Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 1986 đến năm 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.2 KB, 84 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
*********


NGUYỄN HỒNG HẠNH

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 2001

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS. TS. VŨ QUANG VINH




HÀ NỘI, 2014



LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô
giáo trong khoa Lịch sử - những người đã cung cấp cho em những kiến thức
bổ ích trong quá trình học tập tại trường, để em có kiến thức vận dụng trong
quá trình thực hiện và hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của mình.
Tiếp theo, cho phép em gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn
bè - những người đã động viên, giúp đỡ em trong quá trình làm khoa học, để
em hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
PGS.TS. Vũ Quang Vinh - người thầy đã tận tình giúp đỡ, nhiệt tình chỉ bảo,
hướng dẫn và cung cấp cho em những tài liệu quý báu trong quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, giúp em có bước đi vững chắc hơn trong
quá trình tập dượt nghiên cứu khoa học của bản thân.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của em nên chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, kính mong các thầy, cô giáo góp ý để
khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận


NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH





LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em được hoàn
thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Vũ Quang Vinh. Các số liệu, dữ liệu,

kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, các nguồn tài liệu trích dẫn
có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Khóa luận được hoàn thành dựa trên sự kế
thừa, bổ sung từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Em xin cam đoan những điều
trên là đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH











MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của khóa luận 3
6. Về kết cấu khóa luận 4
Chƣơng 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996 5
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG

CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VĂN HÓA TRƢỚC ĐỔI MỚI 5
1.2. TỪNG BƢỚC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN ĐƢỜNG LỐI VĂN
HÓA 8
1.2.1. Những đổi mới bước đầu trong tư duy, đường lối văn hóa của
Đảng và tình hình văn hóa đất nước những năm đầu đổi mới 8
1.2.2. Tiếp tục đổi mới tư duy và phát triển đường lối văn hóa 12
1.3. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN VĂN HÓA TRONG NHỮNG NĂM 1991 - 1996 15
1.3.1. Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh 16
1.3.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc 19
1.3.3. Từng bước đổi mới hoạt động văn học - nghệ thuật, thông tin đại
chúng 23
1.3.4. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa cơ sở 27


Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA ĐÂT NƢỚC (1996 - 2001) 32
2.1. XÂY DỰNG CHIẾN LƢỢC VĂN HÓA TRONG THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐÂT NƢỚC 32
2.1.1. Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và những định
hướng xây dựng, phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 32
2.1.2. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII –
bước phát triển trong đường lối văn hóa của Đảng 35
2.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN VĂN HÓA THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC (1996-2001) 41
2.2.1. Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh 43
2.2.2. Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc 46

2.2.3. Xây dựng và phát triển văn học - nghệ thuật, thông tin đại chúng
theo tiêu chí tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 50
2.2.4. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” 52
Chƣơng 3: MỘT SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ KINH
NGHIỆM TRONG QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA (1986 - 2001) 57
3.1. MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CƠ BẢN 57
3.1.1. Thành tựu 57
3.1.2. Hạn chế 60
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU 64


3.2.1. Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, kịp thời hoạch
định đường lối văn hóa, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới là yếu
tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp văn hóa phát triển 64
3.2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với không
ngừng tiếp biến văn hóa toàn nhân loại là vấn đề cốt lõi để xây dựng và
phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới 65
3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa là động lực quan
trọng thúc đẩy văn hóa phát triển mạnh mẽ và toàn diện 69
KẾT LUẬN 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76





1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa, theo nghĩa rộng là bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, bao
gồm các lĩnh vực hoạt động sống của con người và các dạng thức hoạt động
khác nhau của họ. Theo nghĩa hẹp, đời sống văn hóa là một bộ phận của đời
sống xã hội và thường được biểu hiện là đời sống văn hóa tinh thần. Xuất phát
từ các nhu cầu văn hóa của con người, đời sống văn hóa bao gồm toàn bộ
những hoạt động sản xuất và tiêu thụ, sáng tạo và hưởng thụ những sản phẩm
văn hóa, thông qua các thiết chế văn hóa và các thể chế văn hóa. Từ đó tạo
nên lối sống, nếp sống, phong tục tập quán… Như vậy nói đến văn hóa là nói
đến những quan hệ tương tác giữa các yếu tố nói trên.
Xây dựng và phát triển văn hóa là công việc chung của cả xã hội,
nhưng phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình, từng địa phương, cơ sở thì
mới có thể thành công.
Nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa với sự phát triển của đất
nước, Đảng ta đã hết sức chú trọng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến 2001 và đạt được một số
những thành tựu to lớn, tạo điều kiện thúc đẩy văn hóa – xã hội ngày càng
phát triển, tăng thêm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, góp
phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Đi sâu tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng về xây dựng và phát triển
văn hóa từ năm 1986 đến năm 2001, không những sẽ làm phong phú thêm
những trang sử vẻ vang của Đảng trong công cuộc đổi mới, mà còn góp phần
lý giải rõ hơn nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong quá trình xây
dựng và phát triển văn hóa của thời kỳ này. Ngoài ra còn có thể đúc rút được
những kinh nghiệm về xây dựng và phát triển văn hóa để phục vụ nhiệm vụ
này của nước ta hiện nay.
2
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, em chon đề tài: “Đảng lãnh
đạo xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 1986

