Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quan hệ thương mại đàng trong nhật bản thời kỳ các chúa nguyễn (1558 1777)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 94 trang )


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**************




NGUYỄN THỊ HƢƠNG






QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
ĐÀNG TRONG - NHẬT BẢN THỜI
KỲ CÁC CHÚA NGUYỄN (1558 - 1777)




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam


Ng-êi h-íng dÉn khoa häc
TS. BïI NGäC TH¹CH









HÀ NỘI - 2014



LỜI CẢM ƠN

Trƣớc tiên em xin phép đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thầy
giáo, TS. Bùi Ngọc Thạch ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ em tận tình,
chu đáo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo trong khoa Lịch sử, trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho em
trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trƣờng cũng nhƣ trong thời gian
thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng nhƣ bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, do sự hạn chế về thời gian, khóa luận tốt
nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận đƣợc sự đóng góp ý
kiến của các Thầy giáo, Cô giáo và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời thực hiện


Nguyễn Thị Hƣơng



LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp “Quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản
thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 - 1777)” đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn
tận tình của Thầy giáo,TS. Bùi Ngọc Thạch.
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em,
không trùng lặp với bất kỳ kết quả nghiên cứu của tác giả nào khác. Những
kết quả thu đƣợc là hoàn toàn chân thực. Nếu sai em xin chịu trách nhiệm.
Ngƣời thực hiện



Nguyễn Thị Hƣơng








MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐÀNG TRONG
- NHẬT BẢN THỜI KÌ CÁC CHÚA NGUYỄN (1558 - 1777) 10
1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ ĐÀNG TRONG, NHẬT BẢN TỪ GIỮA
THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XVIII 10
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử thế giới 10
1.1.2. Hoàn cảnh lịch sử Nhật Bản 12
1.1.3. Hoàn cảnh lịch sử Đàng Trong 13

1.2. QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐẠI VIỆT - NHẬT BẢN TRƢỚC
NĂM 1558 18
Chƣơng 2. QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐÀNG TRONG - NHẬT BẢN
THỜI KÌ CÁC CHÚA NGUYỄN (1558 - 1777) 22
2.1. QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐÀNG TRONG - NHẬT BẢN GIAI
ĐOẠN 1558 - 1635 22
2.1.1. Chính sách của các chúa Nguyễn với thƣơng nhân Nhật Bản 22
2.1.2. Chính sách của chính quyền Nhật Bản với việc buôn bán ở
Đàng Trong 28
2.1.3. Tình hình thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản 29
2.2. QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐÀNG TRONG - NHẬT BẢN GIAI
ĐOẠN 1635 - 1777 39
2.2.1. Chính sách đóng cửa của Nhật Bản năm 1635 39
2.2.2. Tình hình thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản thông qua
công ty VOC Hà Lan 42
2.2.3. Tình hình thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản thông qua
thƣơng nhân Hoa Kiều 45

Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ THƢƠNG
MẠI ĐÀNG TRONG - NHẬT BẢN THỜI KÌ CÁC CHÚA NGUYỄN
(1558 - 1777) 52
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐÀNG TRONG -
NHẬT BẢN 52
3.1.1. Hoạt động thƣơng mại mang tính chất một chiều 52
3.1.2. Hoạt động thƣơng mại giai đoạn đầu phát triển hơn giai đoạn
sau 54
3.1.3. Hoạt động thƣơng mại nhằm mục đích trao đổi những mặt
hàng thiết yếu để phát triển kinh tế mỗi bên. 56
3.1.4. Thƣơng nhân Nhật Bản chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ với
thƣơng nhân nhiều nƣớc khác, nhất là thƣơng nhân Hoa Kiều. . 58

3.2. VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐÀNG TRONG -
NHẬT BẢN 60
3.2.1. Góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế Đàng Trong 60
3.2.2. Góp phần hình thành và phát triển các thƣơng cảng và đô thị
ở Đàng Trong 62
3.2.3. Góp phần thúc đẩy giao lƣu văn hóa 63
3.2.4. Đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong giai
đoạn sau 67
KẾT LUẬN 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
PHỤ LỤC 77




1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam, quan hệ giữa Việt Nam - Nhật
Bản có một vị trí đáng kể, trong đó quan hệ thƣơng mại giữa Đàng Trong và
Nhật Bản thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 - 1777) trở thành nền tảng, đã và
đang góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi bên.
Vùng đất Đàng Trong thế kỷ XV trở về trƣớc là nơi xa xôi, đất đai cằn
cỗi, giặc giã luôn nổi lên quấy rối biên cƣơng Đại Việt nhƣng khi Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558), lập ra xứ Đàng Trong đã đánh một dấu
mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc. Từ đây, Nguyễn Hoàng và các chúa
Nguyễn sau đó đã có những bƣớc đi đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả, làm thay
đổi bộ mặt vùng đất Đàng Trong. Các chúa Nguyễn luôn chăm lo tới sản xuất
nông nghiệp, khuyến khích phát triển thủ công và đặc biệt là tƣ duy mới mẻ

