng
được đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp là những minh chứng cho thực
trạng này. Do vậy, cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu nhằm luận giải
cả về lý luận, pháp luật và thực tiễn từ đó đề xuất những giải pháp tháo gỡ
khó khăn là một việc làm hết sức cần thiết.
Với bối cảnh trên, là một cán bộ trực tiếp làm công tác xét xử, tôi
muốn thông quan thực tiễn để xác định những điểm còn chưa hợp lý của các
quy định về hòa giải trong pháp luật TTDS, từ đó có những kiến nghị trong
việc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển của đời sống kinh
tế, xã hội của nước ta hiện nay và trong thời gian tới. Vì vậy, tôi đã chọn đề
tài "Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một cấn đề quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự tại Tòa án. Vì vậy, ngoài việc được Nhà nước quan tâm quy định trong
các văn bản về pháp luật TTDS thì cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý nghiên cứu về vấn đề này. Có thể thống kê một số luận văn,
luận án tiêu biểu sau đây:
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải trong tố tụng dân sự - thực tiễn
và hướng hoàn tiện", của Bùi Đăng Huy, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996;
9
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải trong tố tụng dân sự" của
Trương Kim Oanh, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn, 1996;
- Luận án tiến sĩ Luật học: "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh
tế tại Tòa án ở Việt Nam", của Đào Thị Xuân Lan, Viện Nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật, Hà Nội, 2004;
- Luận án tiến sĩ Luật học: "Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng
dân sự, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", của Trần Văn Quảng, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2004.
Bên cạnh công trình nghiên cứu dưới hình thức luận văn, luận án, thì
vấn đề lý luận về hòa giải cũng được đề cập khái quát trong Giáo trình Luật
TTDS của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh v.v Ngoài ra, còn có một số bài viết về thực tiễn hòa giải các vụ
việc dân sự của các tác giả được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND),
Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Tạp chí Kiểm sát, Báo Công lý như:
- "Hoàn thiện chế định hòa giải trong tố tụng dân sự", của Đào Thị
Mai Hường, Tạp chí TAND, số 1, 1998;
- "Hòa giải và tự thỏa thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động",
của Phan Hữu Thư, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2, 1999;
- "Vai trò và thủ tục hòa giải trong xét xử các tranh chấp lao động",
của Lê Văn Luật, Tạp chí TAND, số 16, 2004;
- "Việc áp dụng các quy định về hòa giải trong tố tụng dân sự", của
Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Kiểm sát, số 5, 2006;
- "Tòa án ra quyết định phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các đương
sự", của Nguyễn Quốc Phong, Báo Công lý, số 72, ngày 06/9/2008;
- "Hòa giải trong tố tụng dân sự của Việt Nam và Nhật Bản nhìn từ góc
độ so sánh", của Dương Quỳnh Hoa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02, 2008;
10
Mỗi công trình và mỗi bài viết trên nghiên cứu về hòa giải trong
TTDS ở một khía cạnh riêng, nhưng phần lớn các công trình trên đều được
tiếp cận nghiên cứu trước khi BLTTDS được ban hành năm 2004 và sửa đổi
năm 2011. Cho đến nay thì luật pháp và thực tiễn về hòa giải trong TTDS đã
có nhiều thay đổi. Chế định hòa giải vụ việc dân sự được hoàn thành trên cơ
sở kinh tế - xã hội, phản ánh sâu sắc các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội đương thời. Vì vậy, chế định hòa giải luôn vận động và phát triển một
cách khách quan trước yêu cầu của đời sống xã hội. Việc ban hành BLTTDS
là một bước phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật TTDS, trong đó có chế
định hòa giải vụ việc dân sự. Có thể nói, từ khi BLTTDS ra đời đến nay, chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu
về chế định hòa giải trong pháp luật TTDS dưới cả ba góc độ lý luận, thực
trạng chế định và thực tiễn thực hiện chế định.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu làm rõ thêm những
vấn đề lý luận về hòa giải, phân tích làm rõ nội dung của chế định hòa giải vụ
việc dân sự trong BLTTDS, văn bản hướng dẫn cũng như thực hiện áp dụng
những quy định này, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa
giải nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hòa giải trong TTDS.