đến năm 2001” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng văn hóa là nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới đất
nước và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước hiện nay. Vì vậy
vấn đề này đã được đề cập trong nhiều công trình với các góc độ khác nhau:
Về sách có: Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới (Hồ Sĩ Vịnh,
1999); Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc (Nguyễn Khoa Điềm chủ biên, 2001); Nhận diện văn hóa Việt Nam
và sự biến đổi của nó trong thế kỷ XX (Đỗ Huy Công, 2002); Quá trình hình
thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Đào Duy Tùng, 2004);
Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (Phạm Minh Mạc, Nguyễn Khoa Điềm chủ biên, 2003); Văn hóa và
đổi mới (Phạm Văn Đồng, 1994)…
Về các bài trong tạp chí: “Giữ gìn bản sắc dân tộc – một vấn đề của
toàn xã hội” (Nguyễn Khắc Khánh – Tạp chí Lịch sử Đảng số 9 – 2996);
“Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, những nhận thức mới về quan điểm chỉ đạo và giải pháp thực hiện
(Hoàng Chí Bảo – Tạp chí Lịch sử Đảng số 9 – 2013);…
Các tài liệu ít nhiều đề cập đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa nước
ta trong thời kỳ 1986 – 2001, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình
nào trình bày một cách có hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xây
dựng văn hóa một cách toàn diện, cả những thành công và những tồn tại, cũng
như các kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
xây dựng văn hóa thời kỳ này.
3
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Làm rõ quá trình lãnh đạo, xây dựng văn hóa của Đảng từ năm 1986
đến 2001.
Trình bày các phong trào xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân dưới

sự lãnh đạo của Đảng.
Nêu những thành tựu, hạn chế của việc xây dựng văn hóa trong thời kỳ này.
Rút ra kinh nghiệm góp phần vào xây dựng văn hóa ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thực tiễn giai
đoạn năm 1986 – 2001.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 khi đường lối đổi mới được chính thức
thông qua tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng tới năm 2001.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu:
Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Công sản Việt Nam
lần thứ VI (12/1986), VII (6/1991), VIII (6/1996), IX (4/2001), nghị quyết
của Hội nghị của Ban Tư Tưởng - Văn hóa Trung ương trong giai đoạn từ
năm 1986 đến năm 2011.
Các sách chuyên khảo, các tạp chí,…
Phương pháp nghiên cứu:
Chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic, kết hợp với phân
tích, tổng hợp, thống kê,… Các phương pháp được sử dựng phù hợp với từng
nội dung của khóa luận.
5. Đóng góp của khóa luận
Cung cấp những tư liệu cơ bản về quá trình lãnh đạo, xây dựng văn hóa
của Đảng từ năm 1986 đến năm 2001.
4
Trình bầy một cách có hệ thống chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng về
công tác xây dựng, phát triển văn hóa trong thời kỳ 1986 – 2001.
Nêu nên những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lịch sử góp phần
vào công tác xây dựng, phát triển văn hóa nước ta hiên nay.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

khóa luận được chia làm ba chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa từ năm 1986
đến năm 1996
Chương 2: Đảng lãnh đạo Xây dựng và phát triển văn hóa thời kỳ đầu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 –
2001)
Chương 3: Một số thành tựu, hạn chế và kinh nghiêm trong quá trình
Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa trong
thời kỳ đổi mới (1986 – 2001)