đƣa vùng đất Đàng Trong phát triển hƣớng biển. Nhận thấy vị trí thuận lợi
của vùng đất Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã kêu gọi thƣơng nhân các nƣớc
tới buôn bán, lập phố phƣờng, tạo nên hệ thống các đô thị sầm uất nhƣ Hội
An, Thanh Hà, Nƣớc Mặn, Thị Nại Đây là thời kỳ kinh tế thƣơng mại Đàng
Trong phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển ấy có sự góp mặt của thƣơng nhân và
mối giao lƣu thƣơng mại giữa Đàng Trong với nhiều quốc gia trong khu vực
và trên thế giới, trong đó có Nhật Bản. Quan hệ giao lƣu thƣơng mại Đàng
Trong với Nhật Bản thời kỳ này phát triển mạnh mẽ, sôi động, góp phần to
lớn làm nên sự hƣng thịnh của vùng đất Đàng Trong lúc bấy giờ.
Cơ sở của mối quan hệ Đàng Trong với Nhật Bản đã có từ lâu đời trƣớc
đó, nhất là từ thế kỷ XVI trở đi, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận
Quảng (1558) đã có những biện pháp phát triển thƣơng nghiệp ở Đàng Trong.
Đồng thời, ông cùng các vị chúa kế tiếp cũng đã từng bƣớc tạo mọi điều kiện
2
thuận lợi cho sự buôn bán của thƣơng nhân Nhật Bản ở Đàng Trong. Thời kì các
chúa Nguyễn (1558 - 1777) là thời kì phát triển thịnh đạt của quan hệ thƣơng
mại Việt Nam - Nhật Bản nói chung và Đàng Trong - Nhật Bản nói riêng.
Nghiên cứu vấn đề thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản có ý nghĩa khoa
học sâu sắc, giúp chúng ta thấy đƣợc mối quan hệ giao lƣu thƣơng mại của
Đàng Trong - Nhật Bản thời kỳ trung đại, nhất là giai đoạn thế kỷ XVI đến
thế kỷ XVIII; Góp phần khôi phục bức tranh toàn cảnh quan hệ hai nƣớc thời
kì các chúa Nguyễn và phần nào làm sáng tỏ tình hình kinh tế, chính sách đối
ngoại Đại Việt nói chung và chính quyền Đàng Trong nói riêng lúc bấy giờ.
Nghiên cứu quan hệ thƣơng mại giữa chính quyền Đàng Trong - Nhật
Bản còn mang ý nghĩa thực tiễn quan trọng, không chỉ tái tạo trung thực bức
tranh quá khứ mà còn góp phần mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cƣờng mối
quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nƣớc nhằm phục vụ cho sự nghiệp đổi mới
đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, thông qua đó, chúng ta rút ra
những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển, giao lƣu kinh tế và thƣơng
mại, đƣa quan hệ giao lƣu thƣơng mại Việt Nam “lên tầm cao mới”.

Do vậy, vấn đề đặt ra trong nghiên cứu quan hệ giữa hai nƣớc Việt
Nam và Nhật Bản thì không thể không đi nghiên cứu quan hệ giao lƣu thƣơng
mại giữa Đại Việt - Nhật Bản, đặc biệt là hoạt động thƣơng mại giữa chính
quyền Đàng Trong - Nhật Bản thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 - 1777).
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tôi đã quyết định chọn đề
tài “Quan hệ thương mại Đàng Trong - Nhật Bản thời kỳ các chúa Nguyễn
(1558 - 1777)” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những thế kỉ đã qua, đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về
quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Nhật Bản, đặc biệt là vấn đề thƣơng mại giữa
chính quyền Đàng Trong - Nhật Bản thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777 ).
3
Trƣớc năm 1945, nghiên cứu quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật
Bản còn ít, các nghiên cứu ở Phƣơng Tây về quan hệ Đàng Trong - Nhật Bản
thế kỉ XVI - XVIII chƣa nhiều, chỉ dừng lại ở việc giới thiệu hoạt động buôn
bán của các chủ tàu Nhật hoạt động trên các cảng Đàng Trong và Đông Dƣơng.
Trƣớc tiên, phải kể đến công trình Tường trình về vương quốc Đàng
Trong (1621) của tác giả Ch. Borri. Tác phẩm này đã đề cập tới nhiều mảng
của giao lƣu buôn bán giữa chính quyền Đàng Trong của chúa Nguyễn với
Nhật Bản và buôn bán giữa chính quyền Đàng Ngoài với Nhật Bản. Ch. Borri
đã miêu tả lại không gian giao lƣu buôn bán và các mặt hàng xuất nhập khẩu,
các hải cảng, phố phƣờng trên đất Đàng Trong giai đoạn các chúa Nguyễn
(1558 - 1777).
Từ sau năm 1945 đến nay, việc nghiên cứu quan hệ Việt - Nhật đã có
bƣớc phát triển đáng kể.
Ở miền Nam, có Bửu Cẩm với Bang giao lịch sử giữa Việt Nam và
Nhật Bản (1957); Đoàn Văn An với Trao đổi văn hóa Việt Nam - Nhật Bản
(1963) Nhìn chung, các tác phẩm, bài viết về mối quan hệ Việt - Nhật trong
đó có quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản chủ yếu là dƣới dạng biên
khảo, phổ biến kiến thức, chƣa có những chuyên khảo.

Ở miền Bắc sau năm 1954, đề tài quan hệ thƣơng mại Đàng Trong -
Nhật Bản thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 - 1777) đã dần dần đƣợc sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu.
Trong tác phẩm Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu
XIX (1961), tác giả Thành Thế Vỹ đã đề cập hoàn cảnh trong nƣớc và thế giới
liên quan đến ngoại thƣơng Việt Nam cũng nhƣ cách thức mua bán, trong đó
có quan hệ buôn bán với Nhật Bản.
Phan Lê Huy, Chu Thiên, Vƣơng Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm với
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, đã đề cập quan hệ ngoại thƣơng giữa
4
chính quyền Đàng Trong - Nhật Bản nhƣng còn hết sức sơ lƣợc. Do nhiều
nguyên nhân nên ở miền Bắc thời kỳ này chƣa có sự nghiên cứu chuyên sâu
về quan hệ Đàng Trong - Nhật Bản giai đoạn các chúa Nguyễn (1558 - 1777).
Từ năm 1990 đến nay, nhiều Hội thảo khoa học nghiên cứu về nhà
Nguyễn và các chúa Nguyễn đã thu hút đƣợc sự quan tâm của đông đảo các
nhà nghiên cứu. Các tác giả tập trung làm rõ lịch sử hình thành cũng nhƣ nhìn
nhận vai trò của các chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn đối với lịch sử dân
tộc, trong đó có nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề kinh tế thƣơng nghiệp ở
Đàng Trong dƣới thời các chúa Nguyễn. Ngoài những bài viết và sách đăng
tải trên các báo và in ấn tại các nhà xuất bản, nhiều cuộc hội thảo khoa học
cũng đã liên tiếp đƣợc tổ chức.
Hội thảo quốc tế Đô thị cổ Hộ An tại Đà Nẵng (1990) đã thu hút sự
tham gia của nhiều nhà nghiên cứu của một số quốc gia khác. Trong 38 báo
cáo khoa học trình bày tại hội nghị đã có nhiều báo cáo đề cập đến quan hệ
Việt - Nhật thế kỷ XVI - XVII, nhƣ: Phan Huy Lê với Hội An: lịch sử và hiện
trạng; Phan Đại Doãn với Hội An và Đàng Trong; Vũ Minh Giang với Người
Nhật, Phố Nhật và di tích Nhật Bản tại Hội An. Một số tác giả Nhật Bản nhƣ
Yoshiaki Ishizawa, Chihara Daigoro cũng có báo cáo đề cập hoàn cảnh quốc
tế và sự mở rộng giao lƣu Việt - Nhật nói chung và giao lƣu giữa Đàng Trong
với Nhật Bản nói riêng trong bối cảnh chung, góp phần làm sáng tỏ những nét