Để đạt được những mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có những
nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Nghiên cứu bản chất, cơ sở lý luận của việc xây dựng nội dung chế
định hòa giải tại Tòa án; nghiên cứu nội dung các quy định của BLTTDS về
hòa giải vụ việc dân sự.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về hòa giải
vụ việc dân sự tại Tòa án.
- Nhận diện những tồn tại, bất cập của các quy định của BLTTDS về
hòa giải vụ việc dân sự và tìm ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của
BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự.
11
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về hòa giải,
chế định hòa giải vụ việc dân sự như khái niệm, bản chất, ý nghĩa, cơ sở của
chế định hòa giải vụ việc dân sự; các quy định của BLTTDS về hòa giải vụ
việc dân sự và thực tiễn áp dụng chúng trên thực tiễn nhằm tìm kiếm những
giải pháp giải quyết những bất cập của các quy định này để nâng cao hiệu quả
của công tác hòa giải vụ việc dân sự trong TTDS.
Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, đề tài chỉ giới hạn việc
nghiên cứu hòa giải trong pháp luật Việt Nam và có mở rộng nghiên cứu so
sánh vơi pháp luật một số nước như Pháp, Nga, Trung Quốc và Nhật Bản.
Việc nghiên cứu thực tiễn cũng chủ yếu tiến hành đối với công tác hòa giải tại
các Tòa án từ sau khi BLTTDS được ban hành, có chú trọng tới thực tiễn hòa
giải tại nơi học viên công tác.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể cũng được sử dụng cho việc hoàn thành luận văn như phân
tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, so sánh, điều tra xã hội, lôgíc, lịch sử v.v
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Có thể nói rằng, từ khi BLTTDS có hiệu lực đến nay, luận văn này là
công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có
hệ thống các quy định về hòa giải của Bộ luật này. Vì vậy, luận văn có những
đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Luận giải và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về hòa giải và chế
định hoà giải vụ việc dân sự.
- Đánh giá đầy đủ thực trạng của các quy định về hòa giải của BLTTDS,
chỉ ra những vướng mắc trong quá trình áp dụng và những tồn tại, bất cập của chúng.
12
- Đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của BLTTDS về
hòa giải vụ việc dân sự và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
và một số kiến nghị.
13
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỊNH HOÀ GIẢI, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA
HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
Từ xưa đến nay, trong bất kỳ xã hội nào, để tồn tại và phát triển, con
người đều phải tham gia vào các quan hệ xã hội ở các mức độ khác nhau. Khi
tham gia vào các quan hệ xã hội, mâu thuẫn về quyền, lợi ích là điều khó có
thể tránh khỏi. Xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng
đa dạng và phức tạp, kéo theo đó là các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên
gia tăng không ngừng. Nếu các mâu thuẫn, tranh chấp này không được giải
quyết kịp thời, thỏa đáng sẽ để lại nhiều hệ lụy không tốt cho các bên tham
gia quan hệ pháp luật cũng như cho toàn xã hội.
Trong xã hội dân sự việc các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động cũng có thể nảy sinh các
tranh chấp, xung đột về quyền lợi ích hoặc ngay cả khi các bên không có
tranh chấp về lợi ích thì mối bất hòa giữa các bên cũng cần được giải quyết để
ổn định trật tự của các quan hệ pháp luật. Để giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp hoặc bất hòa này thì các chủ thể có thể lựa chọn nhiều phương thức giải
quyết khác nhau như tự thương lượng, thỏa thuận hoặc hòa giải thông qua
người thứ ba, trọng tài hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong các
phương thức giải quyết tranh chấp nêu trên thì hòa giải được coi là phương
thức có nhiều ưu điểm nhất. Việc tự thương lượng, thỏa thuận hoặc hòa giải
thông qua người thứ ba, trọng tài được coi là hòa giải tiền tố tụng không gắn
với hoạt động tố tụng của Tòa án.
14
Trong trường hợp các bên không thể giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp
hoặc bất hòa thông qua con đường hòa giải tiền tố tụng thì họ cần phải thực
hiện quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên,
trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự thì hòa giải là một trong những
nguyên tắc quan trọng thể hiện tính đặc trưng và riêng biệt của TTDS. Việc
hòa giải xuất phát từ quyền tự định đoạt của các đương sự và là một phương
thức để giải quyết tranh chấp hoặc một số yêu cầu nhất định phát sinh từ quan
hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động. Như vậy,
ngay cả khi đương sự đã khởi kiện ra Tòa án thì tranh chấp giữa các bên vẫn
có thể được giải quyết thông qua con đường hòa giải. Vậy hòa giải và hòa giải
trong TTDS cần được hiểu như thế nào, đó là vấn đề mà chúng ta cần phải có
sự nghiên cứu và kết luận.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì có nhiều quan điểm, cách hiểu khác
nhau về hòa giải. Theo cuốn Từ điển tiếng Việt: "Hòa giải là thuyết phục các
bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa" [39, tr. 340].
