Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Hệ thống biểu tượng trong thơ tình yêu của xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.28 KB, 61 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*********



NGUYỄN THỊ THU HUYỀN



HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG
TRONG THƠ TÌNH YÊU XUÂN QUỲNH



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


Người hướng dẫn khoa học:
TS. LA NGUYỆT ANH



HÀ NỘI - 2014

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn Líp K36B - SP V¨n




LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, tổ Bộ môn văn học Việt Nam và
TS. La Nguyệt Anh - giảng viên trực tiếp hướng dẫn.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy, cô giáo và cô
hướng dẫn.
Do khả năng hạn chế và thời gian có hạn, chắc chắn khóa luận không tránh
khỏi những thiếu sót, chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự đóng góp của các thầy
cô để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Người thực hiện


Nguyễn Thị Thu Huyền





Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn Líp K36B - SP V¨n


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Khóa luận Hệ thống biểu tượng trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh
là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những người đi trước,

tham khảo các tài liệu có liên quan, dưới sự giúp đỡ khoa học của TS. La Nguyệt Anh.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình sẵn có.
Kết quả khóa luận ít nhiều có đóng góp vào việc tìm hiểu và nghiên cứu tác
giả Xuân Quỳnh.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Người thực hiện


Nguyễn Thị Thu Huyền










Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn Líp K36B - SP V¨n


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6

5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của khóa luận 7
7. Cấu trúc của khóa luận 7
NỘI DUNG 8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 8
1.1. Quan niệm về biểu tượng và biểu tượng trong thơ 8
1.1.1. Khái niệm biểu tượng 8
1.1.2. Biểu tượng trong thơ 8
1.2. Xuân Quỳnh và sự nghiệp sáng tác 10
1.2.1. Vài nét về Xuân Quỳnh 10
1.2.2. Xuân Quỳnh - người thơ “tự hát” 14
1.2.3. Khảo sát biểu tượng trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh 19
Chương 2. HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ TÌNH YÊU
XUÂN QUỲNH 21
2.1. Biểu tượng của sự gắn kết yêu thương 21
2.1.1. Trái tim - “chất keo” của tình yêu 21
2.1.2. Bàn tay - “nơi dựa” của tình yêu 26
2.1.3. Sóng, thuyền, biển - biểu tượng của tình yêu bền chặt, thủy chung . 32
2.2. Biểu tượng của hạnh phúc 37
2.2.1. Ngôi nhà - “tổ ấm” biểu tượng trung tâm hạnh phúc 37
2.2.2. Vòm cây và những biến thể của “mái che” hạnh phúc 40

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn Líp K36B - SP V¨n


2.3. Biểu tượng của sự lo âu, khắc khoải trong tình yêu 42
2.3.1. Con đường - “hành trình” đến xứ sở tình yêu 42
2.3.2. Dòng sông - “nhân chứng” của tình yêu 45
2.3.3. Hoa và những điều không thể nói 48

KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO






Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 1 Líp K36B - SP V¨n

MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân từng nhận xét: “Xuân Quỳnh là hiện
tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ là từ đời Hồ Xuân Hương, qua các
chặng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy, mới lại thấy một thi sĩ mà tài
năng và sự đa dạng của tâm hồn được thể hiện ở tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào
phong phú như vậy” [9, tr.109].
Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ Việt Nam trưởng
thành từ lửa đạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ và là nhà thơ nữ có vị trí quan
trọng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Quỳnh bước vào làng thơ như một
sự thách thức với số phận. Người con gái ấy đã chối bỏ phông màn, ánh sáng lộng
lẫy, hào quang của sân khấu vũ đạo để buộc số phận mình vào với cây bút và các
trang giấy, mạnh dạn dấn thân trên con đường chinh phục nghệ thuật.
1.2. Xuân Quỳnh được mệnh danh là “Nữ hoàng thơ tình”, chị viết rất nhiều
về tình yêu. Chị là một người có phong cách riêng khá độc đáo, ở chị ta thấy một hồn
thơ hết sức khỏe khoắn, một khát vọng sống cháy bỏng và một tình yêu nồng nàn tha
thiết. Đọc những tác phẩm thơ tình yêu Xuân Quỳnh ta thấy nổi bật thế giới hình ảnh

trong thơ thật phong phú, đa dạng. Song những hình ảnh đó lại rất gần gũi quen thuộc
trong cuộc sống hàng ngày. Chị đã đưa vào thơ mình nét dân dã của một thời gắn bó
yêu thương, đó là ao bèo, là chùm hoa xoan tím ngắt, là bàn tay chai cũ với những
đường gân xanh vất vả… và tuổi thơ của chị đã vọng về từ đó. Hay những con sóng
tràn bờ để mãi ngân vang lên bản tình ca mà gần như suốt một đời chị đã “Tự hát” về
thân phận của mình. Hình ảnh trong thơ Xuân Quỳnh đã trở thành biểu tượng, hình
tượng về tình yêu, về hạnh phúc; về cả sự tan vỡ và lo âu. Trong thế giới biểu tượng
thơ Xuân Quỳnh, cái tôi của chị luôn được thể hiện ở những vị trí đặc biệt. Thế giới
đó là cả một sự trải nghiệm của một cuộc đời với bao cay đắng xót xa, và là cả một sự
đánh đổi. Những biểu tượng đó được thể hiện rõ nét ít nhiều nhất ở mảng thơ tình, mà
qua đó, chị đã giãi bày, thổ lộ một niềm yêu đến khắc khoải.

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 2 Líp K36B - SP V¨n

1.3. Có một tác giả đã từng nhận định: “Cái điểm đến cuối cùng của thơ là
phải đem đến một cái gì đó nâng sự sống lên”. Xuân Quỳnh đã nâng sự sống lên bởi
thơ chị giàu tình cảm, tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau tình cảm ấy là khát vọng về
một tình yêu vĩnh cửu với những trăn trở, lo âu rất phụ nữ. Đọc thơ chị, độc giả có
thể soi lại mình, nhận thức để hướng tới những tình cảm bình dị mà cao đẹp nhất.
Chính vì lẽ đó, Xuân Quỳnh là một trong số ít những tác giả nữ được lựa chọn
giảng dạy trong chương trình Ngữ văn ở các cấp học. Trong chương trình Ngữ văn
THCS, Xuân Quỳnh được giới thiệu như một gương mặt tiêu biểu của thơ trẻ chống
Mĩ với bài thơ Tiếng gà trưa - rưng rưng kí ức tuổi thơ gắn với hoài niệm về những
ngày tháng bình yên. Ở chương trình Ngữ văn THPT, người học gặp lại chị qua
khát vọng tình yêu mãnh liệt, đằm thắm trong bài thơ Sóng. Chọn đề tài “Hệ thống
biểu tượng trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh”, chúng tôi mong muốn khảo sát toàn
diện hệ thống các biểu tượng nghệ thuật đã góp phần quan trọng tạo nên phong cách
thơ Xuân Quỳnh và hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo có ích, phục vụ việc
học tập và giảng dạy thơ Xuân Quỳnh ở các bậc học. Với việc triển khai đề tài sẽ

