Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Từ ngữ đồng nghĩa trong truyện ngắn của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.95 KB, 63 trang )































TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2


KHOA NGỮ VĂN
****************


LÊ THỊ XIÊM



TỪ NGỮ ĐỒNG NGHĨA TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học
TS. ĐỖ THỊ THU HƯƠNG



HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất của mình tới
TS.GVC.Đỗ Thị Thu Hương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ, khoa
Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn
thành khóa luận này.


Hà Nội, tháng 05 năm 2014.
Sinh viên


Lê Thị Xiêm













LỜI CAM ĐOAN

Được sự hướng dẫn tận tình của TS.GVC. Đỗ Thị Thu Hương và sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã hoàn thành khóa luận này. Tôi xin cam đoan đây là
công trình của riêng tôi, không trùng với bất kì kết quả của tác giả nào công
bố trước đây.Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2014.
Sinh viên


Lê Thị Xiêm
















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích, yêu cầu 3
4. Phạm vi nghiên cứu 4
5. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Bố cục 4
8. Đóng góp của khóa luận 5
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT
1.1. Trường nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng 6
1.1.1. Trường nghĩa 6
1.1.1.1. Trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) 6

1.1.1.2. Trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến) 7
1.1.1.3. Trường liên tưởng 8
1.1.2. Các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng 8
1.1.2.1. Quan hệ bao gồm - nằm trong 8
1.1.2.2. Quan hệ toàn bộ - bộ phận 9
1.1.2.3. Quan hệ đồng nghĩa 9
1.1.2.4. Quan hệ trái nghĩa 9
1.2. Quan hệ đồng nghĩa 9
1.2.1. Khái niệm 9
1.2.2. Những căn cứ xác lập đồng nghĩa 11
1.2.3. Các kiểu từ đồng nghĩa 12
1.2.3.1. Đồng nghĩa hoàn toàn 12
1.2.3.2. Đồng nghĩa không hoàn toàn 12
1.2.4. Giá trị của từ đồng nghĩa 14
1.3. Đồng nghĩa từ vựng và đồng nghĩa lời nói 16
1.3.1. Đồng nghĩa từ vựng 16
1.3.2. Đồng nghĩa lời nói 17
Tiểu kết chương 1 20
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TỪ NGỮ ĐỒNG
NGHĨATRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
2.1. Kết quả khảo sát 21
2.1.1. Phân loại kết quả khảo sát 21
2.1.2. Nhận xét 23
2.2. Hiệu quả sử dụng từ ngữ đồng nghĩa trong truyện ngắn Nam Cao 23
2.2.1. Nhận xét chung 23
2.2.2. Hiệu quả sử dụng từ ngữ đồng nghĩa trong truyện ngắn Nam Cao 24
2.2.2.1. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ hành động cười 25
2.2.2.2. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động nói 30
2.2.2.3. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ hành động khóc 36
2.2.2.4. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động di chuyển, dời chỗ 39

2.2.2.5. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động ăn 42
2.2.2.6. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động nhìn 45
2.2.2.7. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ giới nữ nói chung 47
2.2.2.8. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ giới nam nói chung 49
2.2.2.9. Nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ tâm trạng buồn phiền 52
Tiểu kết chương 2 55
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng, như nhà văn Đặng
Thai Mai đã viết: “Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc.
Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay ”. Hay
như lời khẳng định của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Tiếng Việt của chúng
ta rất giàu và đẹp”. Nó giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời
và phong phú. Nó đẹp bởi tâm hồn người Việt Nam ta rất đẹp. Hai cái giàu và
đẹp ấy chính là tiếng nói của nhân dân đầy tình cảm, màu sắc, âm điệu, hồn
nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa, đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà
những nhà thơ lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi đã nâng lên đến trình độ
rất cao về mặt nghệ thuật. Để làm nên sự giàu đẹp đó phải có sự góp mặt của
rất nhiều các yếu tố. Một trong những yếu tố đã góp phần không nhỏ để làm
nên sự phong phú, giàu có của tiếng Việt đó chính là việc sử dụng các từ ngữ
đồng nghĩa trong lời ăn tiếng nói hàng ngày và trong sáng tác văn học. Đặc
biệt là việc sử dụng các từ ngữ đồng nghĩa để thay thế cho nhau trong các tác
phẩm văn học đã làm cho tác phẩm trở nên sinh động, hấp dẫn, tránh được
hiện tượng lặp từ và có sức lôi cuốn bạn đọc.

Là một trong những đại biểu ưu tú nhất của trào lưu văn học hiện thực
phê phán, Nam Cao với phong cách ngôn ngữ lạnh lùng, dửng dưng mà đầy
xót xa thương cảm, đằm thắm yêu thương đã để lại ấn tượng sâu sắc trong
lòng những người yêu văn học. Tác phẩm của Nam Cao không chỉ chứa đựng
nội dung tư tưởng sâu sắc mà còn thể hiện được tài năng độc đáo trên nhiều
phương diện như: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, cách lựa chọn ngôn
từ…. Trong các yếu tố làm nên thành công đó, chúng ta phải kể đến cách lựa
2