Khái niệm này đã chỉ ra được hành động và mục đích của hòa giải, nhưng
chưa đề cập đến bản chất, nội dung, chủ thể của hòa giải. Theo quan điểm học
thuật của các tố tụng gia Nhật Bản đã được ghi nhận trong pháp luật thì "Hòa
giải là một bước củng cố thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua sự
nhượng bộ giữa các bên" [38, Điều 695].
Trong Từ điển pháp lý của Rothenberg, hòa giải (reconciliation) là:
"hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ
một ít" [40, tr. 410]. Còn theo Từ điển luật học Black Law thì hòa giải là: "sự can
thiệp, sự là trung gian hòa giải, là hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa
hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục, dàn xếp tranh chấp giữa họ" [40, tr. 152].
Như vậy, có thể thấy định nghĩa hòa giải của Rothenberg đã nêu được
bản chất của hòa giải nhưng vẫn chưa nêu được hành vi, vai trò trung gian của
bên thứ ba trong hòa giải. Trong khi đó, Từ điển Luật học Black Law lại bao
quát được các nội dung này.
15
Nếu xét theo nghĩa Hán - Việt thì hòa giải là phương thức giải quyết
tranh chấp bằng con đường hòa bình. Theo nghĩa này thì hòa giải còn bao
hàm cả việc giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các bên thông qua vai trò
hướng dẫn, dàn xếp của bên thứ ba là trọng tài nhằm giúp các bên tranh chấp
giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp. Tuy
nhiên, việc hòa giải thông qua trọng tài không phải là hòa giải trong TTDS.
Các giáo trình về TTDS hiện nay chỉ đề cập tới vấn đề hòa giải trong
các vụ án dân sự mà không đưa ra khái niệm về hòa giải trong TTDS. Tiến sĩ
Hoàng Ngọc Thỉnh đề cập tới vấn đề hòa giải dưới góc độ là một hoạt động
tố tụng. Theo đó, "Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến
hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân
sự" [9, tr. 257].
Dưới góc độ thủ tục tố tụng, nếu xét theo nghĩa rộng thì hòa giải
không những chỉ là một thủ tục tố tụng bắt buộc do Tòa án cấp sơ thẩm tiến
hành trước khi có quyết định giải quyết vụ việc mà còn bao hàm cả việc các
bên đương sự tự hòa giải với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ việc
dân sự và yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó. Nếu xét theo nghĩa hẹp
thì hòa giải trong TTDS là một thủ tục tố tụng bắt buộc do Tòa án tiến hành
trước khi quyết định đưa vụ việc ra giải quyết bằng một phiên tòa xét xử hoặc
một phiên họp theo quy định của pháp luật. Theo đó, hòa giải là một thủ tục
do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các bên đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định của pháp luật và hướng dẫn động viên các đương
sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc theo đúng quy định
của pháp luật.
Theo góc nhìn này thì có thể nhận thấy hòa giải trong TTDS là một
khái niệm mà nội hàm của nó bao hàm các dấu hiệu cơ bản sau đây:
- Hòa giải trong TTDS là hoạt động do Tòa án chủ động tổ chức và
trực tiếp tiến hành với vai trò hướng dẫn, giải thích động viên các đương sự
16
thỏa thuận, thương lượng hoặc là hoạt động tố tụng được tiến hành theo sáng
kiến của chính các bên đương sự.
- Buổi hòa giải thường diễn ra tại địa điểm do Tòa án lựa chọn và
thông thường là tại trụ sở Tòa án. Tuy nhiên, việc hòa giải theo sáng kiến của
chính các đương sự có thể được tiến hành ngoài trụ sở Tòa án. Pháp luật nước
ta hiện nay dường như thiếu vắng các quy định về sự hỗ trợ của Tòa án về địa
điểm hòa giải theo sáng kiến của các bên hoặc luật sư của họ.