tiếp tục khẳng định phong cách nghệ thuật, bản sắc thơ ca dung dị mà độc đáo của
tác giả Tự hát, đồng thời khóa luận sẽ giúp bạn đọc hiểu sâu sắc hơn về tâm hồn
người phụ nữ đa cảm, đa mang này.
2. Lịch sử vấn đề
Xuân Quỳnh là một nữ sĩ, một người cầm bút hạnh phúc. Tất cả niềm vui,
nỗi khổ, những lênh đênh bảy nổi ba chìm của chị được thơ trang trải hết. Thơ là
khuôn mặt ngời ngợi sáng trong của tâm hồn Xuân Quỳnh, có bao nhiêu ánh sáng
đều được phản chiếu qua thơ và ngay cả khi chị như một chiếc lá đã lìa cành thì thơ
vẫn tiếp tục sự tồn tại của nữ sĩ trên cõi đời này.
Bài viết Những tình cảm trắc ẩn trong thơ Xuân Quỳnh của Nguyễn Hòa
Bình chỉ ra rằng: “Không phải vô cớ mà trong thơ chị có rất nhiều hình ảnh, từ chỉ
tâm trạng, và chị sử dụng nó một cách thường xuyên như những quân cờ được chơi
trong mọi vấn đề. Không thể thay thế được, có thể lọc ra một hệ thống những: cô
đơn, cay đắng đau đớn, nỗi buồn da diết nhớ thương, vui sướng, hạnh phúc, đặc biệt

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 3 Líp K36B - SP V¨n

là những hình ảnh chuyên chở tâm trạng: “cánh buồm”,“hoa cỏ may”,“màu
thu”,“con tàu đi trong hoang vắng” xuất hiện với mật độ dày đặc trong thơ chị.
Chúng gợi sự cảm thông, gợi ra rất nhanh sự đồng cảm tương giao những nỗi niềm
trắc ẩn nơi chị” [23, tr.242].
Nhiều ý kiến nhận định thơ Xuân Quỳnh có rất nhiều hình ảnh: đó là bức
chân dung về những năm tháng lửa đạn, đó là những đổi thay kỳ diệu của quê
hương, vẻ đẹp của xứ sở trong những phút giây yên bình. Thơ chị giàu ý nghĩa xã
hội là bởi điều đó.
Lê Thị Ngọc Quỳnh trong bài viết Thế giới thiên nhiên trong thơ Xuân
Quỳnh chỉ ra rằng: “các hình tượng thiên nhiên luôn song hành cùng những luồng
cảm xúc suy tư của chị, nhập hòa vào những ao ước, trăn trở và đặc biệt không thể
thiếu trong những khoảnh khắc đột biến lớn trong cuộc đời và hồn thơ chẳng bình

yên của chị” [3, tr.19]. Đọc thơ Xuân Quỳnh ngay giữa những hình ảnh thiên nhiên
của chị người ta luôn nhận ra chị dù người yêu, người vợ hay người mẹ cũng luôn
dành trọn cả tấm lòng mình cho những người thân yêu. Chị luôn đối sánh tình yêu
của mình với “hàng cây”, “dòng sông”, “vòm lá”, “sóng”, “ngôi nhà”, “hoa cỏ
may”… mỗi một hình ảnh ấy đều lặp đi lặp lại trong thơ chị và nó là nguồn cảm
hứng vô tận cho cảm xúc luôn đong đầy. Đọc thơ chị ta luôn thấy “sự hồn nhiên,
chân thật trong thơ, lối giãi bày kể lể rất gần với ngôn ngữ dân gian có thể tìm được
hình thức thể hiện nào phù hợp hơn ngôn ngữ thiên nhiên. Một loại biểu tượng luôn
trung thực, tươi sáng và giàu sức khai thác đời sống nội tâm của con người. Một lối
biểu hiện nguyên sơ nhất và cũng “nói” được nhiều nhất” [3, tr.22].
Thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh rất đẹp. Chị thường “thêu” vào những
bức tranh của mình những đường nét hài hòa, tươi tắn, quen thuộc: trời, mây, hoa,
lá, cỏ, con đường, dòng sông, cánh buồm, mái phố… Tần số xuất hiện của các chi
tiết tạo cảnh trong thơ chị khá cao. Cho thấy chị thể hiện tư duy và tạo cảnh quan
chi tiết khá nhiều. Với con mắt tỉ mỉ và trái tim nhạy cảm của một phụ nữ chị đã vẽ
lên bức tranh thiên nhiên trong sáng, giàu sức biểu đạt, và có độ rung cảm sâu sắc.
Chị cũng giống như mọi người đàn bà, ưa trang trí bằng những nét nhỏ bé tinh tế

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 4 Líp K36B - SP V¨n

cho bức tranh của mình, xuất hiện trong thơ chị là khá nhiều những chi tiết được lọc
từ đời sống bằng lối quan sát để ý rất tỉ mỉ chỉ có ở phụ nữ. “Ta rất hay gặp trong
thơ Xuân Quỳnh những cỏ cây sự vật quen thuộc của đời thường: rau, cỏ, hoa, lá,
trăng, nắng, gió, cát…Chị rất giỏi gợi khung cảnh từ một chi tiết đơn sơ: “Hoa mẫu
đơn sơ xác nở bên đồi”, “gió chiều xưa hoa nở trắng bên đồi”,“hoa sấu rụng trên
chái nhà đã cũ”… cảnh thiên nhiên ở đây, đã được gợi từ một vài ấn tượng đậm
nét” [3, tr.37]. Trong thơ chị, ta thường xuyên bắt gặp những hình ảnh hoa, cỏ, rau,
cát… những sự vật này đã trở thành chất liệu ca hát của đời chị như những hình ảnh
khó phai nhạt, hay như một tác giả phê bình đã nói: “chị nhìn thấy chúng vận vào