chọn ngôn từ, đặc biệt là việc sử dụng từ ngữ đồng nghĩa trong truyện ngắn
của ông. Việc sử dụng từ ngữ đồng nghĩa trong truyện ngắn của Nam Cao đã
tạo ra những giá trị nghệ thuật đặc sắc, tạo nên phong cách nghệ thuật riêng
cho Nam Cao.
Vì những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Từ ngữ đồng
nghĩa trong truyện ngắn của Nam Cao”. Chúng tôi hy vọng việc nghiên cứu
này sẽ mang đến cho người dạy, người học và nghiên cứu văn chương Nam Cao
ở trường phổ thông một cái nhìn thiết thực và bổ ích.
2. Lịch sử vấn đề
Sử dụng từđồng nghĩa trong giao tiếp hàng ngày và trong sáng tác văn
học là hiện tượng rất phổ biến. Nhờ các từ đồng nghĩa mà tiếng Việt trở nên
phong phú, đa dạng và sinh động hơn trong cách biểu đạt.
Nghiên cứu về vấn đề đồng nghĩa nói chung và tìm ra hiệu quả sử dụng
của chúng trong ngôn ngữ nói riêng là phạm vi được nhiều nhà khoa học quan
tâm.Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu, các quan điểm về đồng nghĩa của
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp… Đây là những công trình đặt nền móng
cho việc nghiên cứu về từ đồng nghĩa sau này.
Cùng nghiên cứu dưới góc độ ngôn ngữ, qua khảo sát chúng tôi thấy có một
vài khóa luận cũng đi sâu tìm hiểu về hiện tượng đồng nghĩa nhưng ở các mức độ
khác nhau. Tiêu biểu như: “Đồng nghĩa của các thành ngữ, tục ngữ và hiệu quả

biểu đạt” của Phạm Thị Đăng, sinh viên K25E, trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2. Với đề tài này, Phạm Thị Đăng mới chỉ đề cập đến vấn đề đồng nghĩa của các
ngữ cố định tức là các thành ngữ, tục ngữ chứ chưa đi vào tìm hiểu ở cấp độ từng
từ ở trong một tác phẩm cụ thể.Tiếp theo là đề tài: “Biểu thức miêu tả đồng chiếu
vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân và trong thơ của Tố Hữu” của Nông Thị
Trưng, sinh viên K32B, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.Ở đề tài này, Nông
Thị Trưngmới chỉ đề cập đến vấn đề đồng nghĩa biểu vật chứ chưa đề cập đến vấn
3

đề đồng nghĩa biểu niệm. Và gần đây nhất là khóa luận của Lê Thị Thanh Hương,
sinh viên K34B, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2với đề tài: “Từ đồng nghĩa
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”. Trong đề tài này, Lê Thị Thanh Hương
đã đề cập đầy đủ đến cả hai vấn đề là đồng nghĩa biểu vật và đồng nghĩa biểu
niệm. Đề tài cũng đã đi sâu tìm hiểu được vấn đề đồng nghĩa giữa các từ và hiệu
quả của việc sử dụng từ đồng nghĩa trong tác phẩm của một nhà văn cụ thể. Tuy
nhiên, đề tài mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu từ đồng nghĩa trong các truyện ngắn
của nhà văn Nguyễn Công Hoan chứ chưa đi vào truyện ngắn của nhà văn Nam
Cao.
Việc nghiên cứu hiệu quả sử dụng của các từ ngữ đồng nghĩa trong
truyện ngắn của nhà văn Nam Cao cho đến nay chúng tôi vẫn chưa thấy có
công trình nào. Do đó, qua tìm hiểu, tra cứu, chúng tôi nhận thấy tính chất bổ
ích của vấn đề định nghiên cứu và đã quyết định lựa chọn đề tài: “Từ ngữ
đồng nghĩa trong truyện ngắn của Nam Cao”. Chúng tôi thực hiện đề tài
này với mong muốn là tìm ra nét phong phú, linh hoạt trong cách sử dụng
ngôn ngữ của một nhà văn cụ thể - Nam Cao - đại diện tiêu biểu của trào lưu
văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 - 1945.
3. Mục đích, yêu cầu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu và phân tích giá trị nghệ thuật của từ đồng nghĩa
trong truyện ngắn Nam Cao, đề tài nhằm làm sáng tỏ giá trị biểu đạt của từ

đồng nghĩa nói chung, thấy được sự khác biệt tinh tế về nghĩa giữa các từ
đồng nghĩa. Từ đó khẳng định, từ đồng nghĩa là một trong những phương tiện
biểu đạt phong phú, đa dạng và sinh động của tiếng Việt.
3.2. Yêu cầu
- Nắm được các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng, đặc biệt là
quan hệ đồng nghĩa và các kiểu từ đồng nghĩa, giá trị của từ đồng nghĩa.
4

- Thống kê, phân loại và phân tích từ tư liệu thống kê được các kiểu từ
đồng nghĩa, giá trị sử dụng của từ đồng nghĩa trong truyện ngắn Nam Cao.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do trong khuôn khổ của một khóa luận nên chúng tôi chỉ tập trung đi sâu
tìm hiểu từ ngữ đồng nghĩa trong các truyện ngắn của Nam Cao trước Cách
mạng tháng Tám trong cuốn Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời Đại.
5. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Đối tượng
Đề tài chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu từ, ngữ đồng nghĩa trong các tác
phẩm truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.
5.2. Nhiệm vụ
- Tổng hợp những vấn đề lý thuyết về các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống
từ vựng, đặc biệt là quan hệ đồng nghĩa, cách phân loại từ đồng nghĩa.
- Tập hợp, thống kê và xử lí ngữ liệu.
- Phân tích hiệu quả nghệ thuật sử dụng từ ngữ đồng nghĩa trong truyện
ngắn Nam Cao.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê tư liệu
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học.
- Phương pháp tổng hợp.
7. Bố cục