- Kết quả hòa giải được Tòa án lập biên bản ghi lại nội dung các vấn
đề mà các bên đương sự đã thỏa thuận được hoặc chưa thỏa thuận được nhằm
tiếp tục giải quyết vụ án theo các trình tự thủ tục nhất định.
Từ các phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm hòa giải như sau:
Hòa giải trong tố tụng dân sự là việc các bên đương sự tự mình thương lượng,
thỏa thuận về vụ việc sau khi Tòa án đã thụ lý vụ việc và hoạt động tố tụng do
Tòa án trực tiếp tiến hành nhằm giúp các bên đương sự hoặc người đại diện
hợp pháp của họ hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình, của đương sự mà họ đại
diện, hướng dẫn, động viên các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ việc theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Dưới góc độ chế định pháp luật, hòa giải được coi là một chế định
trong pháp luật TTDS, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ pháp luật TTDS giữa Tòa án và các đương sự trong việc hòa giải vụ
việc dân sự. Các vấn đề liên quan tới hòa giải được pháp luật TTDS điều
chỉnh bao gồm chủ thể hòa giải, nguyên tắc hòa giải, phạm vi hòa giải, thủ tục
tiến hành hòa giải và hệ quả pháp lý của việc hòa giải.
Chế định hòa giải trong pháp luật TTDS Việt Nam có nguồn gốc từ
truyền thống dân tộc. Từ xưa, người Việt Nam đã nhận thức được rằng chỉ có
đoàn kết mới có thể đấu tranh chiến thắng thiên tai để tồn tại và phát triển.
Trong cuộc sống hằng ngày, mâu thuẫn, tranh chấp là điều không thể tránh
khỏi, với lối sống cộng đồng, hòa giải đã trở thành giải pháp quan trọng để
17
giải quyết mọi tranh chấp quyền lợi ích hoặc bất hòa. Người Việt Nam vốn có
truyền thống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, có tinh thần đoàn kết, hòa thuận
từ ngàn xưa. Do vậy, ngay từ khi pháp luật chưa ghi nhận thì vấn đề hòa giải
đã tồn tại. Khi có tranh chấp xảy ra thì hàng xóm, láng giềng, những người
cao tuổi, có uy tín sẽ dàn xếp, phân tích trên cơ sở tình làng nghĩa xóm, giúp
các bên tranh chấp thông cảm, thỏa thuận với nhau để giải quyết mâu thuẫn
một cách êm đẹp.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước
ta đã luôn coi trọng vấn đề hòa giải trong việc giải quyết các vụ việc phát sinh
từ các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động. Dưới góc nhìn
luật học thì việc coi hòa giải là một chế định quan trọng trong pháp luật TTDS
xuất phát từ đặc thù của quan hệ pháp luật nội dung là các quan hệ được thiết
lập trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận giữa các chủ thể. Bản thân
các đương sự là những người có quyền, lợi ích tranh chấp cho nên có thể tự
định đoạt về việc giải quyết quyền, lợi ích của mình. Nếu nhìn rộng ra thì
không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, chế định hòa giải đã được quy định
trong pháp luật TTDS ở nhiều nước và hòa giải trở thành một thủ tục bắt buộc
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra khái niệm chế định hòa giải như
sau: Chế định hòa giải trong TTDS là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ pháp luật TTDS giữa Tòa án với các đương sự, người đại diện
hợp pháp của đương sự trong việc giúp các bên thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ việc dân sự, hỗ trợ các bên ghi nhận thỏa thuận về vụ việc dân
sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong tố tụng dân sự
Như vậy, qua các luận giải và phân tích ở trên, bản chất của chế định
hòa giải trong TTDS đã được làm rõ. Tuy nhiên, dưới góc nhìn các quy định
của chế định hòa giải được xây dựng phải phản ánh được bản chất của hòa
18
giải và các đặc trưng riêng biệt của nó thì việc làm rõ các đặc điểm cơ bản
của hòa giải sẽ là tiền đề cần thiết cho việc xây dựng các quy định về vấn đề
này. Do vậy, trong tiểu mục này, luận văn đi vào luận giải, làm rõ những đặc
điểm cơ bản của hoà giải mà chế định pháp luật về vấn đề này cần phải
phản ánh.