mình, nên mới hay nhắc đến như vậy” [3, tr.39].
Ngoài thế giới thiên nhiên ngoài khung cửa sổ, chị còn thiết lập trong thơ
mình một không gian khác nhỏ bé, ấm áp “riêng” của mình mà tác giả Chu Văn Sơn
đã gọi là “chất thơ từ tổ ấm”. Trong thế giới đó chúng ta có thể nhận ra những chi
tiết đồ vật sinh hoạt: gian phòng, cánh cửa, lọ hoa, ngọn đèn…vv. Tất cả những đồ
vật tưởng chừng như quá quen thuộc, hay va chạm trong cuộc sống hàng ngày, sẽ bị
lãng quên, che khuất và cạn kiệt chất thơ nhưng lại cất lên thứ ngôn ngữ dung dị,
thân thuộc giản dị vô cùng. Có lẽ vì vậy mà người đọc thường đánh giá Xuân
Quỳnh có một lối thơ rất “đời thường”.
Trong thơ Xuân Quỳnh ngoài những hình ảnh thiên nhiên thì chị rất hay nói
đến “ngôi nhà”, “căn phòng”… Chị luôn đối sánh mình với tổ ấm ấy, hóa thân vào
từng đồ vật và mỗi sự vật chi tiết đều cất lên tiếng nói nhớ nhung, khắc khoải đợi
chờ. Sự nhạy cảm của tâm hồn chị đã đem lại “chất thơ” bình dị mà sâu lắng cho
những sự vật cụ thể bình thường. Tất cả chi tiết ấy đều được chắt lọc tinh tế nhưng
giản dị hồn nhiên và có khả năng tạo những rung cảm lớn trong lòng độc giả.
Trong bài viết Cánh chuồn trong giông bão của Chu Văn Sơn ngoài những
hình ảnh, biểu tượng trong thơ, tác giả cũng nhấn mạnh đến giọng điệu chủ âm
trong thơ Xuân Quỳnh và cho rằng lo âu chính là điệu hồn chị. Trong bài viết, nhà
nghiên cứu chỉ ra từ cái điệu tâm hồn đầy phấp phỏng ấy mà Xuân Quỳnh tìm đến
tình yêu như một sự cứu cánh, để nương tựa, tìm chút bình yên trong cuộc đời đầy

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 5 Líp K36B - SP V¨n

“bão tố” của mình. Chị quay trở về với gia đình - Tổ ấm yêu thương để con sóng
Xuân Quỳnh chống chọi vượt qua cái bấp bênh vô định của dòng đời. Có thể nói,
bài viết của Chu Văn Sơn đã lí giải một cách sắc sảo về giọng điệu thơ Xuân Quỳnh
- giọng điệu lo âu, đầy khắc khoải của một người phụ nữ. Thế giới trong thơ Xuân
Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu
hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng. Ở đó “trái tim thơ Xuân Quỳnh là

cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên
định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và
cách trở, ra đi và trở về, chảy trôi, phiêu bạt và trụ vững, kiên gan, tổ ấm và dòng
đời, sóng và bờ, thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào
và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn
lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm” [2, tr.160].
Nguyễn Thị Bích Ngọc trong bài viết Thơ tình Xuân Quỳnh sự thể hiện sức
mạnh của một tâm hồn phụ nữ đã nhận xét: “Thơ Xuân Quỳnh luôn giàu tâm trạng.
Có khi chỉ bắt đầu từ một xúc động nhẹ nhàng, kín đáo, sôi nổi, da diết… Thơ Xuân
Quỳnh tự nhiên như đã gọi là phụ nữ thì phải sinh con đẻ cái vậy. Và thơ chị bao
giờ cũng xuất phát từ tấm lòng dễ rung cảm, rất thuần nhụy của một người phụ nữ
đôn hậu, thông minh” [23, tr.212].
Tác giả Nguyễn Mạnh Dũng khi tìm hiểu Một số hình ảnh biểu tượng trong
thơ Xuân Quỳnh đã nhận xét: “Trong thơ Xuân Quỳnh ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh,
những hình ảnh đầy ắp của thế giới hiện thực: con cò, bãi cát, dòng sông, cánh
buồm, con đường, gió, mây, nắng, bão, sóng biển, đồng hoa đại ngàn, con tàu và
các loài hoa…Tuy nhiên trong bài viết này người viết chỉ đề cập đến một số hình
ảnh biểu tượng tiêu biểu trong thơ Xuân Quỳnh: sóng, thuyền và biển, hoa và cỏ
dại, bàn tay và trái tim, bầu trời và con đường” [1].
Thực tế cho thấy, phần lớn các bài nghiên cứu, phê bình đều là tác phẩm của
những bạn văn, bạn thơ hay là những người thân, người sống cùng thời với Xuân
Quỳnh. Vì thế, họ là những người hiểu sâu sắc về Xuân Quỳnh cũng như sự thể hiện
của chị trong tình yêu. Điều đó tạo thuận lợi lớn cho thế hệ sau khi nghiên cứu thơ
tình yêu Xuân Quỳnh nói chung và hệ thống biểu tượng trong thơ tình yêu nói riêng.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa Ngữ Văn
Nguyễn Thị Thu Huyền 6 Lớp K36B - SP Văn

Trõn trng v k tha nhng ý kin ca cỏc tỏc gi, cỏc nh nghiờn cu, chỳng tụi
mnh dn tỡm hiu ti: H thng biu tng trong th tỡnh yờu Xuõn Qunh.

3. Mc ớch nghiờn cu
Nghiờn cu H thng biu tng trong th tỡnh yờu Xuõn Qunh ngi vit
xỏc nh mc ớch ca khúa lun nh sau:
- Tỡm hiu h thng biu tng trong mng th tỡnh yờu ca Xuõn Qunh,
qua ú cú th thy c c im cng nh ý ngha ca nhng biu tng ú.
- Ch ra c nhng h thng biu tng c trng trong th tỡnh yờu ca
Xuõn Qunh.
- Khng nh bỳt phỏp sỏng to riờng, c ỏo, giu mu sc thm m, vn
húa trong th Xuõn Qunh v tip tc khng nh v trớ ca tỏc gi i vi th ca
hin i Vit Nam.
õy cng l bc tp dt nghiờn cu quan trng ca sinh viờn trong quỏ
trỡnh hc tp khoa Ng Vn ca trng i hc cú th vn dng vo vic ging
dy sau ny.
4. i tng v phm vi nghiờn cu
4.1. i tng nghiờn cu
Khoỏ lun nghiờn cu h thng biu tng trong th tỡnh yờu Xuõn Qunh.
4.2. Phm vi t liu
T khi gn bú cuc i mỡnh vi th ca cho n khi t gió cuc i, Xuõn
Qunh ó li 7 tp th chớnh. Tuy vy, do hn ch v ngun ti liu cng nh
nng lc ngi vit, chỳng tụi ch tp trung kho sỏt, thng kờ trong cun:
Th tỡnh - Xuõn Qunh, Nxb Vn hc, 2008
Ngoi ra, chỳng tụi cng tham kho thờm mt s bi th tỡnh yờu ca Xuõn
Qunh cỏc tp: T tm - Chi bic (in chung, Nxb Vn hc, 1963); Hoa dc chin
ho (Nxb Vn hc, 1968); Giú Lo cỏt trng (Nxb Vn hc, 1974); Li ru trờn mt
t (Nxb Vn hc, 1978); Sõn ga chiu em i (Nxb Vn hc,1984); T hỏt (Nxb
Tỏc phm mi - Hi nh vn Vit Nam, 1984); Hoa c may (Nxb Tỏc phm mi -
Hi nh vn Vit Nam, 1989).