tƣơng đồng về kiến trúc, phƣơng thức hoạt động buôn bán Tuy cung cấp tƣ
liệu phong phú nhƣng vì không phải là một hội nghị về quan hệ thƣơng mại
Đàng Trong - Nhật Bản trong thời kì các chúa Nguyễn nên vấn đề này chỉ
đƣợc đề cập một cách vừa phải, chƣa đi sâu.
Tác phẩm Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước (2005) tác
giả Nguyễn Quang Thắng đã vẽ lên bức tranh lịch sử văn hoá địa lý xứ Đàng
Trong, việc mở rộng lãnh thổ và quan hệ của Đàng Trong với các nƣớc trong
đó có quan hệ thƣơng mại với Nhật Bản.
5
Tác giả Trịnh Tiến Thuận với công trình Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam
thế kỉ XVI - XVII đã trình bày quan hệ ngoại giao Nhật Bản - Đại Việt nói
chung và quan hệ thƣơng mại của cả Đàng Trong và Đàng Ngoài với thƣơng
nhân Nhật Bản.
Tác giả Tạ Thị Hoàng Vân với công trình Di tích kiến trúc Hội An
trong tiến trình lịch sử cũng đã đề cập tới bối cảnh lịch sử thế kỉ XV - XVI và
sự xuất hiện của thƣơng nhân Nhật Bản ở Hội An. Tuy nhiên, công trình này
bàn nhiều về khía cạnh kiến trúc và văn hóa ở Hội An mà chƣa đi sâu tìm
hiểu về thƣơng mại Hội An với Nhật kiều thời các chúa Nguyễn.
Nhƣ vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề giao lƣu
buôn bán giữa Đàng Trong - Nhật Bản, trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên, vẫn chƣa có công trình nào nào nghiên cứu chuyên sâu, một cách hệ
thống, đánh giá đầy đủ đặc điểm, vai trò của quan hệ thƣơng mại Đàng Trong
- Nhật Bản dƣới thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777). Nhƣng các tác phẩm
trên là những nguồn tƣ liệu quý báu và là cơ sở để tác giả thực hiện đề tài
nghiên cứu này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và thống kê sự kiện trong giao lƣu buôn bán, đề
tài phác họa nên bức tranh khái quát về quan hệ thƣơng mại Đàng Trong -
Nhật Bản dƣới thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777). Đồng thời giúp chúng

ta nhận thức đúng, rút ra bài học kinh nghiệm giao lƣu thƣơng mại với Nhật
Bản và các quốc gia khác trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận cần thực
hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
6
Tìm hiểu bối cảnh quốc tế, bối cảnh Nhật Bản, bối cảnh Đàng Trong từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tìm hiểu mối quan hệ giao thƣơng Đàng Trong -
Nhật Bản trƣớc năm 1558 để thấy đƣợc cơ sở của quan hệ thƣơng mại Đàng
Trong - Nhật Bản dƣới thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777).
Tìm hiểu chính sách đối với hoạt động buôn bán của chính quyền Đàng
Trong và Nhật Bản thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777). Tiến hành khảo
sát và thống kê các sự kiện về hoạt động giao thƣơng nhƣ các loại hàng hóa
trao đổi, hình thức trao đổi để mô tả lại tình hình quan hệ thƣơng mại Đàng
Trong - Nhật Bản dƣới thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 - 1777).
Từ đó, đánh giá đúng về đặc điểm, vai trò tác động của mối quan hệ
thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản dƣới thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 -
1777).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những chính
sách và những hoạt động thƣơng mại, trao đổi buôn bán của chính quyền chúa
Nguyễn và Nhật Bản trên lãnh thổ vùng đất Đàng Trong lúc đó. Không gian
nghiên cứu của đề tài có sự thay đổi mở rộng gắn với quá trình mở rộng vùng
đất ở Đàng Trong qua các đời chúa Nguyễn. Để làm rõ hơn quan hệ thƣơng
mại Đàng Trong - Nhật Bản thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777), tác giả
còn mở rộng không gian nghiên cứu cả vùng đất Đàng Ngoài trong khoảng
thời gian đó.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ thƣơng
mại Đàng Trong - Nhật Bản thời kỳ các chúa Nguyễn (1558 - 1777). Ngoài
ra, để làm rõ hơn vai trò và tác động của quan hệ thƣơng mại Đàng Trong -

Nhật Bản thời kì các chúa Nguyễn đến các giai đoạn sau, công trình nghiên
cứu đã mở rộng phạm vi thời gian đến hiện nay - năm 2014.