Theo kết quả nghiên cứu thì hòa giải có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Hòa giải là sự thương lượng, thỏa thuận của chính các đương sự về
quyền, lợi ích của mình
Khi một cá nhân, một tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm thì họ có
quyền yêu cầu Tòa án đứng ra bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Do bản
chất của quan hệ pháp luật nội dung là quan hệ tài sản hoặc quan hệ nhân thân
được hình thành trên cơ sở tự do, tự nguyện. Do đó, trong quan hệ pháp luật
TTDS, các đương sự có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải
quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện ý
chí, thỏa thuận. Tuy nhiên, đương sự cũng có thể thực hiện quyền tự định đoạt
của mình thông qua người đại diện hợp pháp trong những trường hợp đặc
biệt. Trong những trường hợp này việc tham gia hòa giải của người đại diện
phải theo ý chí của đương sự, vì quyền lợi của đương sự được họ đại diện.
Khi tham gia vào quá trình hòa giải, chỉ với sự tự nguyện thực sự, họ
mới có thể thực hiện được triệt để nhất quyền tự định đoạt của mình. Tòa án
tham gia vào quá trình hòa giải chỉ với vai trò là người tổ chức, giải thích
pháp luật, giúp đương sự hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ của mình để có những
quyết định phù hợp không trái pháp luật.
Đặc điểm này đòi hỏi Tòa án không được dùng bất kỳ hình thức nào
để cưỡng ép, bắt buộc đương sự phải hòa giải với nhau. Nếu các Thẩm phán
không nắm vững nghiệp vụ, không có đạo đức nghề nghiệp sẽ dễ dẫn tới việc
không đảm bảo tính tự nguyện của đương sự khi hòa giải, vi phạm quyền tự
định đoạt của đương sự.
19
- Hòa giải trong TTDS được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ án
theo sáng kiến của Tòa án, do Tòa án trực tiếp tiến hành hoặc theo sáng kiến
của chính các đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự
Theo pháp luật TTDS Việt Nam, hòa giải được coi là một nguyên tắc,
là một thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải tiến hành trước khi đưa vụ việc được
đưa ra phiên tòa, phiên họp sơ thẩm (trừ trường hợp pháp luật quy định không
được hòa giải và những trường hợp không tiến hành hòa giải được). Tòa án
giữ một vị trí đặc biệt, với vai trò là trung gian có nhiệm vụ tổ chức cho các
bên đương sự gặp nhau để thương lượng, thỏa thuận về quyền lợi của họ. Khi
hòa giải, Tòa án giải thích cho đương sự về các quy định của pháp luật liên
quan tới các vấn đề tranh chấp, các chính sách của nhà nước, động viên, giúp
đỡ họ tháo gỡ những vấn đề vướng mắc trong tâm tư tình cảm của mình. Tòa
án có trách nhiệm ghi nhận quan điểm của các đương sự bằng một văn bản
pháp lý. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hòa giải trong TTDS bao
hàm cả việc hòa giải theo sang kiến của Tòa án và sáng kiến của các bên
đương sự, do các bên đương sự tự tiến hành thương lượng, đàm phán mà
không có sự can thiệp của Tòa án.
Dấu hiệu về vai trò của Tòa án là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt hòa
giải trong TTDS do Tòa án tiến hành với trường hợp các đương sự tự hòa
giải. Tuy nhiên, xét về thực tế thì kết quả thỏa thuận mà các bên đạt được
nhiều khi là hệ quả gián tiếp từ việc giải thích pháp luật hoặc hoạt động hòa
giải trước đó của Tòa án. Còn dấu hiệu về hoạt động TTDS được tiến hành
sau khi Tòa án thụ lý vụ án là cơ sở để phân biệt hòa giải trong TTDS với hòa
giải ngoài TTDS do các chủ thể khác như trọng tài, ủy ban nhân dân, tổ hòa
giải cơ sở thực hiện.
- Hòa giải là một thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự tại Tòa án
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của việc hòa giải thành, pháp luật TTDS
của chúng ta đã coi hòa giải là một thủ tục, có tính bắt buộc phải tiến hành
20
trước khi mở phiên tòa, phiên họp sơ thẩm. Tuy nhiên, tại các giai đoạn khác
của quá trình tố tụng, Tòa án vẫn có thể tiến hành hòa giải nếu xét thấy việc
hòa giải là cần thiết và có khả năng hòa giải thành. Xét trong các quy định của
pháp luật từ trước tới nay, ngoài việc hòa giải bắt buộc trước khi Tòa án mở
phiên tòa, phiên họp sơ thẩm thì các bên vẫn có thể tự hòa giải tại các giai
đoạn tố tụng khác, thậm chí cả ở trình tự tố tụng phúc thẩm.