5

Chƣơng 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996

1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ VĂN HÓA TRƢỚC ĐỔI MỚI
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hóa được hình thành trên cơ sở các quan điểm văn hóa mác-xít
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khởi nguồn quan niệm mác-xít về văn hóa là
những quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen xem văn hóa như là hình thức
biểu hiện và là kết quả của hoạt động lao động của con người. Theo quan
niệm của C. Mác, văn hóa là toàn bộ những thành tựu được tạo ra nhờ hoạt

động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực của con người. Văn hóa là thiên nhiên thứ hai, thiên nhiên
được con người cải biến. Văn hóa là tác phẩm của con người, là phương thức
hoạt động sống đặc thù của con người - phương thức mà con người xây dựng
thế giới tự nhiên cho mình theo quy luật của cái đẹp.
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa vô sản, V.I. Lênin
cho rằng, phải kế thừa và tiếp thu những thành quả của nền văn minh nhân
loại, những di sản văn hóa và thành tựu văn minh của chủ nghĩa tư bản.
Người nhấn mạnh, việc kế thừa và phát huy những di sản văn hóa và thành
tựu văn minh của nhân loại cần phải được tiến hành một cách có chọn lọc trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác và những điều kiện của thời đại mới - thời đại
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Sơ thảo Nghị quyết về văn hóa vô sản,
Lênin viết: “Không phải là nghĩ ra một thứ văn hóa vô sản mới, mà là phát
triển những kiểu mẫu ưu tú, truyền thống ưu tú, những kết quả tốt nhất của
6
nền văn hóa hiện tồn, xét theo quan điểm thế giới quan của chủ nghĩa Mác và
những điều kiện của đời sống và của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong
thời đại chuyên chính vô sản” [27, tr.548].
Từ khát khao giải phóng dân tộc, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng
sản Đông Dương chủ trương nâng cao dân trí, tự do báo chí. Mục tiêu quan
trọng nhất của vấn đề mở mang dân trí mà Đảng ta hướng tới là: tự do xem
sách báo; tự do mở trường; tự do làm sách, báo. Nếu như trong Luận cương
chánh trị, Đảng ta mới đặt vấn đề nâng cao dân trí và tự do báo chí thì đến Đề
cương về văn hóa Việt Nam, văn hóa được nhìn nhận rộng mở hơn với các nội
dung: lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam, nguy cơ của văn hóa Việt Nam
dưới ách phát xít Nhật - Pháp, vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, nhiệm vụ
cần kíp của các nhà văn hóa mác - xít Đông Dương và Việt Nam. Với bản đề
cương văn hóa cách mạng đầu tiên, phạm vi vấn đề văn hóa được xác định
bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đề cương nhấn mạnh: “Mặt
trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người

cộng sản phải hoạt động” [16, tr.316].
Cùng với cách nhìn rộng mở về văn hóa như Đề cương về văn hóa Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên một khái niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”[30, tr.438].
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Người phân tích và luôn
nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội.
7
Nếu trước năm 1945, Người nói về văn hóa theo nghĩa rộng thì sau Cách
mạng tháng Tám thành công, đất nước ta bước vào xây dựng chế độ mới và
cuộc sống mới, văn hóa được Người xác định là đời sống tinh thần của xã hội,
thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hóa được đặt ngang hàng với
chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành những vấn đề chủ yếu của cách mạng.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Người lãnh đạo
nhân dân xác lập cơ sở hạ tầng mới để thực hiện mục tiêu mà cách mạng văn
hóa Đông Dương phải thực hiện là văn hóa xã hội chủ nghĩa. Năm 1957,
Người xác định: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó
khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới
xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để
những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn
năm Chúng ta phải biến một xã hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn
hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” [31, tr.493-494].
Trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Người chỉ rõ: “Để phục vụ sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội
dung và dân tộc về hình thức” [32, tr.60]. Nội dung xã hội chủ nghĩa của văn