7
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu
Khóa luận đƣợc thực hiện dựa trên những nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Tƣ liệu trong thƣ tịch cổ Việt Nam nhƣ: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại
Nam thực lục, Phủ biên tạp lục, Việt Nam sử lược.
Bài viết trong các tạp chí Văn hóa nguyệt san, Thông tin khoa học,
Nghiên cứu lịch sử của các tác giả liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu trong các Hội thảo khoa họcnghiên cứu liên
quan đến quan hệ Đàng Trong - Nhật Bản nhƣ: Kỷ yếu Hội thảo khoa học
chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam; Kỷ yếu Hội thảo
Đô thị cổ Hội An.
Các công trình luận án Tiến sĩ Lịch sử liên quan đến đề tài nhƣ: Luận
án Tiến sĩ: Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam thế kỉ XVI - XVII của tác giả Trịnh
Tiến Thuận; Luận án Tiến sĩ Di tích kiến trúc Hội An trong tiến trình lịch sử
của tác giả Tạ Thị Hoàng Vân.
Các sách nghiên cứu về quan hệ Đàng Trong - Nhật Bản nhƣ: Những
mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam; Ngoại thương Việt Nam thế kỷ
XVII, XVIII và đầu XIX; Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước
cũng là những nguồn tƣ liệu quan trọng phục vụ nghiên cứu đề tài.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, để xem xét đánh giá các sự kiện lịch sử trong quá trình vận động, biến
đổi của quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản.
Phƣơng pháp chủ yếu tác giả sử dụng trong khóa luận là kết hợp
phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgíc trong đó phƣơng pháp lịch sử là
chủ yếu.

8
Để xử lý các tƣ liệu, khóa luận đã sử dụng phƣơng pháp so sánh, điều
tra, xác minh, giám định, phân loại, đối chiếu các nguồn tƣ liệu khác nhau đã
sƣu tầm đƣợc.
Khóa luận đã sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học để xử lý, thống
kê, phân tích số liệu thu đƣợc trong quá trình thống kê sự kiện trong các bộ
thông sử.
5. Đóng góp của khóa luận
Trên tinh thần trân trọng và kế thừa giá trị của các tác giả đi trƣớc, đề
tài khóa luận “Quan hệ thương mại Đàng Trong - Nhật Bản thời kỳ các chúa
Nguyễn (1558 - 1777)” góp phần:
Khẳng định vai trò của quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản
trong hệ thống thƣơng mại Đàng Trong dƣới thời kì các chúa Nguyễn (1558 -
1777).
Làm rõ những nội dung trao đổi buôn bán giữa Đàng Trong và Nhật
Bản từ bối cảnh lịch sử,chính sách đối với hoạt động buôn bán của chính
quyền Đàng Trong và Nhật Bản thời kì các chúa Nguyễn cho đến tình hình
trao đổi buôn bán cũng nhƣ các mặt hàng trao đổi giữa hai bên.
Đánh giá, nhận xét những đặc điểm, vai trò quan hệ giao lƣu thƣơng
mại Đàng Trong - Nhật Bản thời các chúa Nguyễn, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm trong quan hệ với Nhật Bản cũng nhƣ với các nƣớc trong giai đoạn
hiện nay.
Với những đóng góp nêu trên, tôi mong muốn khóa luận sẽ trở thành
nguồn tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên khoa Lịch sử khi nghiên cứu
về quan hệ thƣơng mại của Việt Nam, đồng thời là nguồn tƣ liệu góp phần
vào phục vụ việc học tập và giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam trung đại nói
chung và quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản thời kì các chúa
Nguyễn nói riêng.
9
6. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung khóa luận gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở của quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản thời
kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777)
Chƣơng 2: Quan hệ thƣơng mại Đàng Trong - Nhật Bản thời kì các
chúa Nguyễn (1558 - 1777)
Chƣơng 3: Đặc điểm và vai trò của quan hệ thƣơng mại Đàng Trong -
Nhật Bản thời kì các chúa Nguyễn (1558 - 1777)






10

Chƣơng 1
CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
ĐÀNG TRONG - NHẬT BẢN THỜI KỲ CÁC CHÚA NGUYỄN
(1558 - 1777)

1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ ĐÀNG TRONG, NHẬT BẢN TỪ GIỮA
THẾ KỈ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XVIII
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới
Thế kỉ XV - XVI, trên thế giới đã diễn ra những bƣớc ngoặt quan trọng
trong lịch sử giao lƣu giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây.
Cuối thế kỷ XV, tầng lớp thƣơng nhân Châu Âu đã lớn mạnh thành một
giai cấp, dần dần nắm quyền điều khiển nền kinh tế ở Cựu lục địa, thay thế
dần cho chế độ kinh tế phong kiến truyền thống, vốn do các lãnh chúa phong
kiến nắm giữ. Đây là thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tƣ bản và

phát triển sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. Từ nửa sau thế kỷ XVI, chủ nghĩa tƣ bản
trên thế giới phát triển mạnh mẽ, dẫn đến yêu cầu ngày càng lớn về thị
trƣờng. Các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây đổ xô đi tìm kiếm những thị trƣờng ở
các châu lục khác. Thời kỳ từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII đƣợc coi là
“thời đại thương mại” với sự phát triển mạnh mẽ chƣa từng thấy của nền
thƣơng mại thế giới.
Cuối thế kỷ XV (1498), Vaccoda Gama (nhà thám hiểm ngƣời Bồ Đào
Nha) đã khám phá ra con đƣờng biển từ Châu Âu sang Châu Á. Ngay sau đó,
các nƣớc phƣơng Tây ồ ạt dồn sang phƣơng Đông để tìm kiếm thị trƣờng
mới. Đàng Trong là một vùng đất mới giàu tài nguyên nên ngay lập tức trở
thành một điểm đến lý tƣởng của các thƣơng nhân phƣơng Tây. Những
11
thƣơng nhân đầu tiên đến Đàng Trong thời kì này là ngƣời Bồ Đào Nha sau
đó là Anh, Pháp, Hà Lan
Cuộc cách mạng giá cả do các cuộc phát kiến địa lý mang lại đã đƣa
đến việc dùng tiền làm phƣơng tiện thanh toán trở nên phổ biến, đã tăng
cƣờng sức mạnh kinh tế của giai cấp tƣ sản. Điều đó cũng có nghĩa là sự suy
yếu của chế độ phong kiến ngày càng mạnh mẽ hơn.
Đại phát kiến địa lý diễn ra đã có tác dụng nhất định đến việc mở ra
một thời đại hình thành và phát triển hệ thống thƣơng mại thế giới, tạo nên
những hệ quả và ảnh hƣởng lớn lao, làm biến đổi sâu sắc thế giới lúc bấy giờ.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, quan hệ thƣơng mại Đàng Trong -
Nhật Bản cũng chịu nhiều tác động từ bối cảnh quốc tế ấy. Các công ty Đông
Ấn ra đời nhƣ: Công ty Đông Ấn Anh ra đời (1600), Công ty Đông Ấn Hà
Lan ra đời (1602), Công ty Đông Ấn Pháp ra đời (1664) Trong đó, Công ty
Đông Ấn Hà Lan từng có vai trò nhất định làm trung gian trong thƣơng mại
Đàng Trong - Nhật Bản trong thời kỳ Nhật Bản thi hành chính sách “tỏa
quốc” (1635 - 1777).
Bên cạnh đó, trƣớc sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thƣơng mại
trên thế giới và trong khu vực. Năm 1567, nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ

lệnh “hải cấm” (1371 - 1567), đồng thời Mạc phủ Tokugawa (Nhật Bản) cũng
ban hành chính sách “mở cửa”… từ đó góp phần tạo nên không khí buôn bán
nhộn nhịp trong khu vực… thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản hoạt động ráo
riết trên các cảng biển Đàng Trong nhƣ: Hội An (Quảng Nam), Nƣớc Mặn
(Bình Định), Bến Nghé (Gia Định)… Những chính sách đó kéo dài cho đến
năm 1636, tạo ra một giai đoạn buôn bán phát đạt giữa Nhật Bản với Việt
Nam nói chung và với Đàng Trong nói riêng, đặc biệt là với Hội An. Năm
1644, nhà Minh sụp đổ, nhà Thanh lên thay thế đã dẫn đến làn sóng di cƣ ồ ạt
của ngƣời Hoa ở Trung Quốc (1661 - 1683) tới vùng đất Đàng Trong, chính
12
sách cấm vận của nhà Thanh cũng một thời thúc đẩy quan hệ ngoại thƣơng
giữa Đài Loan với Đông Nam Á.
1.1.2. Hoàn cảnh lịch sử Nhật Bản
Ở Nhật Bản, chế độ Mạc phủ kéo dài từ năm 1192 đến năm 1868. Đó là
thời kỳ mà chế độ phong kiến Nhật Bản có hai chính quyền song song cùng
tồn tại: Chính quyền của Thiên hoàng ở Kyoto và chính quyền Mạc Phủ của
tầng lớp võ sĩ Nhật Bản.
Dƣới thời kì Mạc phủ Tokugawa, chiến tranh liên miên, nhƣng thế kỷ
XV - XVIII vẫn là thời kì phát triển của chế độ phong kiến. Thời kỳ 1467-
1573, Nhật Bản bƣớc vào thời kỳ thống nhất đất nƣớc, nên nền kinh tế Nhật
Bản vẫn có nhiều khởi sắc.
Trong nông nghiệp, ngoài việc mở rộng diện tích và xuất hiện nhiều
giống lúa mới, thủy lợi tƣơng đối phát triển, cùng với nhiều biện pháp kỹ
thuật đƣợc áp dụng nên mỗi năm có thể trồng đƣợc hai vụ lúa. Ngƣời nông
dân đƣợc giải phóng đã góp phần vào việc tham gia các hoạt động sản xuất
kinh tế khác. Phân công lao động đƣợc mở rộng và chuyên môn hóa cao hơn.
Sự chuyên môn hóa ấy đã dẫn tới sự thành lập các phƣờng hội chuyên môn
làm cho thƣơng mại và thủ công phát triển mạnh.
Kinh tế hàng hóa phát triển, việc thanh toán bằng tiền phổ biến đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sản phẩm. Sự phát triển của thủ công,

thƣơng nghiệp cùng với sự hƣng thịnh của thành thị trở thành địa bàn xuất
hiện tầng lớp thƣơng nhân. Vai trò của thƣơng nhân và thị dân ngày càng trở
nên quan trọng. Tầng lớp thƣơng nhân Nhật Bản phát triển nhanh chóng và
đội thƣơng thuyền Nhật cũng tăng lên không ngừng trong hai thế kỉ XIV và
XV. Tuy nhiên, cho tới đầu thế kỉ XVI thì quan hệ của Nhật Bản ở Châu Á
chủ yếu giới hạn với hai nƣớc láng giềng Đông Á là Trung Quốc, Triều Tiên.
13
Thời gian này, nhà Minh thực hiện lệnh “hải cấm”, quan hệ Nhật Bản -
Trung Quốc cùng những mối quan hệ giao lƣu buôn bán chấm dứt. Bên cạnh
đó, Nhật Bản lại có nhu cầu lớn về tơ, lụa và những mặt hàng thiết yếu cho
nhu cầu sinh hoạt và phát triển kinh tế. Bởi vậy, các thƣơng gia Nhật đã bắt
đầu hành trình tới Đông Nam Á, tìm cách mở rộng và đẩy mạnh quan hệ
thông thƣơng với các nƣớc, trong đó có Đàng Trong (Việt Nam), nơi họ có
thể mua đƣợc lụa thô và các sản phẩm Trung Hoa.
Yếu tố khác là sự gia tăng khối lƣợng của sản phẩm vàng bạc, đồng ở
Nhật Bản từ giữa thế kỉ XVI. Sản phẩm này là kết quả của rất nhiều lãnh chúa
phong kiến ở Nhật Bản nhằm khai thác hầm mỏ tại các thái ấp của họ nhằm
củng cố quyền lực quân sự, kinh tế trong lãnh địa của họ. Nguồn bạc, đồng
dồi dào chính là nguồn quỹ quan trọng nhất đối với ngoại thƣơng Nhật Bản.
Quan hệ thƣơng mại với nƣớc ngoài ngày càng đƣợc tăng cƣờng.
Một phần khác, do vị trí quốc đảo của mình, nền kinh tế Nhật Bản không
thể phát triển nếu không có những mối quan hệ lớn và nhiều mặt từ bên ngoài.
Vì vậy, ngoại thƣơng đƣợc quan tâm, “tới thế kỉ XIV - XV thì ngoại thương đã là
một nhân tố mạnh mẽ phi thường trong cuộc sống kinh tế của Nhật Bản” [49,
tr.19].
1.1.3. Hoàn cảnh lịch sử Đàng Trong
Năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ vùng đất Thuận Hoá và
đƣợc triều đình nhà Lê chấp thuận, mở ra một trang sử mới của dân tộc. Là
ngƣời đại diện cho xu thế phát triển của đất nƣớc, Nguyễn Hoàng quyết chí
vào Nam dựng nghiệp với hàng loạt những dự định lớn lao. Ý đồ cát cứ, xây