Việc bắt buộc tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm xuất phát từ những cơ sở nhất định. Trước khi mở phiên tòa, phiên họp
sơ thẩm, Tòa án phải tiến hành xác minh, hoạt động này đã giúp Thẩm phán
nắm được nội dung vụ việc, hiểu được nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh
mâu thuẫn hoặc bất hòa đây là cơ sở để Tòa án tiến hành hòa giải có hiệu quả
nhất. Ngoài ra, trong giai đoạn này, nếu tiến hành hòa giải thành, sẽ có nhiều
ý nghĩa về mặt tố tụng, kinh tế, xã hội. Trong các giai đoạn khác, hòa giải
được quy định không phải là một thủ tục tố tụng bắt buộc, nhằm tránh tình
trạng lặp đi lặp lại việc hòa giải không thành một cách không cần thiết. Tại
các giai đoạn tố tụng này, hòa giải có thể được tiến hành nếu Tòa án thấy có
khả năng hòa giải thành. Ngoài ra, nếu các đương sự tự hòa giải và đề nghị
Tòa án công nhận thì thủ tục ghi nhận thỏa thuận và công nhận thỏa thuận
cũng được tiến hành tương tự như trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải.
Như vậy, quy định hòa giải là một thủ tục tố tụng theo pháp luật hiện
hành sẽ tạo sự linh hoạt, chủ động cho các Thẩm phán và phát huy được tác
dụng của hoạt động hòa giải trong thực tiễn, đồng thời nó đảm bảo cho giai
đoạn thi hành án được tiến hành thuận lợi hơn.
- Việc hòa giải phải vừa tích cực, vừa kiên trì
Đặc điểm này được thể hiện đối với các vụ việc mà Tòa án chủ động
tiến hành hòa giải. Để việc hòa giải có thể đạt được hiệu quả, bên cạnh sự
thiện chí và tích cực của các đương sự, thì người Thẩm phán tiến hành hòa
giải cũng cần có sự tích cực, kiên trì thực hiện trách nhiệm của mình. Tích
21
cực để đảm bảo việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, có hiệu quả,
nhưng nội dung không được trái với pháp luật. Tòa án không được tiến hành
hòa giải một cách qua loa đại khái, không đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng
của đương sự hoặc giải thích pháp luật không rõ ràng làm cho đương sự
không hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình, dẫn tới hòa giải không thành,
mâu thuẫn của các bên không được giải quyết.
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự
- Ý nghĩa về mặt tố tụng
Việc hòa giải thành có một ý nghĩa rất lớn về mặt tố tụng. Việc hòa
giải thành giúp Tòa án giải quyết vụ việc mà không phải mở phiên tòa, phiên
họp tránh được việc kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại, góp phần giảm bớt
việc kéo dài những giai đoạn tố tụng không cần thiết như phúc thẩm, tái thẩm
hay giám đốc thẩm. Đồng thời việc hòa giải thành cũng giải quyết dứt điểm
vụ việc. Đối với trường hợp hòa giải thành, mỗi bên đương sự đều thỏa thuận
trên cơ sở ý chí tự nguyện và phù hợp với lợi ích của mình, nên họ sẽ tự
nguyện trong việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, việc
hòa giải thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án, tránh được
những phức tạp nảy sinh trong quá trình thi hành án dân sự.
Trong trường hợp hòa giải không thành thì công tác hòa giải cũng
giúp cho Thẩm phán nắm vững hơn về vụ việc, hiểu rõ hơn tâm tư tình cảm
và những khúc mắc của đương sự, từ đó có thể thiết lập hướng giải quyết vụ
việc đúng đắn hơn, rút ra những kinh nghiệm trong quá trình giải quyết vụ
việc tại phiên tòa, phiên họp.
- Ý nghĩa về mặt kinh tế
Thực tiễn cho thấy có nhiều vụ án kéo dài nhiều năm, phải xử đi, xử
lại nhiều lần. Đối với những vụ án được giải quyết bằng hòa giải thì thời gian
giải quyết vụ việc rất ngắn, có thể chỉ từ một đến hai tháng, nếu sự thỏa thuận
22
của đương sự đạt được ở giai đoạn trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Vì
vậy, việc hòa giải thành công không chỉ tiết kiệm thời gian, tiền của cho
đương sự, mà còn ý nghĩa rất lớn đối với Tòa án, góp phần giúp Tòa án có
thời gian giải quyết các vụ án khác, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân.