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận này gồm
hai chương cơ bản sau:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết
Chương 2: Giá trị nghệ thuật của từ ngữ đồng nghĩa trong truyện
ngắn Nam Cao
5

8. Đóng góp của khóa luận
Ý nghĩa khoa học: Thông qua việc khảo sát từ đồng nghĩa trong các tác
phẩm truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thấy được những giá trị biểu đạt
của từ đồng nghĩa trong tiếng Việt.Các từ đồng nghĩa ngoài những nét nghĩa
giống nhau thì còn có những nét nghĩa riêng, phong phú và linh hoạt.Qua đó
khẳng định nét độc đáo về phong cách nghệ thuật của Nam Cao trong việc sử
dụng ngôn ngữ, gợi mở những hướng tiếp cận mới khi tìm hiểu về tác giả này.
Ý nghĩa thực tiễn: Phân tích giá trị nghệ thuật của từ, ngữ đồng nghĩa
trong tác phẩm của Nam Caogiúp chúng ta nhận biết sự khác nhau về nghĩa
của các từđồng nghĩa, từđó giúp sử dụng từ đồng nghĩa một cách chính xác,
phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp. Các kết quả nghiên cứu của khóa luận
cũng góp phần hữuích khi giảng dạy tiếng Việt cũng như giảng dạy truyện
ngắn của Nam Cao ở bậc phổ thông.







6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT

1.1. Trường nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng
1.1.1. Trường nghĩa
Trường nghĩa là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa.
Với các trường nghĩa, chúng ta có thể phân định một cách tổng quát
những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa
các trường nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường.
Theo F.de Saussure trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” đã chỉ ra
hai dạng quan hệ là quan hệ ngang (hay quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến
tính, quan hệ ngữ đoạn) và quan hệ dọc(hay quan hệ tộc tuyến, quan hệ hình).
Theo hai dạng quan hệ đó có thể có hai loại trường nghĩa là trường nghĩa
ngang (trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực
tuyến) [5, tr.170].
Ngoài ra, còn có một trường nghĩa nữa có tác dụng sâu sắc đối với việc
sử dụng từ ngữ là trường liên tưởng.
1.1.1.1. Trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính)
Để lập nên các trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc
rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính
(cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ [5, tr.185]
Ví dụ: Trường tuyến tính của từ “tay” là búp măng, mềm, ấm, lạnh,…
cầm, khoác… Trường nghĩa tuyến tính của từ “đi” là nhanh, chậm, tập tễnh,
khập khiễng,…, ra, vào, lên, xuống…
Trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ và cấu
trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc
điểm hoạt động của từ [5, tr.186]
7

1.1.1.2. Trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến)
a. Trường nghĩa biểu vật

Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu
vật.Để có những căn cứ dựa vào đó mà đưa các nghĩa biểu vật của các từ về
trường biểu vật thích hợp, chúng ta chọn các danh từ làm gốc. Các danh từ
này phải có tính khái quát cao gần như là tên gọi của các phạm trù biểu vật
như “người”, “động vật”, “thực vật”,… Các danh từ này cũng là tên gọi các
nét nghĩa có tác dụng hạn chế ý nghĩa của từ về mặt biểu vật, là những nét
nghĩa cụ thể, thu hẹp ý nghĩa của từ. Như vậy, chúng ta sẽ đưa một từ vào một
trường biểu vật nào đó khi nét nghĩa biểu vật của nó trùng với tên gọi của
danh từ trên [5, tr.171].
Ví dụ 1: Trường biểu vật chỉ bộ phận cơ thể con người: đầu, mình, chân,
tay, mắt, miệng, răng, da, lưỡi, đùi, ruột, gan, phổi, họng….
Ví dụ 2: Trường biểu vật của mắt:
- Bộ phận của mắt: lông mày, lông mi, mí, mi, lòng trắng, lòng đen,…
- Đặc điểm về ngoại hình của mắt: bồ câu, ốc nhồi, lợn luộc, dao cau,…
- Đặc điểm về năng lực của mắt: đờ đẫn, sắc, lờ đờ, tinh nhanh, toét, mù
lòa,…
- Hoạt động của mắt: nhìn, trông, thấy, ngó, liếc, dòm, trừng, quắc,…
b.Trường nghĩa biểu niệm
Là một tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu niệm. Căn cứ để phân
lập các trường biểu niệm là các ý nghĩa biểu niệm của từ.
Ví dụ: Trường biểu niệm (vật thể nhân tạo)…(phục vụ sinh hoạt)
- Dụng cụ để ngồi, nằm: ghế, giường, phản, đi văng…
- Dụng cụ để đặt: bàn, giá, gác
- Dụng cụ để chứa đựng: tủ, rương, hòm, vali, thúng, mủng, nong, nia,
chai, lọ…
8

- Dụng cụ để mặc, che thân: áo, quần, khăn, khố, váy…
- Dụng cụ để che phủ: màn, mùng, khăn, chăn, chiếu
1.1.1.3. Trường liên tưởng

Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự cố định bằng
từ các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Ví dụ: Từ bò có thể gợi ra nhiều trường liên tưởng:
- Bò cái, bò mộng, bê, sừng, gặm cỏ, nhai trầu…
-Sự cày bừa, cái cày, cái ách…
- Những ý niệm về tính thụ động mà chúng ta gặp trong các lối so sánh
như ngu như bò.
Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm trong
trường biểu vật, trường biểu vật và trường tuyến tính, tức là có quan hệ cấu
trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm [5, tr.187].
1.1.2. Các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng
1.1.2.1. Quan hệ bao gồm - nằm trong
Quan hệ bao gồm - nằm trong là quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ có nghĩa
rộng hẹp khác nhau cùng thuộc một trường biểu vật. Có thể nói đó là quan
hệmà từ có nghĩa chỉ loại lớn bao gồm nghĩa của từ chỉ những loại nhỏ và các
từ chỉ loại nhỏ nằm trong nghĩa của các từ chỉ loại lớn.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm này ta tìm hiểu qua một số ví dụ sau:
Ví dụ 1: Nghĩa của từ “cây” bao gồm nghĩa của các từ câyđào, cây quất,
cây lan, cây mai,…. Nghĩa của các từ cây đào, cây quất, cây lan, cây mai,…
nằm trong nghĩa của từ “cây”.
Ví dụ 2: Nghĩa của từ chỉ trạng thái tâm lí “vui” bao gồm nghĩa của các
từ: phấn khởi, hào hứng, vui vẻ…. Các từ phấn khởi, hào hứng, vui vẻ… nằm
trong nghĩa của từ “vui”.
9

1.1.2.2. Quan hệ toàn bộ - bộ phận
Quan hệ toàn bộ - bộ phận là quan hệ giữa các bộ phận cấu thành một sự
vật được xem là một thể thống nhất, hoàn chỉnh.
Ví dụ: “Cây” là một toàn bộ do các bộ phận cành, lá, rễ, hoa, quả,… hợp
thành.

1.1.2.3. Quan hệ đồng nghĩa
Đồng nghĩa trước hết là một loại quan hệ giữa các từ trong trường nghĩa
như quan hệ cấp loại, quan hệ toàn bộ - bộ phận. Các đơn vị từ vựng trong
một trường nghĩa có những nét nghĩa đồng nhất, chủ yếu là nét nghĩa biểu
niệm thì có quan hệ đồng nghĩa với nhau.
1.1.2.4. Quan hệ trái nghĩa
Trái nghĩa là hiện tượng ngữ nghĩa trái ngược với hiện tượng đồng
nghĩa.
Từ trái nghĩa là những từ trái ngược với nhau về ý nghĩa.
Ví dụ: Nhanhvà chậm, dài và ngắn
Để xác định các từ trái nghĩa cần phải đặt chúng trên một nét nghĩa đồng
nhất nào đó. Nếu không có nét nghĩa đồng nhất này thì nghĩa của các từ ngữ
chỉ khác nhau chứ không trái nghĩa với nhau.
Ví dụ: Cao và thấp trái nghĩa với nhau vì chúng có cùng chung nét
nghĩa: chỉ kích thước.
Đẹp và xấu trái nghĩa với nhau vì cùng có chung nét nghĩa: chỉ vẻ ở bên
ngoài sự vật mà mắt thường có thể quan sát được.
1.2. Quan hệ đồng nghĩa
1.2.1. Khái niệm
Đồng nghĩa trước hết là một hiện tượng có phạm vi rộng khắp trong toàn
bộ từ vựng, chứ không chỉ bó hẹp trong những nhóm với một số có hạn những
từ nhất định. Nói khác đi, đồng nghĩa trước hết là quan hệ về ngữ nghĩa giữa
10

các từ trong toàn bộ từ vựng chứ không phải là giữa những từ nào đấy. Đó là
quan hệ giữa các từ ít nhất có chung một nét nghĩa.
Ví dụ: Loạt từ đồng nghĩa chỉ “đặc tính vận động của ánh sáng”: lung
linh, long lanh, lóng lánh, nhấp nhánh, lấp lánh
Khi đề cập đến khái niệm từ đồng nghĩa, các nhà nghiên cứu đều nhất trí
với quan niệm: Từ đồng nghĩa là những từ tương đồng với nhau về nghĩa,

khác nhau về âm thanh và có phân biệt với nhau về một vài sắc thái ngữ
nghĩa hoặc sắc thái phong cách nào đó, hoặc đồng thời cả hai.
Ví dụ: yếu, yếu ớt, yếu đuốilà những từ đồng nghĩa trong tiếng Việt.
Các từ chỉ đồng nghĩa với nhau khi đã cùng thuộc một trường nghĩa.
Điều kiện tiên quyết để phát hiện ra các đơn vị đồng nghĩa là dựng ra được
các trường nghĩa. Một trường nghĩa có thể phân hóa thành những trường nhỏ,
những trường nhỏ này lại phân hóa thành những trường nhỏ hơn nữa. Các từ
nằm trong các trường nghĩa càng nhỏ, nằm trong nhóm càng nhỏ thì càng
đồng nghĩa, trừ khi giữa các đơn vị từ vựng trong cùng một trường nhỏ xuất
hiện các nét nghĩa trái ngược nhau.
Ví dụ: Nghĩa di chuyểncó thể phân hóa thành hai trường nhỏ hơn A làm
cho X di chuyển vàX tự di chuyển(A kí hiệu chủ thể tác động, X là sự vật, chủ
thể chịu tác động). Trong trường nhỏA làm cho X di chuyểncó các từ: kéo,
giật, lôi,… và đẩy, đùn, xô…. Những từ này đều đồng nhất về các nét nghĩa A
làm cho X di chuyển, trên mặt nền, tốc độ bình thường nhưng khác nhau về
nét nghĩa chiều di chuyển.
Hiện tượng đồng nghĩa là hiện tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng
các nét nghĩa chung trong các từ. Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ chỉ
có chung một nét nghĩa đồng nhất. Số lượng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên
thì mức độ đồng nghĩa càngcao. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các
từ đó có tất cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ
khác ở một hoặc vài nét nghĩa cụ thể nào đó.
11

Điều này cũng có nghĩa là, khi chúng ta phân chia các trường lớn thành
các trường nhỏ và nhóm nghĩa nhỏ thì đồng thời chúng ta cũng tiến tới gần
các nhóm đồng nghĩa mỗi lúc một cao.
1.2.2. Những căn cứ xác lập đồng nghĩa
Quan hệ đồng nghĩa giữa các đơn vị từ vựng chỉ xuất hiện khi:
Các nét nghĩa đầu trong nghĩa biểu niệm của các từ đồng nhất với nhau.