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 7 Líp K36B - SP V¨n


5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
6. Đóng góp của khóa luận
- Về mặt khoa học: Góp phần tìm hiểu khái quát về thơ tình yêu Xuân
Quỳnh, tìm hiểu về biểu tượng và một số nét đặc sắc nghệ thuật trong thơ tình yêu
của Xuân Quỳnh qua đó khẳng định phong cách nghệ thuật, bản sắc thơ ca dung dị
mà độc đáo của tác giả Xuân Quỳnh.
- Về mặt thực tiễn: Góp phần cung cấp tài liệu cho bạn đọc, cho công việc
nghiên cứu văn học, nghiên cứu thơ tình yêu và các sáng tác của Xuân Quỳnh trong
Nhà trường.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung khóa luận
gồm chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Hệ thống biểu tượng trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh













Khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa Ngữ Văn
Nguyễn Thị Thu Huyền 8 Lớp K36B - SP Văn

NI DUNG
Chng 1
NHNG VN CHUNG

1.1. Quan nim v biu tng v biu tng trong th
1.1.1. Khỏi nim biu tng
Thut ng biu tng (ting Phỏp: Symbole, ting Anh: Symbol) cú ngun gc
t ting Hy Lp: Symbolon, ngha l kớ hiu, du hiu nhn ra nhau l mt, ngy nay
c nhiu ngnh khoa hc s dng vi nhng ni hm khỏc nhau [5, tr.20].
Trong T in thut ng vn hc, biu tng c hiu l: khỏi nim ch
mt giai on, mt hỡnh thc ca nhn thc cao hn cm giỏc, cho ta hỡnh nh ca
s vt cũn gi li trong u úc sau khi tỏc ng ca s vt vo giỏc quan ta ó chm
dt [4, tr.23]. Trong ngha rng, biu tng l: c trng phn ỏnh cuc sng
bng hỡnh tng vn hc ngh thut [4, tr.24]. Trong ngha hp, biu tng l:
mt phng thc chuyn ngha ca li núi hoc mt loi hỡnh tng ngh thut
c bit cú kh nng truyn cm ln, va khỏi quỏt c bn cht ca mt hin
tng no y, va th hin mt quan nim, mt t tng hay mt trit lý sõu xa
vi con ngi v cuc i [4, tr.24].
Trong cun Quỏ trỡnh sỏng to th ca, Bựi Cụng Hựng cng ch ra rng:
Hỡnh nh cm tớnh c th v nhng hin tng ca th gii bờn ngoi. Biu tng
cựng vi cm giỏc v tri giỏc to nờn nhn thc cm tớnh [6, tr.66].
1.1.2. Biu tng trong th
Biu tng trong vn hc c th l biu tng trong th ca dựng sỏng tỏc
th, ú l nhng hỡnh nh c th giu tớnh cm xỳc cú nhiu kh nng cha ng ý
ngha sõu, cú kh nng kt hp v bin húa nhiu. Nú l cỏc hỡnh nh cú sc khỏi
quỏt nht nh nhng thng l khi im ca cỏc hỡnh nh khỏc phong phỳ hn, a

dng hn. ú cú th l mt tri, mt trng, bn tay, trỏi tim, bn, ũ, chic khn,
bu tri, ỏm my, sõn ga, con tuvv
L mt phng thc chuyn ngha ca li núi, biu tng cú quan h gn gi
vi n d, hoỏn d. Ging vi hoỏn d, n d, biu tng c hỡnh thnh trờn c

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 9 Líp K36B - SP V¨n

sở đối chiếu, so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện khía cạnh,
những đặc điểm gần gũi tương đồng nhằm làm nổi bật bản chất tạo ra một ý niệm
cụ thể, sáng tỏ về hiện tượng hay đối tượng đó. Các biểu tượng như “mùa xuân”
(sức sống và tuổi trẻ), “cây liễu”, “cành liễu” (vẻ đẹp yểu điệu của người con gái),
“thuyền” và “bến”, “hoa” và “bướm” (người con trai và người con gái) là những
hình thức chuyển nghĩa được hình thành trên cơ sở như thế.
Tuy nhiên, cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa biểu tượng và ẩn dụ. Trong
cuốn Những thế giới nghệ thuật ca dao, tác giả Phạm Thu Yến đã chỉ ra sự khác nhau
giữa biểu tượng và ẩn dụ: “Biểu tượng mang tính kí hiệu, tính quy ước, nghĩa là chỉ
cần nêu hình ảnh biểu tượng lên là người đọc đã hiểu cái mà nó biểu trưng, không cần
có yếu tố giải mã. Bởi nó đã được ăn sâu trong tư tưởng thẩm mĩ dân gian. Còn ẩn dụ
tự do hơn, thường được tạo ra không phải chỉ bằng một, hai hình ảnh mà phải bằng
vài ba hình ảnh. Ẩn dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, số lượng
nhiều hơn nhưng không bền vững bằng biểu tượng” [25, tr.86].
Đối với thi ca, biểu tượng là yếu tố rất quan trọng, bởi nhờ có hệ thống biểu
tượng, nhà thơ mới bộc lộ được cảm xúc và khả năng sáng tạo của mình. Đồng thời
qua đó người đọc có thể tiếp cận, khai thác, khám phá những tầng nghĩa sâu hơn
được ẩn chứa trong đó. Biểu tượng thơ ca với tư cách là một phương tiện đặc biệt
của nghệ thuật mang trong bản thân mình những dấu hiệu đặc trưng của thể loại,
cho ta thấy cách thức con người nắm bắt thế giới sự vật, biến nó thành sự phản ánh
những khía cạnh khác nhau của đời sống tinh thần và xúc cảm con người. Bất cứ
một biểu tượng thơ ca nào cũng có những liên hệ nhất định với ý thức thẩm mĩ

truyền thống. Sự chiếm lĩnh thế giới bên ngoài thông qua các biểu tượng như một
phương thức có khả năng đem đến cho nhà thơ sự bộc lộ tư tưởng và tình cảm của
cá nhân mình, nó kích thích nhà thơ diễn đạt những nội dung tiềm ẩn trong tâm hồn
mình, và mặt khác như là biểu hiện của quá trình vận dụng các yếu tố nghệ thuật, để
không ngừng mở rộng khả năng biểu đạt, sức sáng tạo của nhà thơ.
Việc sáng tạo biểu tượng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực thụ cảm và nhu
cầu biểu hiện của nhà thơ trước hiện thực đời sống. Điều này có liên quan đến đặc