Nếu hòa giải không thành, phải đưa vụ án ra xét xử, kinh phí tổ chức
một phiên tòa là rất lớn. Đó là các khoản dành cho việc thành lập hội đồng xét
xử, mời hội thẩm nhân dân, sử dụng trang thiết bị phục vụ cho phiên tòa, bố
trí lực lượng bảo vệ phiên tòa… Đối với các đương sự, hòa giải thành sẽ tiết
kiệm cho họ thời gian và những chi phí không cần thiết, nhất là đối với những
đương sự ở xa trụ sở của Tòa án, việc đi lại có khó khăn và tốn kém. Do đó,
hòa giải là con đường tốt nhất để họ tiết kiệm thời gian, tiền của mà vẫn bảo
vệ được lợi ích của mình.
- Ý nghĩa về mặt xã hội
Không một thủ tục tố tụng nào mà quyền tự định đoạt của đương sự
lại được thể hiện rõ nét như trong thủ tục hòa giải. Tại thủ tục này, đương sự
có quyền quyết định sẽ tiếp tục kéo dài quá trình giải quyết vụ án hay không,
đưa ra những yêu cầu, đề nghị liên quan đến tranh chấp và chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của các đương sự khác…
Việc giải quyết vụ án nhanh chóng, hợp tình, hợp lý cũng củng cố
niềm tin của nhân dân vào các cơ quan nhà nước. Nhưng việc hòa giải không
phải lúc nào cũng dễ dàng, thuận tiện. Để tiến hành hòa giải có hiệu quả,
người Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm hiểu cuộc sống, nhân
thân của các đương sự, phải có đạo đức nghề nghiệp, và phải có phương pháp.
Vì vậy, hòa giải thành còn là tiêu chí để đánh giá năng lực của cán bộ Tòa án.
Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải giải thích cho các đương sự
về các chính sách của nhà nước, những quy định của pháp luật, động viên
khuyến khích họ… Bởi vậy, công tác hòa giải đã giúp đương sự hiểu biết hơn
về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của mình. Hiểu biết pháp luật sẽ giúp cho
23
họ có khả năng bảo vệ quyền lợi của chính mình, có cách cư xử phù hợp với
các quy định của pháp luật, tránh những hành vi vi phạm pháp luật.
Hòa giải thành sẽ giúp các đương sự hiểu biết, thông cảm cho nhau,
khôi phục lại tình đoàn kết giữa họ, giúp họ giải quyết tranh chấp với tinh
thần cởi mở, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội. Trong một số việc
dân sự việc hòa giải thành sẽ giúp đương sự tiếp tục duy trì được quan hệ giữa
các bên. Như vậy, hòa giải đã củng cố tình đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt
những mâu thuẫn, góp phần vào việc giữ gìn an ninh trật tự, công bằng xã hội,
đảm bảo cho các quan hệ xã hội phát triển lành mạnh.
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
- Chế định hòa giải được xây dựng trên cơ sở đường lối của Đảng về
cải cách tư pháp
Với những ý nghĩa về mặt tố tụng, ý nghĩa về mặt kinh tế và ý nghĩa
về mặt xã hội nêu trên, việc xây dựng chế định hòa giải trong TTDS là hết sức
cần thiết. Nội dung chế định hòa giải được xây dựng trên cơ sở quán triệt, bám
sát tư tưởng chỉ đạo của Đảng được ghi nhận tại Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
"khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa
giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó" [8].
Bên cạnh đó, nội dung chế định hòa giải phải bao quát được những điểm cơ
bản sau:
- Chế định hòa giải được xây dựng trên cơ sở quyền tự do, tự nguyện
cam kết thỏa thuận trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động
Bản chất của quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương
mại, lao động là sự tự nguyện, bình đẳng, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm
giữa các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự; không bên nào được
24
lừa dối, ép buộc, cưỡng ép bên kia xác lập, thực hiện các giao dịch trái ý chí
chủ quan của họ. Trong các quan hệ pháp luật này thì chính các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật có quyền và lợi ích về dân sự (có thể là quyền nhân thân,
quyền tài sản hoặc cả hai), do vậy họ có quyền thương lượng, thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp.