Những nét nghĩa đồng nhất này phải kế tiếp nhau theo cùng một cách sắp xếp
(một trật tự) như nhau ở các đơn vị từ vựng đang được xem là có quan hệ
đồng nghĩa với nhau.
Số lượng các nét nghĩa đồng nhất càng lớn thì các đơn vị từ vựng càng
đồng nghĩa.
Trong nghĩa biểu niệm của các đơn vị từ vựng không xuất hiện những
nét nghĩa trái ngược, loại trừ nhau.
Đồng nghĩa là quan hệ giữa các từ cùng nghĩa từ loại. Các đơn vị từ
vựng đã khác nhau về từ loại thì không đồng nghĩa với nhau.
Đồng nghĩa là quan hệ có tính tương đối. Các đơn vị từ vựng đồng nghĩa
với nhau ở các mức độ khác nhau, có từ đồng nghĩa với từ này hơn từ kia.
Ví dụ: So sánh từ “đi” với “chạy” và “nhảy” thì thấy:
Các từ này đều có nét nghĩa đầu đồng nhất: chỉ hoạt động di chuyển
bằng chân, dời chỗ khỏi mặt đất. Do đó, có thể kết luận giữa các từ này có
quan hệ đồng nghĩa.
Đi và chạy cả hai có nét nghĩa giống nhau ở chỗ là đều di chuyển, dời chỗ
khỏi mặt đất bằng hai chân và tiếp xúc với mặt đất theo tần số nhất định. Còn
nhảy là đưa cả cơ thể dời khỏi mặt đất, bật lên cao và ra xa rồi sau đó mới tiếp
xúc với mặt đất. Do đó, đi và chạy đồng nghĩa với nhau nhiều hơn là với nhảy.
Tuy nhiên, đi và chạy không đồng nghĩa hoàn toàn vì đi là hoạt động dời chỗ với
tốc độ bình thường còn chạy là hoạt động dời chỗ với tốc độ nhanh hơn.
12

Qua đó, có thể thấy mức độ tương đối của quan hệ đồng nghĩa tùy thuộc
vào số lượng các nét nghĩa đồng nhất giữa các đơn vị từ vựng. Các từ nằm
trong một nhóm nghĩa càng nhỏ thì số lượng các nét nghĩa đồng nhất càng
lớn, do đó càng đồng nhất với nhau như các ví dụ trên đã cho thấy. Quan hệ
đồng nghĩa nằm giữa hai cực: thấp nhất khi các đơn vị từ vựng chỉ có một nét
nghĩa đồng nhất, cao nhất khi toàn bộ các nét nghĩa tạo nên nghĩa biểu niệm
của chúng hoàn toàn trùng nhau. Giữa hai cực đó là các mức độ đồng nghĩa

cao, thấp khác nhau theo các trường do các đơn vị từ vựng có quan hệ khái
quát - loại biệt khác nhau tạo nên.
1.2.3. Các kiểu từ đồng nghĩa
1.2.3.1. Đồng nghĩa hoàn toàn
Là những từ cùng chỉ một sự vật, hiện tượng, cùng biểu thị một khái
niệm. Nói chung, chúng có thể thay thế cho nhautrong mọi trường hợp mà
không làm ảnh hưởng đến ý nghĩa của câu.
Ví dụ : Quả và trái là những từ đồng nghĩa hoàn toàn, khác nhau về tính
phương ngữ (quả thuộc phương ngữ Bắc Bộ, trái thuộc phương ngữ Nam Bộ)
nhưng chúng đều có nét nghĩa chung là chỉ bộ phận của cây do bầu nhụy phát
triển thành.
1.2.3.2. Đồng nghĩa không hoàn toàn
Đồng nghĩa không hoàn toàn là những từ đồng nghĩa mà nghĩa của các
từ trong cùng một dãy có sự khác nhau ít nhiều về sắc thái nghĩa, hoặc sắc
thái biểu vật, hoặc sắc thái biểu niệm, hoặc sắc thái biểu cảm, hoặc phong
cách chức năng.
- Đồng nghĩa khác nhau về sắc thái ý nghĩa
Ví dụ: Trong tiếng Việt có rất nhiều từ chỉ sự chết của con người như: hi
sinh, từ trần, tạ thế, trăm tuổi, khuất núi, về với tổ tiên, qua đời, mất đi, nhắm
mắt, tắt nghỉ, tắt thở, chết, thiệt mạng, bỏ mạng, bỏ xác, toi mạng, toi xác,
13

ngoẻo củ từ, ăn đất, ngủ với giun… Chúng đều là những từ đồng nghĩa khác
nhau về sắc thái. Ta có thể phân tích một số từ trong nhóm từ đồng nghĩa trên
để thấy rõ được điều đó:
Chết là “hết sống” nói chung, không kể người, động vật, thực vật. Chết
là nghĩa khái quát, làm cơ sở để giải nghĩa các từ khác.
Từ trần, tạ thế dùng cho người có địa vị xã hội nhất định. Qua đờikhông
bị ràng buộc bởi nét nghĩa này. Cả ba từ đều chỉ dùng cho những người lớn
tuổi, đứng tuổi hoặc già.