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 10 Líp K36B - SP V¨n

điểm tư duy nghệ thuật và khuynh hướng thẩm mĩ ở mỗi nhà thơ. Những quan niệm
về nhân sinh, thế sự, về thơ ca…và về chính bản thân cá tính sáng tạo của người
nghệ sĩ chính là những yếu tố chi phối lựa chọn của nhà thơ. Biểu tượng thơ được
lựa chọn theo những tiêu chí nhất định, đáp ứng được nhu cầu bộc lộ của nhà thơ,
hợp với tư tưởng chủ đề, với phong cách và phương pháp sáng tác. Chẳng hạn, hình
ảnh dòng sông, con nước thường gợi nhiều tâm tưởng về cuộc sống và những hoài
niệm về quê hương, về tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên. Những hoài niệm ấy càng trở
nên thiêng liêng sâu sắc trong hoàn ảnh đất nước có chiến tranh ly tán:
Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nhiều dòng sông đã đi vào thơ và trở thành biểu tượng đẹp của tình yêu quê
hương đất nước:
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
(Con sông quê hương - Tế Hanh)
Trên đây là những trình bày khái lược về biểu tượng và biểu tượng trong thơ.
Đó là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu hệ thống biểu tượng - một yếu tố đặc sắc trong

thơ tình yêu Xuân Quỳnh.
1.2. Xuân Quỳnh và sự nghiệp sáng tác
1.2.1. Vài nét về Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm
1942 trong một gia đình công chức nghèo. Chị sinh ra và lớn lên ở làng La Khê - một
ngôi làng nhỏ nằm bên dòng sông Nhuệ hiền hòa.
Nhìn Xuân Quỳnh, một người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa, người ta cứ nghĩ
ngôi sao hạnh phúc sẽ luôn chiếu rọi cả cuộc đời chị. Thế nhưng, dường như số
phận luôn đùa trêu những thân liễu, như Nguyễn Du đã từng nói “hồng nhan bạc
phận”,“chữ tài đi với chữ tai một vần”.Tuổi thơ của Quỳnh không bình lặng. Lớn

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa Ngữ Văn
Nguyễn Thị Thu Huyền 11 Lớp K36B - SP Văn

lờn mt lng quờ nh bao lng quờ khỏc ca vựng ng bng Bc B xa xa, vi
nhng mỏi chựa c kớnh rờu phong, nhng con ng lỏt gch nghiờng nghiờng bờn
nhng b ao v xung quanh lng cú ly tre bao bc. Ng tng rng lng quờ y s
l bn b ch che bỡnh an nht cho tui th Xuõn Qunh. Tuy nhiờn ngi con gỏi
lng La Khờ sinh ra v ln lờn ngụi lng ni ting vi ngh dt the, dt võn, dt
gm y - t thu cũn trng nc ó phi chu ng ni au mt m. S phn nghit
ngó ó cp i ca Qunh ngi m hng yờu thng. Hai tui ch ó phi sng
trong cụi cỳt, thiu thn tỡnh m. Hỡnh nh ngi m vi Qunh nh ngụi sao xa
xụi, p m khụng th vi ti; ni au mt m ó ỏm ỏnh sut c cuc i
Qunh. Sau ny trờn bc ng i, nhng lỳc n au, tuyt vng hay hnh
phỳc, Qunh vn nh v, khúc v m v t trong sõu thm luụn tin rng m lỳc no
cng bờn cnh dừi theo tng bc i ca ch. Tui th cụi cỳt, thiu hi m tỡnh
thng nờn hn ai ht, Qunh hiu c s cn thit, quý giỏ nh th no ca tỡnh m.
Tỡnh mu t thiu ht, Xuõn Qunh tng nh vn cũn tỡm thy mt b vai
nng ta ni cha nhng dng nh nim an i y i vi ch cng mong manh, xa
x. Cha Xuõn Qunh l ngi a tỡnh nhng tỡnh duyờn ca ngi li khụng cú gỡ

may mn. V cng nh vy, bc ng cụng danh dự trn y hoi bóo nhng
sut i vn ln n, cha Xuõn Qunh mun thoỏt khi s rng buc ca n ỏo cm
nhng li b chớnh nú ghỡ sỏt t. Chin tranh au thng ó y cha v cỏc con
v hai min Nam - Bc, gia bin tri cỏch mt. Dự ni nh thng c dõng trn
trong tim nhng cuc sng nghốo tỳng vi ng lng cũm cừi khụng ụng lo
cho hai ch em Qunh. Cha Qunh cựng ngi v mi ó di c vo Nam sinh sng.
Tt c tỡnh thng ca cha dnh cho hai a con th di, cú l ch dn t li trong
nhng cỏnh th cht cha nh nhung gi t phng xa.
Dự thiu hi m tỡnh m nhng iu may mn ln nht m cuc i ó em
n cho Xuõn Qunh, ú l c sng cựng b ni, ch gỏi ụng Mai, c bao
bc, ch che trong vũng tay rng m ca b v quan trng l c tha hng
nhng c tớnh chu ỏo, õn cn, nhng nhn ca b - nhng c tớnh rt truyn
thng ca ngi ph n Vit Nam.

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 12 Líp K36B - SP V¨n

Những kỉ niệm đau buồn của tuổi thơ rồi cũng qua đi theo năm tháng. Chẳng
bao lâu, Xuân Quỳnh trở thành một thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp. Năm 1955, khi mới
13 tuổi, Xuân Quỳnh được tuyển thẳng vào đoàn Văn công nhân dân Trung ương.
Cũng từ đây, Xuân Quỳnh bước chân vào lĩnh vực nghệ. Nhạy cảm với thế giới
xung quanh và với chính cuộc đời mình, 16 tuổi Xuân Quỳnh chập chững viết
những bài thơ đầu tiên để hé lộ một hồn thơ hồn nhiên, táo bạo và đầy cá tính.
Những thành công đầu tiên khá rực rỡ của một diễn viên múa đầy triển vọng cũng
không đủ sức để giữ chân người con gái đam mê thơ, quyết tâm sống “hết mình cho
đời, hết mình cho thơ”.
Quyết tâm từ bỏ sàn diễn để dấn thân vào “nghiệp văn” nhiều gian truân, lao
tâm khổ tứ, Xuân Quỳnh từ đây đã lấy cả cuộc đời mình đánh đổi cho nghệ thuật.
Năm 1962 -1964, Xuân Quỳnh tham gia học trường bồi dưỡng những người viết
văn trẻ (khóa I) của Hội nhà văn Việt Nam. Không được may mắn học nhiều nhưng

bằng tinh thần kiên nhẫn hiếm có, Xuân Quỳnh đã tự bồi đắp vốn văn hóa thiếu hụt
bằng cách tự học.
Năm 1973 đánh dấu một sự kiện quan trọng trong cuộc đời Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh lấy Lưu Quang Vũ sau khi ly dị người chồng trước và có một con trai.
Cuộc hôn nhân của “hai nửa cuộc đời đau khổ” đã trở thành nơi thăng hoa, thúc
giục và chắp cánh cho hồn thơ Xuân Quỳnh.
Ngày 29/8/1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã
Hải Dương, tỉnh Hải Hưng (nay là Hải Dương), Xuân Quỳnh đã mất cùng chồng là
Lưu Quang Vũ và con trai út Lưu Quỳnh Thơ (13 tuổi). “Con ong xanh” đã bay về
miền thanh thản của cõi hư vô, “Bông cúc nhỏ nơi triền đê” đã trở về lòng đất khai
sinh nhưng những bài thơ mãi vang vọng trong trái tim hàng triệu độc giả. Sự ra đi
của Xuân Quỳnh khi tuổi đời còn quá trẻ, khi tài năng đang độ chín và hứa hẹn
những đóng góp to lớn cho nền thơ ca dân tộc hiện đại.
Qua hơn hai mươi lăm năm cầm bút sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh tập
trung ở hai lĩnh vực chính: văn xuôi và thơ. Nếu những sáng tác truyện ngắn dường
như dành cho thiếu nhi thì thơ chị lại trải rộng ở nhiều miền đề tài: đề tài công dân,
đề tài về những tình cảm riêng tư.