Chế định hòa giải chỉ có thể được xây dựng trong việc giải quyết các
quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động mà không
thể áp dụng trong các quan hệ pháp luật hình sự hay quan hệ pháp luật hành
chính. Quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động là
các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật nội dung điều chỉnh, trong
đó các chủ thể tham gia có vị trí độc lập, bình đẳng, có các quyền và nghĩa vụ
được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản; địa vị pháp lý
của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ thuộc vào các yếu tố
xã hội khác, các bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau nhưng không được áp
đặt ý chí của mình để buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ mà cần phải tạo
điều kiện cho nhau một cách tốt nhất. Chế tài khi có tranh chấp phát sinh
không chỉ do luật định mà trong nhiều trường hợp do sự thỏa thuận thống
nhất giữa các bên. Trong khi đó, trong quan hệ pháp luật hình sự hoặc hành
chính, mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau (nhà nước với công dân) là bất
bình đẳng. Khi công dân vi có hành vi vi phạm pháp luật hình sự hay hành
chính, xâm phạm đến trật tự công thì không có chuyện thỏa thuận với nhà
nước về việc bồi thường hoặc áp dụng một chế tài nào khác; càng không có
chuyện hòa giải giữa nhà nước với công dân vi phạm pháp luật.
- Chế định hòa giải được xây dựng trên cơ sở quyền quyết định và tự
định đoạt của các đương sự trong TTDS
Quyền quyết định và tự định đoạt của các bên trong TTDS được ghi
nhận là một nguyên tắc cơ bản của TTDS, có nguồn gốc từ nguyên tắc tự do,
tự nguyện, cam kết thỏa thuận trong các quan hệ pháp luật nội dung. Quyền
định đoạt này bảo đảm sự tự nguyện đích thực, thể hiện sự dung hòa ý chí và
25
nguyện vọng của các đương sự. Do vậy, các quy định về hòa giải phải ghi
nhận theo hướng Tòa án không thể tự mình quyết định giải quyết vụ việc hoặc
áp đặt ý chí đối với các đương sự khi tiến hành hòa giải.
- Chế định hòa giải trong TTDS được xây dựng phải bảo đảm bảo vệ
có hiệu quả và hài hòa quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong TTDS
Tòa án có nhiệm vụ xét xử và giải quyết các vụ việc dân sự nhằm bảo
vệ có hiệu quả quyền lợi của các bên, thiết lập lại trật tự của các quan hệ pháp
luật nội dung. Để có thể nhanh chóng bảo vệ một cách có hiệu quả quyền lợi
của các bên, thiết lập lại trật tự của các quan hệ pháp luật nội dung thì Tòa án
có nhiệm vụ giúp đỡ các bên thương lượng, tìm kiếm một giải pháp ít tốn kém
và hiệu quả nhất trong việc thực thi các quyền dân sự theo nghĩa rộng. Tòa án
phải tạo mọi điều kiện cần thiết, hướng dẫn, giúp đỡ để các bên có thể thương
lượng với nhau trên cơ sở bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể trong TTDS,
không chỉ là quyền lợi của nguyên đơn, bị đơn, mà còn là quyền lợi của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đương sự trong việc dân sự.
Theo góc nhìn trên thì khi xây dựng các quy định về hòa giải cần phải
tính đến sự tham gia hay có mặt của đương sự, nghĩa vụ triệu tập các đương sự
của Tòa án trước khi tiến hành hòa giải và Tòa chỉ công nhận kết quả hòa giải
khi việc thỏa thuận là tự nguyện, không xâm hại quyền lợi của chủ thể khác.
- Chế định hòa giải trong TTDS được xây dựng trên cơ sở bảo đảm
phù hợp với pháp luật nội dung và đạo đức xã hội
Xuất phát từ góc nhìn này thì các quy định về hòa giải vụ việc dân sự
chỉ được thiết lập đối với những vụ việc mà pháp luật nội dung không cấm
các bên thỏa thuận với nhau. Theo đó, các quy định về phạm vi hòa giải cần
được xây dựng theo hướng Tòa án không được tiến hành hòa giải những vụ
việc dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Quyền định đoạt của đương sự và trách nhiệm hòa giải của Tòa án
phải được tiến hành không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối với giao dịch