dựng một giang sơn riêng của Nguyễn Hoàng đƣợc thể hiện trong lời căn dặn
con cháu của ông trƣớc khi mất “Đất Thuận - Quảng phía Bắc có núi Ngang,
sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân, núi Đá Bi vững bền, núi sẵn
vàng sắt, biển có cá muối thật là đất dụng võ của người anh hùng, nếu biết
14
dạy dân chống lại họ Trịnh thì đủ xây dựng lực lượng muôn đời. Nếu không
địch được thì cố giữ đất đai mà chờ cơ hội chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”
[39, tr. 344]. Lên nối nghiệp cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã tổ chức lại chính
quyền, tách dần khỏi sự phụ thuộc vào chúa Trịnh dẫn đến cuộc chiến tranh
Trịnh - Nguyễn, kết quả là đất nƣớc bị chia cắt thành Đàng Trong, Đàng
Ngoài, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt. Từ đây về sau, các chúa Nguyễn
dồn sức chăm lo phát triển kinh tế, tăng cƣờng tiềm lực về mọi mặt chuẩn bị
những bƣớc đi xa hơn cho các thế hệ con cháu và lãnh thổ Đàng Trong cũng
không ngừng đƣợc mở rộng bao gồm toàn bộ vùng đất từ sông Gianh trở vào
phía Nam nƣớc ta hiện nay.
Đàng Trong là một vùng đất mới, các chúa Nguyễn đã khuyến khích
khai khẩn đất đai, chăm lo đời sống nhân dân, giảm nhẹ sƣu thuế tạo nên cảnh
trù phú của vùng đất Đàng Trong.
Nông nghiệp: Từ thế kỷ XVI, nông nghiệp ở Thuận Quảng đã rất phát
triển. Đầu thế kỷ XVII, Đàng Trong đã trở thành mảnh đất màu mỡ và sinh
lợi, đến nỗi hàng năm dân có thể thu hoạch 3 vụ lúa, thóc gạo dồi dào tới mức
“không ai cần lao động thêm để kiếm sống quanh năm có nhiều hoa quả,
những thứ lạ như dưa bở, dưa chuột, dưa hấu, mít, sầu riêng, dừa, trầu cau,
bắp cải, thuốc lá, mía Đồng ruộng của họ đầy những gà vịt nhà, gà rừng”
[39, tr.363]. Ngoài ra, vùng đất Đàng Trong còn trồng đƣợc nhiều loại ngũ
cốc khác nhƣ ngô, kê, đậu Sách vở còn ghi chép lại “trên cánh đồng Đàng
Trong nhân dân đã cấy đến 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ” [39, tr.363].
Nông nghiệp Đàng Trong thời các chúa Nguyễn trị vì rất phát triển, năng suất
lúa cao “ruộng ở các huyện Tân Bình, Phúc Long, Quy An, Quy Hóa dễ cày
cấy, cấy một hộc thóc thì gặt được 100 hộc thóc, có nơi cấy một hộc thóc còn

gặt được 300 hộc”[39, tr.363]. Nhƣ vậy, các chúa Nguyễn đã có công khai
phá vùng đất Đàng Trong, mở rộng diện tích canh tác, chăm lo phát triển
15
nông nghiệp nên xóm làng ngày càng đông đúc, đời sống nhân dân nhanh
chóng ổn định, no đủ.
Lâm nghiệp: Gỗ quý là mặt hàng xuất khẩu tại chỗ chủ yếu“Đàng
Trong có gỗ hồng mộc, gỗ lim, gỗ sapan, quế, kỳ nam, gỗ đàn hương, và nói
chung mọi thứ gỗ tốt bạn có thể tìm thấy ở Ấn Độ” [43, tr.139]. Đặc biệt là tổ
yến, đây là một loại thức ăn bổ dƣỡng dành cho vua chúa đƣơng thời, rất sẵn
có ở vùng đất Đàng Trong.
Thủ công nghiệp: Các chúa Nguyễn cũng khuyến khích phát triển thủ
công, khai mỏ. Chúa Nguyễn cho lập nhiều xƣởng đóng thuyền ở các nơi, cho
đặt Nhà đồ chuyên chế tạo vũ khí, làm đồ trang sức, đồ gỗ phục vụ các Chúa,
đặt ty Nội pháo tƣợng phục vụ việc đúc súng. Thế kỷ XVII, dân Việt đã cứu
sống một giáo sỹ Bồ Đào Nha là Giaođa Crudo bị đắm thuyền, đƣợc sự giúp
đỡ của giáo sỹ này, chúa Nguyễn đã đúc đƣợc súng lớn theo kiểu phƣơng Tây
đƣơng thời. Ngoài ra, các ngành thủ công nghiệp tiêu biểu của Đàng Trong
cũng phát triển nhƣ: vải lụa, làm đƣờng (Quảng Nam, Quảng Ngãi), làm giấy
(Đốc Sở - Thừa Thiên, Đại Phú - Quảng Bình), rèn sắt (Hiền Lƣơng, Phú Bài
- Thừa Thiên), làm gốm sứ và khai thác mỏ nhƣ khai thác sắt (Phú Bài -
Thừa Thiên, Bố Chính - Quảng Bình), khai thác vàng [39, tr.368-371]. Đời
sống nhân dân ổn định, thủ công nghiệp phát triển là một trong những nhân tố
góp phần làm nên sự hƣng thịnh của thƣơng nghiệp Đàng Trong.
Thị trƣờng xuất khẩu và đòi hỏi của nền ngoại thƣơng cũng đã thúc đẩy
quá trình chuyên biệt hóa trong các nghề thủ công nghiệp. Kỹ thuật làm
đƣờng đã rất phát triển, có một hệ thống sản xuất đƣờng theo hộ đƣợc chuyên
biệt hóa với các hộ chuyên trồng mía, chuyên ép mía, chuyên nấu nƣớc mía
thành đƣờng trắng. Nghề làm đƣờng gia tăng đã kéo theo sự ra đời và phát
triển của nghề sản xuất chum vại để đựng nƣớc mía theo yêu cầu của nghề
làm đƣờng. Nhƣ vậy, tính chất của nền kinh tế Đàng Trong thời các chúa