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 13 Líp K36B - SP V¨n

Chị mang tâm hồn mình trải rộng khắp khung cảnh con người và các sáng
tác ra đời là một sự đan dệt thống nhất giữa chủ quan và khách quan. Người đọc tìm
đến thơ của chị để bắt gặp được mình trong đó. Tuy nhiên, dấu ấn chủ quan trong
sáng tác của Xuân Quỳnh rất đậm nét. Chị đưa vào thơ chính bản thân mình, đánh
đổi cả đời mình cho nghệ thuật. Vì thế, thơ Xuân Quỳnh dù là sáng tác về đề tài
công dân, thiếu nhi hay tình yêu đều mang dấu ấn cuộc đời nhà thơ.
Về đề tài công dân có các tập thơ như Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào
cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1987), các tập thơ này chính là minh chứng
thuyết phục cho tinh thần trách nhiệm và lương tâm của một người cầm bút trước

dân tộc và lịch sử. Mảng sáng tác về đề tài công dân của Xuân Quỳnh đã trở thành:
“những viên đá lát đường, những nhát cuốc” [21, tr.515] góp phần xây dựng nền
thơ ca chống Mĩ cứu nước hào hùng của dân tộc.
Bên cạnh đề tài công dân thì Xuân Quỳnh đã gây được ấn tượng với người
đọc thông qua mảng đề tài viết về những tình cảm riêng tư. Xuân Quỳnh viết nhiều
tác phẩm truyện, thơ cho thiếu nhi và chị xứng đáng là một tên tuổi trong lĩnh vực
văn học thiếu nhi. Ngoài những tác phẩm viết về thiếu nhi Xuân Quỳnh cũng viết
rất nhiều về tình yêu, bạn đọc biết đến chị nhiều hơn qua mảng thơ tình. Ở mảng
thơ tình chị lấy chính cuộc đời mình để lao động nghệ thuật, lấy cuộc đời mình tâm
sự chia sẻ trên những trang thơ. Những bài thơ tình yêu được tuyển chọn trong các
tập thơ Sân ga chiều em đi (1980); Tự hát (1982); Hoa cỏ may (1988). Xuân Quỳnh
đã nói về tình yêu bằng những lời cháy bỏng, tha thiết và nồng nàn, thể hiện tâm
trạng của một người phụ nữ khao khát được yêu “lòng em nhớ đến anh; Cả trong
mơ còn thức”.
Nhưng rồi những vấp ngã trong tình yêu khiến Xuân Quỳnh, từ một người
con gái nhìn cuộc sống qua lăng kính màu hồng đã trở thành một người đàn bà từng
trải. Thơ tình Xuân Quỳnh bớt dần cái vẻ sôi nổi, rạo rực của thuở ban đầu mà trở
nên trầm tĩnh, sâu lắng hơn. Bên cạnh những khao khát tình yêu, thơ chị đầy ắp tâm
trạng khắc khoải, man mác lo âu và dự cảm chia xa. Nhà thơ lo sợ tình yêu của
mình giống như một chiếc bình pha lê tuyệt đẹp nhưng mỏng manh, dễ vỡ:

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 14 Líp K36B - SP V¨n

Lời yêu mỏng manh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay
(Hoa cỏ may)
Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: “Đọc thơ của chị nhất là mảng thơ
tình một hồi, chúng ta thấy những khát khao của một người yêu rất nhiều mà nhận
chẳng bao nhiêu. Đơn độc đi trong cuộc đời và lúc nào cũng cảm thấy là bất hạnh,

là bão tố” (Xuân Quỳnh – Những buồn vui của kiếp hoa dại) [3, tr.119].
Có thể nói rằng sau Xuân Quỳnh thời Thơ mới, không có nhà thơ nào đã viết
thơ tình hay như Xuân Quỳnh. “Chị là một trong những nhà thơ hàng đầu của thời
chúng ta đang sống, một nhà thơ lớn, một nhà thơ đã đi hết cái tôi của mình một
cách hồn nhiên, dung dị và sâu lắng” [21, tr.585]. Trải qua hai mươi năm lăm cầm
bút, ngòi bút Xuân Quỳnh đã thử sức qua nhiều đề tài khác nhau. Ở đề tài nào cũng
tạo được dấu ấn riêng cho bạn đọc và chị đã có được những thành công mà bất cứ
người cầm bút nào cũng khao khát. Chị đã đi trên con đường lớn của thơ, con đường
đi từ trái tim và ở lại giữa những trái tim người đời.
1.2.2. Xuân Quỳnh - người thơ “tự hát”
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong số những
người xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình
yêu. Xuyên suốt các tập thơ của chị là “một tình yêu da diết, khi sôi nổi ồn ào, lúc
lặng lẽ thiết tha” [11, tr.70]. “Chị được bạn đọc yêu mến như là một trong những
thi sĩ riêng có của tình yêu” [24, tr.44]. Ở giai đoạn đầu, thơ tình Xuân Quỳnh giàu
mơ ước, thiên về phía cảm nhận những cái đẹp, cái thơ mộng của tình yêu mang
nặng chất lý tưởng (Ru; Thuyền và Biển). Tác giả đã so sánh tình yêu đôi lứa với sự
gắn bó giữa Thuyền và Biển, nói lên được cái thế mênh mông bát ngát, cái thế luôn
luôn động của một tình yêu hết sức mãnh liệt và thiết tha.
Trong gia tài thơ Xuân Quỳnh, tình yêu là mảng đề tài chị gửi gắm nhiều nỗi
niềm và tâm huyết nhất. Luôn khao khát một tình yêu bền vững, nhưng chị lại là
người có nhiều trắc trở trong tình yêu. Bởi vậy, thơ tình của Xuân Quỳnh vừa nồng
nàn tha thiết, vừa khắc khoải lo âu. Nó chứa đựng nhiều kinh nghiệm đau đớn trong