hóa phải được xác lập trên cơ sở cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Đó là nền văn hóa
có thuần phong mỹ tục, đa dạng và phong phú. Người cho rằng, hình thức dân
tộc của văn hóa không phải là cái cũ, cái lỗi thời mà là yếu tố hiện đại, cái đã
tiếp biến vào dân tộc Việt Nam. Tính dân tộc là một hệ mở, vừa lưu giữ, vừa
đổi mới. Bác chỉ rõ: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong
khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là vi
phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ
nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em
thì sẽ mắc phải sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại” [7, tr.199].
8
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm của
cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa là xây dựng nền văn hóa mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa; đồng thời, tiến hành tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng
thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; tiến hành đấu
tranh chống tư tưởng văn hóa phản động của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng chỉ rõ, nhiệm vụ
trung tâm của cách mạng văn hóa trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa
và tính dân tộc. Nền văn hóa đó vừa tiếp thu có chọn lọc những thành quả của
văn minh nhân loại, vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những giá trị
tốt đẹp nhất trong truyền thống bốn ngàn năm của văn hóa Việt Nam. Thực tiễn
xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội những năm 1975 - 1986 đã
giúp Đảng ta nhận thức rõ: đồng thời với việc xây dựng kinh tế phải coi trọng
các vấn đề văn hóa; giải quyết tốt mối quan hệ đó sẽ tạo tiền đề cho đất nước
phát triển bền vững.
1.2. TỪNG BƢỚC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN ĐƢỜNG LỐI VĂN HÓA
1.2.1. Những đổi mới bƣớc đầu trong tƣ duy, đƣờng lối văn hóa của Đảng
và tình hình văn hóa đất nƣớc những năm đầu đổi mới
Vào những năm giữa thập kỷ 80, đất nước rơi vào tình trạng khủng

hoảng kinh tế - xã hội, sản xuất tăng chậm, kinh tế mất cân đối nghiêm trọng,
lưu thông phân phối rối ren, chủ nghĩa bình quân xác lập các chuẩn mực giá
trị văn hóa. Các hiện tượng tiêu cực phát triển, văn hóa đạo đức sa sút, văn
hóa pháp luật yếu kém, kỷ cương không nghiêm, công bằng xã hội bị vi
phạm. Trước tình hình đó, đổi mới trở thành yêu cầu bức thiết và là vấn đề có
tầm quan trọng sống còn của cách mạng nước ta.
9
Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng chủ trương đổi mới tư duy lý luận về văn
hóa khi xác định: “Mỗi hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải tính đến hiệu
quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ
thẩm mỹ của nhân dân” [7, tr.91]. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng chỉ rõ
nhiệm vụ của cách mạng văn hóa những năm đổi mới là: xây dựng một nền
văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ trương tính
đến hiệu quả xã hội trong mỗi hoạt động văn hóa và quan điểm xây dựng nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là quá trình bổ sung và không ngừng phát
triển đường lối văn hóa. Đó là sự đổi mới bước đầu trong đường lối văn hóa
của Đảng.
Ngày 28-11-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 05/NQ-TW Về đổi
mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa,
phát huy khả năng sáng tạo đưa văn hóa, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên
một bước mới.
Nghị quyết khẳng định: Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cuộc cách
mạng tư tưởng văn hóa, là một lực lượng mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu
trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một
đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn
hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác,
làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người” [3, tr.47]. Từ nhận thức đó, Đảng
chỉ rõ: “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ là
yếu tố có ý nghĩa quyết định để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, phát triển

sự nghiệp văn hóa văn nghệ một cách thuận lợi” [3, tr.24].
Những văn kiện của Đảng về văn hóa, văn nghệ những năm 1986-1990
đã chỉ rõ những định hướng cho việc xây dựng và phát triển văn học - nghệ
thuật, văn hóa trong sự nghiệp đổi mới; kịp thời uốn nắn những thiếu sót, lệch
10
lạc trong quá trình đổi mới văn hóa, văn nghệ, đồng thời đề ra những chính sách,
biện pháp nhằm tạo điều kiện cho nền văn học, nghệ thuật, văn hóa phát triển
mạnh mẽ, đúng hướng và tích cực góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Những năm đầu đổi mới, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
các tầng lớp nhân dân ngày một lớn, từ Trung ương đến các địa phương đã tổ
chức nhiều hoạt động văn hóa bổ ích. Theo phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm”, các ngành, các cấp, các địa phương đã tổ chức được nhiều
hoạt động văn hóa mới phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Nhiều
công trình, hình thức sinh hoạt văn hóa hoạt động có kết quả như: cụm văn
hóa gắn với cụm kinh tế - xã hội và cụm công nghiệp, khu sinh hoạt văn hóa
ngoài trời, thuyền văn hóa, xe văn hóa, lễ hội văn hóa Sự ra đời của các câu
lạc bộ, nhà văn hóa, trung tâm văn hóa và các cuộc thi hát, liên hoan sân khấu
theo từng ngành, từng vùng đã tạo nên các hình thức sinh hoạt và thưởng thức
văn hóa của đông đảo nhân dân ở nhiều thành phố, thị xã, thị trấn và các vùng
dân cư tập trung, khu công nghiệp lớn.
Văn học, nghệ thuật - một bộ phận trọng yếu của đời sống tinh thần của
xã hội đã mở rộng đề tài. Với việc đi sâu phản ánh chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam trong chiến tranh giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, đã bước đầu đi
vào các vấn đề gai góc của đời sống thường nhật của mọi tầng lớp nhân dân.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nhiều văn nghệ sĩ đã
mạnh dạn tìm hiểu, khám phá mọi khía cạnh của đời sống nhân dân và mọi
hiện tượng xã hội để cho ra đời những tác phẩm có tính cảnh báo về tình trạng
tiêu cực, về sự suy thoái đạo đức trong xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động báo chí
cởi mở, phong phú, đa dạng hơn làm cho hai chiều tiếng nói của Đảng, Nhà
nước và của nhân dân đồng cảm. Báo chí là mũi nhọn trong cuộc đấu tranh