16
Nguyễn không mang đặc điểm của một nền kinh tế “tự cấp, tự túc” - nền kinh
tế tiêu biểu của Đông Nam Á xƣa mà nền kinh tế Đàng Trong lúc này đã có
sự hƣớng về thị trƣờng thƣơng mại, đáp ứng nhu cầu trao đổi chứ không chỉ
dừng lại ở mức độ trao đổi trong nƣớc.
Thương nghiệp: Thời kỳ các chúa Nguyễn, hệ thống các chợ phát triển,
một số chợ lớn nhƣ “chợ Vị Hoàng ở Sơn Nam, Nông Nại ở Biên Hòa, Bến
Nghé ở Gia Định, thị trấn Hà Tiên ” [39, tr.372]. Ở Đàng Trong, dân buôn
thƣờng chở gạo thóc từ Gia Định ra bán cho dân Thuận Quảng và mua các
hàng từ phƣơng Bắc chở vào. Nội thƣơng phát triển là cơ sở cho sự ra đời và
trao đổi của hoạt động ngoại thƣơng.
Các luồng trao đổi ngoại thƣơng chính của Đàng Trong: Đàng Trong -
Nhật Bản; Đàng Trong - Trung Quốc; Đàng Trong - Xiêm; Đàng Trong - Cao
Miên; Đàng Trong - Bồ Đào Nha; Đàng Trong - Hà Lan; Trung Quốc - Đàng -
Trong - Nhật Bản Đàng Trong đƣợc biết đến nhƣ một nơi trao đổi hàng hóa.
Những mặt hàng thông dụng đƣợc bán ở Đàng Trong gồm“51 mặt hàng: Tơ,
vải bông, các vị thuốc, giấy vàng bạc, hương vòng, kim tuyến, ngân tuyến, các
thứ phẩm, y phục, giày tốt, kính, quạt giấy, bút mực, kim, các thứ bàn ghế, các
thứ đồ đồng, đồ bạc, các thứ đồ sành, chè, đồ ăn khô, đồ ngọt” [43, tr.140].
Ngay từ đầu, Nguyễn Hoàng đã nhận thức rõ vùng đất Thuận - Quảng
là một trung tâm kinh tế quan trọng của Đàng Trong, có tài nguyên là nguồn
lâm thổ sản phong phú, có những cảng biển nổi tiếng đã từng thu hút thƣơng
khách nƣớc ngoài nhiều thế kỷ trƣớc đó. Đối với Nguyễn Hoàng, việc tận
dụng và phát huy những tiềm năng của xứ Thuận - Quảng để nó có khả năng
đảm bảo cho một tƣơng lai chính trị mà thuở ra đi ông đã bắt đầu toan tính là
những việc làm tiên quyết. Nguyễn Hoàng và sau đó là các chúa Nguyễn kế vị
ông đã xác lập một chiến lƣợc phát triển kinh tế mới với những bƣớc đi và
hình thức khác biệt nhằm hòa nhập mạnh mẽ hơn với những bƣớc chuyển
biến chung của khu vực. Cách thức lựa chọn con đƣờng phát triển đó đã đƣa
17

Đàng Trong hội nhập với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia
Đông Nam Á lúc bấy giờ là hƣớng ra biển. Phát triển ngoại thƣơng đã trở
thành một chiến lƣợc kinh tế liên quan đến sự sống còn của thể chế mà các
chúa Nguyễn đã dày công tạo dựng ở Đàng Trong.
Với chủ trƣơng trọng thƣơng, các chính sách khuyến khích kinh tế đối
ngoại của các chúa Nguyễn đã có tác dụng cổ vũ ngoại thƣơng ở Đàng Trong.
“Vào thế kỉ XVI - XVIII, Đàng Trong đã có quan hệ buôn bán với nhiều quốc
gia, trong đó có những quốc gia có nền kinh tế hàng hóa phát triển thuộc loại
bậc nhất của thế giới. Hầu hết các cường quốc kinh tế lúc bấy giờ, cả ở Châu
Á lẫn châu Âu đền đến và thiết lập quan hệ giao thương với chính quyền
Đàng Trong” [50, tr.102].
Bên cạnh đó, thế kỉ XVII, Đại Việt đang diễn ra cuộc chiến tranh giữa
hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn (họ Trịnh ở Đàng Ngoài, họ Nguyễn
ở Đàng Trong) đƣợc xem nhƣ một trong những nhân tố kích thích sự nỗ lực
của chính quyền hai bên tìm mọi cách để phát triển hơn nữa quan hệ giao
thƣơng với các nƣớc bên ngoài nhằm tranh thủ sức mạnh quân sự, tăng cƣờng
tiềm lực kinh tế của mình. Ngƣợc lại, các nƣớc bên ngoài cũng lợi dụng tình
hình chiến tranh để bán vũ khí và các mặt hàng cần thiết nhằm tăng nhanh lợi
nhuận. Xuất phát từ yêu cầu của cuộc chiến tranh mà các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong cần phải mở rộng quan hệ buôn bán nhằm xây dựng một nền
kinh tế hàng hóa vững mạnh để đối trọng với sức mạnh kinh tế Đàng Ngoài
của các chúa Trịnh. Mặt khác, chúa Nguyễn cũng cần đến các thƣơng nhân
nƣớc ngoài để mua vũ khí phục vụ cho cuộc chiến tranh với tập đoàn chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài.
Sách sử ghi chép về chúa Tiên Nguyễn Hoàng “Chúa ở trấn hơn 10
năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc
nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến
18
nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” [18, tr.20]. Cuối thế kỉ XVI, đầu thế
kỉ XVII, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, nền kinh tế Thuận Quảng có những