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 15 Líp K36B - SP V¨n

tình yêu mà bản thân chị đã từng nếm trải. Dù vậy, trong tình yêu, chị luôn là người
tình say đắm. Những bài thơ tình của chị thường có vẻ đẹp giản dị chân xác. Có nhà
phê bình văn học đã từng nhận xét: “Chị là người tha thiết với tình yêu, tha thiết với

người tình, một tâm hồn mãi mãi khao khát, mãi mãi thao thức vì tình yêu. Chưa ai
biểu hiện một sự yêu đương sâu xa, đằm thắm đến thế trong thơ tình Việt Nam như
chị” [24, tr.51].
Xuân Quỳnh là một tác giả thơ có bản sắc tương đối rõ nét. Bản sắc ấy ngày
càng được khẳng khẳng định và biểu hiện với nhiều sắc thái qua mỗi tập thơ. Từ khi
xuất hiện cho đến khi vĩnh biệt cuộc đời, quá trình sáng tác thơ của Xuân Quỳnh là
một chặng đường đi lên không bị đứt đoạn. Hồn thơ của chị ngày một đa dạng và
không ngừng được mở ra. Ngòi bút của Xuân Quỳnh đã được thử thách qua thời
gian, với nhiều loại chủ đề khác nhau. Trong đó có những bài thơ tình yêu đã đạt tới
đỉnh cao. “Thơ Xuân Quỳnh không có mạch thơ nào thật sự bình yên đơn giản,
thường có nhiều trăn trở băn khoăn. Dù đi vào những vấn đề lớn hay tình cảm riêng
tư, thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ
thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương” [3, tr.9].
Đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta không có cảm giác tác giả cố ý làm thơ. Chị
sống hồn nhiên, sống hết mình với các bài thơ của mình, hay nói đúng hơn, thơ chị
chính là đời sống của chị, là tâm trạng thật của chị trong mỗi bước vui buồn của đời
sống. Trước Xuân Quỳnh có lẽ chưa có người phụ nữ làm thơ nào đã nói về tình
yêu bằng những lời cháy bỏng, tha thiết và nồng nàn như thế. Tình yêu trong thơ chị
đẹp và trong sáng quá. Ở Xuân Quỳnh, tình yêu không bao giờ đơn thuần là tình
yêu, nó còn tượng trưng cho cái đẹp, cái tốt, cái cao quý của con người, tượng trưng
cho niềm khát khao được tự hoàn thiện mình.
Trong thơ Xuân Quỳnh, người đọc dường như nghe thấy trong những câu
thơ ấy nỗi đau của một người đã sống hết mình, làm việc hết mình, yêu hết mình,
một niềm khát khao, một sự vật lộn với số phận của mình để hiến dâng cho nghệ
thuật, cho cuộc đời, cho tình yêu chung và riêng bằng cái sức lực cuối cùng của sự
sống phải tính đến từng nhịp đập của một trái tim đau. “Có thể thấy những bài thơ

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 16 Líp K36B - SP V¨n


tình của Xuân Quỳnh có một nhan sắc riêng: chân thật và đam mê mãnh liệt. Trong
thơ chị cháy lên cái sắc màu của một thế giới tâm linh mà bằng vô thức của mình,
chị đã bước vào cái thế giới tinh thần ấy của tình yêu” [3, tr.74]. Và không rõ xuất
phát từ những đắng cay bất hạnh hay từ bản chất sâu xa nằm trong tiềm thức mà
Xuân Quỳnh thường hay thương cảm, thường hay động lòng. Lòng thương người
của Xuân Quỳnh thường hướng tới con người bé nhỏ, bơ vơ, yếu đuối, cô đơn, thất
bại vì cay đắng hay bị vùi dập. Chị rất dễ dàng giao hòa đồng cảm và nhìn ngay ra
nỗi khổ niềm đau của người khác. Tấm lòng vị tha giàu thương cảm của chị thường
thiên về khía cạnh đau thương buồn khổ của con người hơn để mà thương xót họ.
Với tấm lòng như thế chị nhìn đâu cũng thấy xót thương, cũng thấy cần phải an ủi
nâng đỡ, nhìn những vật vô tri cũng ra những số phận tâm hồn: Nỗi buồn riêng trong
cây; Chỉ có mình em biết (Ngày hè trở rét).
Trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh, tình yêu không chỉ được bao bọc bởi tình
thương mà còn đem lại sự cởi mở, tin yêu, luôn luôn trẻ trung và nồng nhiệt. Cái
đáng quý nhất ở thơ tình chính là sự chân thật, giản dị, có khi nhẹ nhàng như một
lời trò chuyện tâm tình, khẽ khàng. Tất cả đều bình dị giản đơn đầm ấm trong cuộc
sống hàng ngày: “Trời mưa lạnh tay em khép cửa. Em phơi mền, vá áo cho anh…”
(Bàn tay em). Nếu như “ông hoàng thơ tình Xuân Diệu” thể hiện tình yêu một cách
mãnh liệt, dữ dội:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
(Biển)
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh lại dạt dào sôi nổi, thiết tha, vừa đằm thắm
dịu dàng như những lời ru:
Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước
Ôi, con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được


Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 17 Líp K36B - SP V¨n

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
(Sóng)
Về giọng điệu, thơ Xuân Quỳnh có một giọng điệu rất dễ nhận ra, giọng điệu
ở đây không phải là cách nói mà là cách cảm xúc, là giọng điệu của một tâm hồn
người viết. “Một giọng điệu không kiểu cách, khiên cưỡng, luôn tự nhiên phóng
khoáng dù tác giả không hề ồn ào, to tiếng, có thể xem là đặc điểm dễ nhận thấy ở
Xuân Quỳnh” [24, tr.86]. Trong thơ tình Xuân Quỳnh chủ yếu là giọng điệu thổ lộ,
giãi bày. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thấy chị phơi trải lòng mình, chị như mang hết
ruột gan mình phổ vào thơ. Tất cả những tâm sự hiện lên rất thật, chân thực, giàu
biểu cảm. Mỗi vần thơ như hòa quyện vào nhau để khắc họa cái sâu sắc, dữ dội
trong tình yêu của Xuân Quỳnh. Nó cứ ồn ào, nhức nhối trái tim khiến chị không
thể giấu kín trong tâm tư. Cứ dồn xuống thì nó lại cộm lên. Đó, tình yêu của Xuân
Quỳnh mãnh liệt như vậy đấy! Vậy nên chị phải kể, phải chia sẻ, phải thổ lộ cho
mọi người hiểu.
Xuân Quỳnh là một người phụ nữ có nhu cầu bộc bạch, giãi bày hơn bao giờ
hết.Thổ lộ, bộc bạch để rồi Xuân Quỳnh đi đến khẳng định về cái thủy chung, tha
thiết trong tình yêu của chính mình. Đối với người phụ nữ đang sống trong tình yêu,
có những điều được “dồn xuống tâm tư” nhưng có những điều dù cố chôn vùi, gạt
bỏ thì nó vẫn hiện diện, cứ thổn thức, nhức nhối, buộc con tim phải giãi bày, chia sẻ.
Tuy nhiên, cái làm nên giọng điệu thủ thỉ, tâm tình rất riêng của Xuân Quỳnh
chính là ở lối hát ru. Lời ru cũng diễn tả được sâu sắc cái ngọt ngào, tâm tình trong
giọng điệu thơ của chị, trong thơ Xuân Quỳnh đã cố gắng “nén lại tiếng thở dài, vất
vả gian truân để làm dịu lòng người thân, bè bạn bằng tiếng hát ru trong suốt cuộc
đời mình” [7, tr.157]. Đọc thơ Xuân Quỳnh là ta được nghe một giọng thơ rất “đời”,
phập phồng hơi thở của cuộc sống. Đó là chất giọng của người phụ nữ từng trải, có