chống tiêu cực.
11
Công tác sưu tầm, tôn tạo các di sản văn hóa được chú ý. Bộ Văn hóa -
Thông tin đã tiến hành lập hồ sơ, xếp hạng các di tích lịch sử, văn hóa, cách
mạng và danh thắng tại nhiều địa phương trong cả nước. Nhiều đền chùa,
miếu phủ được sửa chữa, tôn tạo do sự đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên,
một số nơi có tình trạng lợi dụng lễ hội để buôn thần bán thánh và khôi phục
tệ mê tín, dị đoan.
Bên cạnh những tìm tòi, trăn trở, hoạt động văn hóa - nghệ thuật những
năm đầu đổi mới vẫn còn nhiều hạn chế bất cập. Đó là sự thiếu quan tâm của
không ít các ngành, các địa phương đối với việc tôn tạo, giữ gìn các di sản
văn hóa dân tộc. Tình trạng mê tín, dị đoan trong nhân dân vẫn phát triển.
Nhiều phong tục, tập quán lạc hậu ở các địa phương, nhất là vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số như: cúng ma, tảo hôn chưa bị bị đẩy lùi. Hoạt động văn
hóa, văn nghệ chưa hướng nhiều đến cơ sở, nhất là ở nông thôn, miền núi, hải
đảo và vùng căn cứ cách mạng.
Trong sáng tác văn học, nghệ thuật và trong một số bài phát biểu của văn
nghệ sĩ đã xuất hiện một số quan điểm mơ hồ, lệch lạc về chính trị và đường
lối. Trong hoạt động văn hóa và biểu diễn nghệ thuật xuất hiện xu hướng
thương mại hóa. Một số nhà xuất bản, tờ báo vì lợi nhuận đã chạy theo thị hiếu
tầm thường của một bộ phận công chúng để cho ra đời những ấn phẩm chất
lượng kém. Tình trạng đầu nậu sách khả phổ biến. Kinh doanh văn hóa phẩm
nhiễu loạn. Văn hóa phẩm phản động, đồi trụy lan tràn trên thị trường.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do sự lãnh đạo, quản lý văn
hóa - nghệ thuật còn nhiều lúng túng, sơ hở, thiếu bao quát. Cơ chế lãnh đạo,
quản lý chậm đổi mới, thiếu đồng bộ và chưa theo kịp yêu cầu phát triển của
văn hóa - văn nghệ trong tình hình mới. Trong lãnh đạo, quản lý còn tình
trạng buông lỏng, cấm đoán tùy tiện, đồng thời chưa nắm chắc mối quan hệ
12
biện chứng giữa định hướng và tạo điều kiện cho sự sáng tạo, phổ biến tác