Bỏ mạng, bỏ xác nói đến cái chết đắc kì tử do ốm đau, tai nạn ở những
nơi không đáng đến hay do những việc làm không đáng làm, không ai buộc
phải đến hay phải làm. Đó là những cái chết không đáng chết.
Thiệt mạng chỉ dùng cho cái chết của những nạn nhân.
Trên đây là các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái nghĩa, mỗi từ đều
mang một nét nghĩa riêng và khó có thể thay thế cho nhau trong mọi trường
hợp. Việc thay thế các từ đồng nghĩa này phải phụ thuộc vào từng trường hợp,
hoàn cảnh và ý đồ của người sử dụng. Chúng không thể hoàn thay thế cho
nhau như các từ đồng nghĩa hoàn toàn được.
- Đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm
Ví dụ: Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm như ăn, đớp,
xơi, hốc Các từ này đồng nghĩa với nhau nhưng ăn, xơi mang sắc thái tích
cực còn đớp, hốc lại mang sắc thái tiêu cực.
Trong thực tế cuộc sống, các từ đồng nghĩa không hoàn toàn được sử
dụng một cách phổ biến, ta có thể bắt gặp trong mọi trường hợp. Còn
những từ đồng nghĩa hoàn toàn thì hiếm gặp, thường chỉ gặp ở các biển thể
ngôn ngữ. Việc sử dụng các từ đồng nghĩa trong giao tiếp làm cho việc
giao tiếp đạt hiệu quả cao và góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng
ngôn ngữ dân tộc.
14

1.2.4. Giá trị của từ đồng nghĩa
Hiện tượng đồng nghĩa vừa là biểu hiện tập trung của một loại quan hệ
ngữ nghĩa trong từ vựng: quan hệ đồng nghĩa, vừa là một hiện tượng có tính
chất xã hội, phản ánh những kết quả nhận thức thực tế của một dân tộc nào
đó. Nó cũng đồng thời vừa là hệ quả, vừa là phương tiện của những yêu cầu
của sự diễn đạt, giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Tất cả các ngôn ngữ đều phong phú về hiện tượng đồng nghĩa. Nhưng
hiện tượng đồng nghĩa trong tiếng Việt có những vẻ riêng, nó là một trong
những cái tạo nên bản sắc giàu đẹp, trong sáng và cũng là một trong những

quy luật chi phối sự phát triển của tiếng Việt. Nói cách khác, từ đồng nghĩa có
một giá trị vô cùng to lớn, ta hãy xét một số ví dụ sau để thấy được giá trị của
từ đồng nghĩa:
Ví dụ 1:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
(Bếp lửa-Bằng Việt)
Các từ đồng nghĩa trong đoạn thơ trên là: bảo, dạy. Cả hai từ này đều có
một nét nghĩa chung đó là: nói cho người khác biết những điều phải trái,
đúng sai để người khác biết mà làm, mà tránh. Đồng thời, chúng cũng có
chung sắc thái biểu cảm: thể hiện thái độ ân cần chỉ bảo, yêu thương của
người bà dành cho cháu. Tuy nhiên, bên cạnh nét nghĩa chung, các từ đồng
nghĩa trên còn mang nhũng sắc thái cơ bản khác nhau. Bảo là hướng dẫn cho
cháu điều cháu chưa biết, mang tính sai khiến và cháu phải làm theo. Dạy là
nhấn mạnh đến việc truyền lại tri thức hoặc kĩ năng một cách ít nhiều có hệ
thống, phương pháp. Tức là người bà ở đây phải giúp cháu biết cách làm việc
gì khi cháu chưa biết làm việc đó. Do những điểm khác nhau đó mà hai từ
15

đồng nghĩa được sử dụng linh hoạt trong các câu thơ giúp diễn đạt nội dung
chính xác hơn đó là tình cảm của người bà dành cho cháu, sự quan tâm và
tình yêu thương dành cho cháu. Tình cảm ấy được thể hiện ngay khi dạy bảo
cháu, đó là bà luôn dạy cháu những điều hay, lẽ phải, những điều phải làm
trong cuộc sống.
Ví dụ 2: Trong tác phẩm “Kép tư bền” của nhà văn Nguyễn Công Hoan,
lời nói của ông chủ rạp kịch cũng có sự thay đổi theo thái độ, mục đích của
mình:
“Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh chơi. Sau một vài
câu hỏi thăm chiếu lệ, ông ta nghêm sắc mặt, nhắc đến món nợ:

- Sao? Cái số tiền đó cậu đã có để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả tôi sẽ đi làm và
nộp sau.
Ông chủ bĩu môi, nói:
- Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả tôi sẽ đem ra tòa đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ:
- Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy anh liệu
liệu mà đi làm ăn đi chứ?”
Ở ví dụ trên, các từ đồng nghĩa được sử dụng đó là: nhắc, bĩu môi,cười
lạt, dỗ, nhắc nhở. Ngoài nét nghĩa chung chỉ hoạt động nói năng, phát ra âm
thanh như định nghĩa “nói” trong Từ điển tiếng Việt, mỗi từ ngữ đó lại mang
những sắc thái biểu cảm riêng biệt. Nhắctức nói ra cho người khác nhớ, nói
lại để người khác nhớ mà thực hiện. Bĩu môi là hành động nói năng phát ra
âm thanh với giọng khinh bỉ, không tôn trọng đối tượng giao tiếp. Cười
lạtcũng là một cách nói nhưng là cười thay cho câu trả lời, cốt để lảng tránh
điều gì đó. Dỗlà cách nói dùng lời ngọt ngọt ngào, dễ nghe nhằm làm cho
người khác bằng lòng, nghe và làm theo. Qua đoạn đối thoại giữa anh Tư Bền
16

và ông chủ rạp kịch trên, chúng ta thấy được sự thay đổi trong ngữ điệu của
ông chủ. Ban đầu khi mới đến nhà anh Tư Bền, ông chủ “hỏi thăm chiếu lệ”
rồi khéo léo “nhắc” đến món nợ. Nhưng khi thấy thái độ của anh Tư Bền, ông
lại chuyển giọng điệu, thái độ sang “ngọt ngào dỗ”. Việc Nguyễn Công Hoan
sử dụng các từ ngữ đồng nghĩa trong lời nói cho nhân vật của mình đã tạo ra
hiệu quả nghệ thuật rất lớn. Nó giúp cho người đọc thấy rõ được bản chất
khôn ngoan, xảo quyệt và khéo léo trong cách ứng xử và đánh trúng tâm lí
người khác của ông chủ rạp Kịch trường.
Từ việc phân tích các ví dụ trên, ta có thể thấy được giá trị to lớn của từ
đồng nghĩa trong hoạt động giao tiếp nói chung và trong việc tạo lập văn bản
văn chương nói riêng. Ngôn ngữ của các tác phẩm văn học đòi hỏi phải có sự

chính xác, gợi hình ảnh, có khả năng bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con người
nhưng lại phải hàm súc Để đáp ứng được những yêu cầu đó, chỉ có từ đồng
nghĩa của tiếng Việt mới có đầy đủ khả năng mà thôi. Mỗi từ đồng nghĩa
trong tiếng Việt là một bức tranh, một mảnh nhỏ của một tác phẩm văn học cô
đọng lại trong một từ. Cho nên các từ đồng nghĩa là những phương tiện quý
báu của nghệ thuật văn học. E.I. Efimốp đã chỉ ra rằng: “Đằng sau mỗi từ
đồng nghĩa là một sự độc đáo về ý nghĩa và phong cách, nghĩa là những sắc
thái rất tinh tế, đặc biệt”[13, tr.318].
1.3. Đồng nghĩa từ vựng và đồng nghĩa lời nói
1.3.1. Đồng nghĩa từ vựng
Đồng nghĩa từ vựng hay còn gọi là đồng nghĩa cố định là hiện tượng chỉ
xảy ra giữa các đơn vị ngôn ngữ có sẵn trong hệ thống ngôn ngữ.
Chẳng hạn để biểu thị hành động nhìn một vật nào đó của con người,
tiếng Việt có rất nhiều từ đồng nghĩa như: nhìn, lườm, nhòm, ngó, liếc,
trông Đây là những đơn vị từ vựng thuộc cấu trúc có sẵn trong Từ điển
đồng nghĩa, mang tính chất cố định, chỉ khác về mặt phong cách chức năng và
phạm vi sử dụng.
17

Do chỗ các từ có chung nét nghĩa đồng nhất đều đã được đưa về từng
trường nghĩa dọc cho nên hiện tượng đồng nghĩa chỉ xuất hiện trong từng
trường nghĩa một.Từ đó, có thể suy ra rằng:
Các từ chỉ đồng nghĩa với nhau khi đã thuộc cùng một trường nghĩa.
Ví dụ: Loạt từ đồng nghĩa chỉ “phẩm chất tích cực của tâm tính”: tốt, tốt
bụng, tốt dạ, tốt lòng, hiền, hiền lành, khoan dung, độ lượng, từ bi
Tuy nhiên, không chỉ riêng số lượng các nét nghĩa chung là đủ quyết
định các từ đồng nghĩa trong trường. Phải nói thêm rằng các nét nghĩa đó
không loại trừ lẫn nhau. Nếu như hai từ trong cùng một trường đồng nhất về
tất cả các nét nghĩa, trừ hai nét nghĩa nào đó chống nhau, loại trừ lẫn nhau thì
lập tức, với sự xuất hiện nét nghĩa loại trừ lẫn nhau chúng không còn là từ

đồng nghĩa[5, tr.196]
1.3.2. Đồng nghĩa lời nói
Đồng nghĩa lời nói hay còn gọi là đồng nghĩa lâm thời là hiện tượng
không có sẵn trong cấu trúc ngôn ngữ mà được hình thành trong từng văn bản
(ngôn cảnh) cụ thể. Đặt ngoài ngôn cảnh (văn cảnh), hiện tượng đồng nghĩa
lâm thời không tồn tại.
Ví dụ:
“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười”
(Bác ơi!-Tố Hữu)
Đây là đoạn thơ được trích trong bài thơ “Bác ơi!” của nhà thơ Tố Hữu.
Bài thơ là tiếng khóc đau xót của nhà thơ trước sự ra đi của Bác. Tác giả đã
nén đau thương trong hình thức tu từ nhã ngữ (nói giảm). Nói về sự ra đi của
Bác, nhà thơ không dám nói đến những chữ đau lòng mà chỉ có “đi rồi sao”.
Có thể thấy, việc sử dụng từ “đi rồi” đồng nghĩa với “chết” trong trường hợp
18