độ sâu về kinh nghiệm sống, có bề dày của sự hiểu biết, năng lực nhận thức. Đặc
biệt cách cảm, cách nghĩ trong thơ chị được thể hiện qua chất giọng của một người
phụ nữ sống sâu sắc với con người, cuộc đời và có ý thức về thân phận. Theo chúng

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 18 Líp K36B - SP V¨n

tôi, giọng giãi bày, bộc bạch, tâm tình; giọng bàng bạc nỗi lo âu, day dứt là hai kiểu
giọng chính của Xuân Quỳnh trong thơ và cũng là chất giọng rất đặc thể hiện trong
thơ tình yêu Xuân Quỳnh
Về ngôn ngữ, đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ thơ chị là sự giản dị, thân mật,
giàu tính biểu cảm. Trong thơ mình, Xuân Quỳnh ít có những cách tân, tìm tòi, phá
cách phóng túng. Chị kế thữa ngôn ngữ của dân gian, của đời thường một cách tự
nhiên. Đấy là thứ ngôn ngữ của quần chúng hết sức mộc mạc, dung dị mà không hề
thô nhám, vụng về. Đó là ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian và đậm sắc thái đời
thường giản dị, không cầu kì kiểu cách. Có tác giả nói rằng: “Xuân Quỳnh cố gắng
làm người hiện đại nhưng con người ấy thuộc về văn hóa dân gian cổ truyền nhiều
hơn thuộc về văn hóa hiện đại” [12, tr.208]. Ngôn ngữ thơ chị được chắt lọc, kế
thừa từ những bài ca dao, dân ca thuở ấu thơ. Ngôn ngữ thơ chị không hề có sự gò
ép, nó được thốt lên tự nhiên như đã ăn sâu vào trong tiềm thức, chỉ cần xúc cảm
chạm đến là có thể “xuất khẩu thành thơ”.
Một trong những thành công trong mảng thơ tình thành công trong mảng thơ tình
Xuân Quỳnh phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật thể hiện thế giới biểu tượng
trong thơ chị. Xuân Quỳnh bằng cái tâm của người nghệ sĩ chân chính và tài năng thiên
bẩm, đã hết sức chú trọng đến việc sáng tạo biểu tượng trong thơ. Thế giới thơ Xuân
Quỳnh trở nên lung linh sắc màu chính nhờ việc chị đã hết sức tinh nhạy trong việc lựa
chọn, tạo dựng những biểu tượng vừa bình dị đời thường vừa độc đáo cuốn hút.
Đọc thơ Xuân Quỳnh, chúng ta thấy và nghe được nhịp đập của một trái tim
đa điệu, thấy được bản sắc tình yêu của một con người, sắc sảo, nhuần nhụy và giàu
cảm xúc. Đó chính là biểu hiện một tâm hồn phụ nữ rất phong phú. Chị đã giãi bày

cảm xúc, suy tư, trên những trang thơ, gửi gắm ở đó những ước muốn, khát khao
của tình yêu vĩnh cửu. Ta gặp trong thơ chị những hình ảnh, sự vật bình thường
giản dị hết sức đời thường. Đó là hình ảnh đôi “bàn tay” với những chai sần vì vất
vả lân đận trong cuộc sống đời thường, là hình ảnh “trái tim” tha thiết yêu thương,
trái tim suốt đời cống hiến, chở che, hi sinh cho gia đình hay đó là “ngôi nhà”,
“vòm cây”, “mái phố”… Qua sáng tạo của chị, những hình ảnh ấy như biết nói, trở

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 19 Líp K36B - SP V¨n

thành biểu tượng tình yêu. Chịu sự chi phối rõ rệt của cảm quan phụ nữ, biểu tượng
thơ Xuân Quỳnh thường thiên về cụ thể, giản dị, rất gần với tự nhiên và sinh hoạt
đời thường. Tất cả những biểu tượng này, dù trực tiếp hay gián tiếp đều bộc lộ tâm
trạng, thể hiện quan niệm của nhà thơ.
Từ những khái quát trên về thơ tình yêu Xuân Quỳnh có thể thấy, người phụ
nữ đa tài, đa mang ấy đã “tự hát” về cuộc đời mình. “Chị đã đem chính mình, chính
cuộc đời mình ra làm thơ, và thơ đối với chị không phải là một nghề nghiệp, cũng
không phải Tài năng, mà là Số Phận, là Tâm Hồn, là điều Thiêng Liêng khó đạt tới
nhất trên Cõi Đời này” [21, tr.590]. Tính chất tự truyện là nét đậm quán xuyến hàng
loạt bài thơ, tập thơ. Chị gần như trở thành nhân vật của chính thơ mình. Chị đã đưa
chính cuộc đời mình vào trong thơ. Thơ Xuân Quỳnh như nhận xét của Chu Văn
Sơn: “Âu cũng là tự hát”. Chị hát về thân phận mình, về thế hệ mình. Chị đã hát lên
khúc ca tình yêu từ chính tình yêu của mình.
1.2.3. Khảo sát biểu tượng trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh
Khảo sát hệ thống bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh chúng
tôi thống kê được một khối lượng khá lớn. Trong tổng số 265 bài thơ, có 73 bài thơ
tình yêu, chiếm khoảng 27.5%. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát hệ thống các biểu
tượng trong mảng thơ tình yêu Xuân Quỳnh. Kết quả như sau:
STT
Biểu tượng

Số lần xuất hiện
Tỉ lệ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Bầu trời
Vòm cây
Dòng sông
Đèn
Cỏ dại
Con đường
Hoa
Ngôi nhà
Trái tim
Bàn tay
Sóng , Thuyền, Biển
Con tàu - Sân ga
11
11
40
16

18
36
31
29
12
20
32
15
4%
4%
14,8%
5,9%
6,6%
13,3%
11,4%
10,7%
4,4%
7,4%
11,9%
5,5%

Khãa luËn tèt nghiÖp §¹i häc Khoa Ng÷ V¨n
NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn 20 Líp K36B - SP V¨n

Trên cơ sở khảo sát và theo chủ quan của chúng tôi, trong khuôn khổ khóa
luận này chúng tôi sẽ lựa chọn và đi sâu tìm hiểu các biểu tượng sau trong thơ tình
yêu Xuân Quỳnh: biểu tượng trái tim, bàn tay, ngôi nhà, vòm cây, con đường, dòng
sông, hoa, thuyền - sóng - biển. Sự lựa chọn này, như đã nói, mang tính chất chủ
quan. Tuy nhiên không phải là không có cơ sở. Thứ nhất, chúng tôi nghiên cứu
những biểu tượng xuất hiện với tỉ lệ cao trong thơ tình yêu Xuân Quỳnh. Thứ hai,

những biểu tượng quen thuộc, gần gũi khắc ghi dấu ấn của nhà thơ . Việc khảo sát
và nghiên cứu toàn bộ các biểu tượng trong thơ Xuân Quỳnh chúng tôi mong muốn
sẽ được thực hiện ở những công trình khác.




















×