phẩm văn học - nghệ thuật.
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, song sự đổi mới về tư duy lý luận và
đường lối văn hóa của Đảng, mở đầu bằng Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị
đã tạo ra bước chuyển biến mới trong hoạt động văn hóa - nghệ thuật những
năm 1986 - 1990; đồng thời tạo tiền đề cho sự đổi mới mạnh mẽ trên lĩnh vực
văn hóa những năm đầu thập kỷ 90.
1.2.2. Tiếp tục đổi mới tƣ duy và phát triển đƣờng lối văn hóa
Bước vào những năm đầu thập kỷ 90, trên bình diện quốc tế, thế giới
diễn ra cuộc chạy đua về kinh tế, khoa học - công nghệ trên cơ sở vừa hợp
tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình.
Cùng với xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, thế giới thời kỳ hội nhập cũng
diễn ra sự mở cửa, giao lưu rộng rãi về văn hóa. Quá trình giao lưu văn hóa
góp phần đưa các nước xích lại gần nhau trên cơ sở hiểu biết, tin cậy và tôn
trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, quá trình hội nhập toàn cầu trên lĩnh vực văn hóa
đã ảnh hưởng đến sự sống còn của các nền văn hóa của nhiều quốc gia, dân
tộc. Bởi các cuộc “chiến tranh thông tin” và “xâm lăng văn hóa” của các đế
quốc văn hóa đang ra sức nhất thể hóa văn hóa và đồng hóa lối sống của các
dân tộc để phục vụ ý đồ thống trị các dân tộc khác trên thế giới.
Ở trong nước, công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế hợp tác với
các nước và các dân tộc trên thế giới do Đảng ta khởi xướng mở ra bước
ngoặt cho bước phát triển của đất nước. Thông qua quá trình hội nhập, văn
hóa Việt Nam có điều kiện tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới và
học hỏi vốn văn hóa của toàn nhân loại, làm giàu cho nền văn hóa dân tộc,
góp phần thúc đẩy nền văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới. Sự chuyển đổi
từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã kích thích những tìm tòi, sáng tạo
13
trong hoạt động văn hóa - nghệ thuật và khuyến khích mọi nguồn lực để xây
dựng và phát triển văn hóa.
Tuy nhiên, quá trình mở rộng giao lưu văn hóa cũng là thách thức to lớn

đối với ý thức, tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên lĩnh vực văn hóa,
xuất hiện những khuynh hướng không lành mạnh, những phản văn hóa, phản
giá trị, tác động xấu đến con người và văn hóa dân tộc, làm nảy sinh nguy cơ
phá hoại những giá trị nhân bản, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc. Thực trạng đó là những thách thức to lớn đối với Đảng và nhà nước trong
việc xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Tiếp nối tư duy đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI và Nghị quyết số
05 của Bộ Chính trị, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (1991), xác
định: kinh tế và văn hóa là hai mặt tác động qua lại lẫn nhau nhằm "xây dựng
một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người"
[10: tr.10], từng bước vươn tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. Từ nhận thức đó, Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ rõ: Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa Việt
Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại.
Chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là kết quả của quá trình bổ sung và không ngừng hoàn chỉnh đường
lối văn hóa của Đảng qua các kỳ Đại hội III, IV, V, VI. Trong đường lối văn
hóa, văn nghệ được xác định tại Đại hội lần thứ VII của Đảng, vấn đề trung tâm
của nền văn hóa mới là chú trọng phát triển mọi mặt: trí, đức, thể, mỹ, tình cảm,
thị hiếu của nhân cách hướng tới hình thành một môi trường văn hóa lành mạnh
nhằm góp phần “Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, xây dựng
nền văn hóa mới, lối sống mới, con người mới” [9, tr.36].
14
Những chủ trương, đường lối văn hóa được xác định trong Nghị quyết
Đại hội VI, VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho văn hóa,
văn nghệ phát triển. Tuy nhiên, trong những năm đầu thập kỷ 90, tình hình
văn hóa, văn nghệ có nhiều diễn biến phức tạp: lối sống chạy theo đồng tiền,
thị hiếu không lành mạnh và những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan tăng nhanh;

nhiều văn hóa phẩm độc hại lan tràn trên thị trường. Trong sáng tác và lý
luận, phê bình nảy sinh một số khuynh hướng sai lầm; phủ nhận thành tựu
cách mạng và văn hóa, văn nghệ cách mạng, tách văn nghệ khỏi sự lãnh đạo
của Đảng; khuynh hướng “thương mại hóa”, truyền bá lối sống thực dụng, sa
đọa, bạo lực phát triển.
Trong bối cảnh đó, đầu tháng 1-1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII họp bàn và ra Nghị quyết số 04-NQ/TW Về một số
nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt. Nghị quyết đánh dấu sự
phát triển trong nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa khi khẳng
định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”