bƣớc phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển kinh tế đó, đặc biệt là sự phát
triển của kinh tế hàng hóa cùng với chính sách mở của của chính quyền chúa
Nguyễn là cơ sở và tác nhân bên trong rất quan trọng dẫn đến sự hình thành
các đô thị và thƣơng cảng, trong đó, Hội An với vị trí và điều kiện thuận lợi
của nó, sớm trở thành trung tâm kinh tế mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất.
Bên cạnh đó, Đàng Trong có vị trí địa lý thuận lợi, tiếp giáp biển, nằm
trên con đƣờng giao lƣu buôn bán đông - tây, các cảng biển của Đàng Trong
là nơi dừng chân bắt buộc của các thƣơng nhân trên con đƣờng tơ lụa trên
biển. Chính nhân tố này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển thƣơng
nghiệp của Đàng Trong thời các chúa Nguyễn.
1.2. QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ĐẠI VIỆT - NHẬT BẢN TRƢỚC NĂM
1558
Các nguồn thƣ tịch cổ, kết quả nghiên cứu, tƣ liệu lịch sử và khảo cổ
học đã ghi nhận sự giao lƣu Việt - Nhật đã có từ thời rất xa xƣa.
Di vật và tài liệu khảo cổ thời đại đồ đá mới ở Nhật Bản đã tìm thấy
những công cụ nhƣ rìu, thạch, bôn giống với văn hóa Hòa Bình và văn hóa
Bắc Sơn “Từ thời sơ kỳ đá mới ở miền Trung nước Nhật thể hiện những mối
quan hệ với nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn ở Việt Nam” [9, tr. 445].
Theo thƣ tịch cổ và nguồn tài liệu cổ của Việt Nam và Nhật Bản thì mối
giao lƣu trực tiếp giữa hai nƣớc đã có từ thời kì Nara (710 - 794). Một vị cao
tăng Phật Triết (Buttetsu), ở Lâm Ấp đã tới Nhật Bản vào năm 736. Buttetsu đã
quảng bá đạo Phật Đại Thừa, phổ biến âm nhạc dân tộc của nƣớc mình.
Ngƣời Nhật Bản đầu tiên đến Việt Nam vào thế kỉ VIII. Ghi chép về sự
kiện này, Lê Tắc, đời nhà Trần, tác giả An Nam chí lược (1333) cho biết:
19
Triều Hành, ngƣời Nhật Bản, trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên
(713-741), đem hóa phẩm đến triều kiến, hâm mộ phong hóa Trung
Hoa, nhân lƣu lại, đổi tên là Triều Hoành, nhiều lần sang sứ Trung
Quốc. Năm Vĩnh Thái thứ hai, Triều Hoành làm An nam đô hộ. Thời
ấy có quân Mán xâm phạm cảnh giới hai châu Đức Hóa và Long Vũ,

vua xuống chiếu, khiến Triều Hoành qua dẹp yên [44, tr.164].
Vùng đất Đàng Trong có rất nhiều điều kiện thuận lợi nhƣ đất đai, các
loại tài nguyên, khí hậu phục vụ cho sinh hoạt, cuộc sống của con ngƣời nơi
đây. Vì vậy, dân cƣ ở đây không ƣa và cũng không có khuynh hƣớng đi xa
đến các nơi khác để buôn bán. Cƣ dân cũng nhƣ không bao giờ họ ra khơi quá
xa, đến mức không còn trông thấy bờ biển và lãnh thổ của Tổ quốc của mình.
Bên cạnh đó, họ rất dễ dàng cho ngƣời ngoại quốc vào hải cảng của mình,
không chỉ là những thƣơng nhân từ những nƣớc và những tỉnh lân cận, mà cả
từ những nơi rất xa.
Ngƣời ngoại quốc trong đó có ngƣời Nhật, bị cuốn hút bởi đất đai phì
nhiêu và những của cảivùng đất Đàng Trong. Không những ngƣời vùng Đàng
Ngoài, Campuchia và Phúc Kiến và những vùng lân cận đến buôn bán, mà
còn có các thƣơng gia đến từ những miền đất xa xôi nhƣ Trung Quốc, Macao,
Nhật Bản, Malina, Malacca Tất cả đều đem bạc đến xứ Đàng Trong và đem
hàng hóa xứ này về.
Ngƣời Trung Quốc và ngƣời Nhật là những ngƣời làm thƣơng mại
chính yếu ở xứ Đàng Trong. “Ở Đàng Trong có một phiên chợ kéo dài tới bốn
tháng trời, người Nhật chở trên tàu của họ giá trị bằng bốn hay năm triệu
bạc, rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều hàng hóa khác từ xứ Đàng Trong mang về
nước. Chúa Nguyễn thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán này, bằng
các thứ thuế hàng hóa và thuế hải khẩu, dân cả nước cũng thu được nhiều
mối lợi không tả hết” [49, tr.57].

×