này đã mang lại những hiệu quả nghệ thuật to lớn cho bài thơ. Tố Hữu sử
dụng cụm từ “đi rồi sao” vừa tránh được sự mất mát, đau thương trước cái
chết của Bác đồng thời làm cho cái chết của Bác trở nên nhẹ nhàng. Đặt trong
văn cảnh này thì từ “đi rồi” mới phát huy được hết tác dụng của nó và đây
chính là một hiện tượng đồng nghĩa lâm thời.
Giá trị tu từ của hiện tượng đồng nghĩa lời nói cũng được biểu hiện trên
nhiều phương diện:
Thứ nhất, hiện tượng đồng nghĩa lời nói giúp người đọc nhận thức sâu
sắc hơn về đối tượng miêu tả.
Ví dụ:Trong bài thơ “Tây Tiến”, tác giả Quang Dũng đã dùng một loạt
các từ đồng nghĩa khác nhau để nói về cái chết của người chiến sĩ Tây Tiến.

Mỗi từ mà nhà thơ sử dụng đều nói về cái chết nhưng ở những mức độ khác
nhau. Nói cách khác, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh để làm
nhẹ hóa cái chết của người chiến sĩ, làm cho người đọc cảm nhận được bản
lĩnh anh hùng của người lính Tây Tiến nói riêng và người lính trong thời kì
kháng chiến chống Pháp nói chung.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất”
(Tây Tiến -Quang Dũng)
Thứ 2, hiện tượng đồng nghĩa lời nói thường bộc lộ cảm xúc, tâm trạng,
tính cách, sự đánh giá của người nói nhưng đồng thời cũng “khêu gợi” tình
cảm, cảm xúc nơi người đọc.
Ví dụ: Hình ảnh chị Trần Thị Lý - một người con gái kiên cường, gan
dạ, dũng cảm đã xuất hiện trong tác phẩm “Người con gái Việt Nam” với
nhiều tên gọi khác nhau. Mỗi tên gọi là sự trân trọng, khâm phục, là tấm lòng
19

yêu mến của nhà thơ dành cho chị. Việc Tố Hữu gọi tên chị bằng những từ
đồng nghĩa khác nhau không chỉ làm cho bài thơ trở nên sinh động, hấp dẫn
mà còn khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải chiêm nghiệm về hình ảnh
người con gái Việt Nam kiên cường, bất khuất.
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Không giết được em, người con gái anh hùng
Em trở về, người con gái quang vinh
Hỡi em, người con gái Việt Nam
(Người con gái Việt Nam -Tố Hữu)
Thứ ba, hiện tượng đồng nghĩa lời nói mang đến giá trị cho tác phẩm.
Việc sử dụng các từ đồng nghĩa trong tác phẩm của mình làm cho tác

phẩm trở nên phong phú, sinh động, tránh được hiện tượng lặp từ, thừa từ khi
nói về cùng một đối tượng và làm cho người đọc cảm thấy thích thú khi đọc
tác phẩm.
Ví dụ: Cùng viết về Bác nhưng trong tác phẩm “Hồ Chí Minh”, nhà thơ
Tố Hữu không chỉ gọi Người bằng một tên duy nhất mà gọi bằng nhiều tên
khác nhau với thái độ trân trọng, yêu mến. Chính điều này đã làm nên giá trị
to lớn cho tác phẩm.

“Hồ Chí Minh
Người lính già
Rập bước tiến bên Người cha anh dũng
Hồ Chí Minh
Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng
Trăm thế kỷ trong tên Người: Ái Quốc”
(Hồ Chí Minh -Tố Hữu)
20

Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 này, chúng tôi đã đi sâu vào tìm hiểu các vấn đề lý
thuyết chung làm nền tảng cho việc khảo sát, phân tích ở chương 2. Đó là các
vấn đề về trường nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng.
Trường nghĩa là tập hợp những từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa. Có ba
loại trường nghĩa là: trường nghĩa ngang, trường nghĩa dọc và trường liên
tưởng.Đối với các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng thì có bốn quan
hệsau: quan hệ bao gồm - nằm trong là quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ có
nghĩa rộng hẹp khác nhau cùng thuộc một trường biểu vật. Quan hệ toàn bộ -
bộ phận là quan hệ giữa các bộ phận cấu thành một sự vật được xem là một
thể thống nhất, hoàn chỉnh. Quan hệ trái nghĩa là hiện tượng ngữ nghĩa trái
ngược với hiện tượng đồng nghĩa. Quan hệ đồng nghĩa trước hết là một loại
quan hệ giữa các từ trong trường nghĩa như quan hệ cấp loại, quan hệ toàn bộ -

bộ phận.Đồng thời, chúng tôi đã tìm hiểu được khái niệm từ đồng nghĩa, cách
phân loại từ đồng nghĩa và thấy được giá trị to lớn của hiện tượng đồng nghĩa từ
vựng và đồng nghĩa lời nói. Đây là hai hiện tượng đã góp phần làm nên sự
phong phú, sinh động cho ngôn ngữ tiếng Việt. Tất cả các vấn đề lý thuyết mà
chúng tôi đề cập ở chương 1 đều là những vấn đề lý thuyết cơ bản, là cơ sở để
khảo sát, phân loại và tìm hiểu về giá trị sử dụng của từ ngữ đồng nghĩa trong
truyện ngắn Nam Cao.

×