[11, tr.51]. Đây là Hội nghị Trung ương đầu tiên của Đảng bàn về vấn đề văn
hóa, văn nghệ những năm đổi mới. Hội nghị nhấn mạnh nguyên nhân chủ yếu
khiến cho tình hình tiêu cực trong văn hóa, văn nghệ xảy ra nghiêm trọng và
kéo dài một phần do chịu tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường và
những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, nhất là sau sự sụp đổ chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Mặt khác là do sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước từ Trung ương đến các cấp buông lỏng,
thiếu những luật lệ, thể chế của Nhà nước, thiếu đầu tư thích đáng cho lĩnh
vực văn hóa, văn nghệ.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng văn hóa văn nghệ của đất nước
và lý giải nguyên nhân của những hạn chế trong lãnh đạo và quản lý văn hóa,
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của nền văn hóa, văn nghệ dân
15
tộc, Hội nghị chỉ rõ: Phải xây dựng và phát triển nền văn hóa mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa - một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đây là sự nghiệp cao cả, trọng đại, khó khăn, do vậy phải tiến hành từng
bước, có mục tiêu rõ ràng nhằm xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống ngang tầm sự nghiệp đổi mới;

Những nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng về vấn đề văn hóa
trong những năm 1991-1996, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với
việc phát triển nền văn hóa dân tộc. Cùng với những đổi mới trên lĩnh vực
kinh tế, xã hội, quân sự, ngoại giao… tư duy lý luận về văn hóa của Đảng
cũng từng bước được đổi mới nhằm định hướng cho các hoạt động văn hóa
phát triển lành mạnh, phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc và từng
bước làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân.
1.3. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN VĂN HÓA TRONG NHỮNG NĂM 1991 - 1996
Quán triệt nội dung các văn kiện được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã cụ thể hóa đường lối văn hóa của Đảng thành
những nội dung cụ thể:
1. Khẳng định và đề cao vai trò, vị trí của văn hóa. Văn hóa có chức
năng góp phần bồi dưỡng nhân cách và tinh thần cao đẹp của con người Việt
Nam, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế
chân chính, hữu nghị và hợp tác, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia
đình văn hóa, hạnh phúc.
2. Nhà nước chủ trương bảo tồn, phát triển văn hóa Việt Nam, các di
sản văn hóa dân tộc, những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư
tưởng đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
16
cấm truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín và các hủ
tục lạc hậu.
3. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa; nghiêm cấm các
hoạt động văn hóa làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo
đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Ngày 19-1-1993, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 25/TTg về
Một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật.
Quyết định nêu rõ: Từ năm 1993 về sau, Nhà nước dùng kinh phí đầu tư cho

các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, xây dựng những công trình văn hóa lớn
không nhằm mục đích kinh doanh mà nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh
thần của nhân dân. Quyết định đề ra các chính sách bảo vệ và giữ gìn các di
sản văn hóa, hoạt động của các loại hình nghệ thuật biểu diễn của Nhà nước,
hoạt động của hệ thống thư viện, phát hành sách báo.
Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng đã góp phần nâng cao nhận thức của
các cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan lãnh đạo, quản lý, văn hóa, văn
nghệ. Trên cơ sở đó, các cấp ủy Đảng xây dựng chủ trương, chính sách và
biện pháp cụ thể để cụ thể hóa nghị quyết của Đảng và quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về văn hóa, văn nghệ. Trong những năm 1991-1996, đặc
biệt là từ năm 1993, Đảng tập trung lãnh đạo những vấn đề văn hóa cơ bản.
1.3.1. Xây dựng tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống lành mạnh
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã
tác động xấu đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, khiến nhiều
người hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam. Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng khẳng định, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội xác định 6 đặc trưng, 7 phương hướng xây dựng chủ nghĩa
17
xã hội trong thời kỳ quá độ nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh”. Đó là thành tựu quan trọng trong hoạt động lý
luận của Đảng, đồng thời đánh dấu sự xác lập hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới và trong nước, Đảng lãnh đạo nhân dân ta kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa; kiên trì
chế độ một đảng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiên quyết đổi
mới mà không “đổi màu”, hòa nhập mà không “hòa tan”. Tuy nhiên, những
năm đầu thập kỷ 90, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,

đặc biệt là sự chống phá quyết liệt trên mặt trận tư tưởng của các thế lực thù
địch cùng những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội trong nước, một số
cán bộ, đảng viên dao động, giảm sút niềm tin. Trong xã hội, tư tưởng thực
dụng, chạy theo đồng tiền làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân xa rời lý tưởng, sa sút phẩm chất, đạo đức; nạn tham nhũng, buôn lậu,
làm giàu bất chính và nhiều tệ nạn xã hội phát triển mạnh. Trong khi đó, công
tác tư tưởng chưa kịp thời phê phán những quan điểm sai trái và uốn nắn
những lệch lạc, chưa tạo ra được một phong trào quần chúng hành động cách
mạng sôi nổi. Việc lý giải nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn thiếu thuyết phục.
Ngày 18-2-1995, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 09-NQ/TW Về một số
định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay. Nghị quyết nêu 6 định
hướng về công tác tư tưởng, trong đó có định hướng: “Phát triển văn hóa; giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại”. Những định hướng về công tác tư tưởng là những nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo công cuộc đổi mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc chú trọng xây dựng tư tưởng, Đảng đặc biệt quan tâm
đến xây dựng đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh trong Đảng và trong xã
18
hội. Việc chú trọng xây dựng đạo đức, lối sống là sự tiếp nối tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề xây dựng đạo đức,
lối sống mới.
Sau 10 năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến tích cực đến tư tưởng, chính trị, đạo
đức và lối sống của xã hội ta: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
được vận dụng và phát triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị bền vững làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng
nước ta. Qua thực tiễn công cuộc đổi mới, đa số cán bộ, đảng viên và nhân
dân hiểu biết sâu sắc hơn những vấn đề cơ bản của đường lối đổi mới. Vì
vậy, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào công cuộc đổi mới, vào
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được

nâng cao. Trong xã hội, nhiều giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức mới
từng bước được hình thành. Tính năng động và tính tích cực công dân được
khuyến khích. Không khí dân chủ trong đời sống xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ
tiếp thu nhanh chóng những kiến thức mới và có ý chí vươn lên, lập nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức,
lối sống vẫn còn nhiều biểu hiện tiêu cực. Vấn đề đáng lo ngại được toàn xã
hội quan tâm là sự chệch hướng về lý tưởng, suy thoái về đạo đức của một bộ
phận cán bộ có chức, có quyền và một số người hoạt động trên lĩnh vực kinh
doanh.
Thế hệ trẻ phân hóa về đạo đức, nếp sống khá rõ nét. Một bộ phận
thanh niên tiên tiến tu chí học hành để lập thân, lập nghiệp. Một số khác hầu
như không quan tâm đến vấn đề chính trị, tư tưởng, thiếu ước mơ, hoài bão
trong cuộc sống.
19
Trước tình hình đó, Đảng chủ trương tập trung nghiên cứu để đề ra một
chiến lược văn hóa lâu dài, đồng bộ, có sách lược qua từng giai đoạn, có tri
thức hiểu biết không chỉ văn hóa hiện nay mà còn hiểu biết về di sản văn hóa
quá khứ và dự báo tiềm năng văn hóa tương lai.
1.3.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam,
Đảng và Nhà nước đã chú trọng gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Đó là: các di sản văn hóa, các lễ hội và truyền thống văn hóa tốt đẹp
của cha ông, những thuần phong mỹ tục, các vốn văn hóa cổ của các dân tộc
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Năm 1992, Chính phủ thông qua Chương trình quốc gia: Tổng kiểm kê
di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, Quyết định số 25QĐ/TTg của
Thủ tướng Chính phủ Về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự
nghiệp văn hóa.
Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ba chương trình cấp Nhà

nước, trong đó có Chương trình chống xuống cấp di tích. Mục tiêu của
chương trình là tôn tạo, tu sửa, nâng cấp di tích, trong đó chủ yếu là di tích
lịch sử và cách mạng. Năm 1994, Nhà nước cấp 23,650 tỷ đồng, năm 1995
28,278 tỷ đồng. [1: tr.49].
Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự tích cực, chủ động của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương nên trong những năm 1991-1996 nhiều
di tích được bảo tồn như: Chùa Một Cột (Hà Nội), Chùa Keo (Thái Bình),
Đền Hùng (Phú Thọ), Cố đô Huế, các Tháp Chàm miền Trung, địa đạo Vĩnh
Mốc (Quảng Trị),
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước chủ trương phục hồi, phát triển các lễ
hội truyền thống. Những lễ hội ở mọi vùng miền của đất nước là sinh hoạt
văn hóa đặc sắc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong những năm

×