TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ KIM NÊN
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
ĐÂY THÔN VĨ DẠ (HÀN MẶC TỬ)
GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học
Th.S NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
Hà Nội – 2014
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên K36B – Sp Ngữ văn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới
Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi có
cơ hội học tập, rèn luyện và có cơ hội được thực hành nghiên cứu khoa học tại
trường.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Phương pháp
dạy học Ngữ văn cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình
giảng dạy. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Nguyễn
Thị Mai Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi
những kinh nghiệm khoa học quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng
thời hạn.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người
thân, bạn bè đã động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa
luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Kim Nên
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên K36B – Sp Ngữ văn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hương, chưa được công bố
trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày 28 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Kim Nên
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên K36B – Sp Ngữ văn
DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Kí hiệu Ý nghĩa
THPT Trung học phổ thông
HS Học sinh
GV Giáo viên
GS Giáo sư
TS Tiến sĩ
SGK Sách giáo khoa
Nxb GD Nhà xuất bản giáo dục
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên K36B – Sp Ngữ văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài. 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Đối tượng nghiên cứu 3
6. Phạm vi nghiên cứu 4
7. Phương pháp nghiên cứu 4
8. Dự kiến đóng góp 4
9. Bố cục khóa luận 4
NỘI DUNG
Chương 1: Đọc – hiểu và đọc hiểu văn học gắn với đời sống thực tiễn 5
1.1. Cơ sở lí luận 5
1.1.1. Khái quát 5
1.1.2. Đặc điểm của văn bản trữ tình 8
1.1.2.1. Khái niệm văn bản trữ tình 8
1.1.2.2. Đặc trưng của văn bản trữ tình 9
1.2. Cơ sở thực tiễn 15
1.2.1. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
trong trường THPT 17
1.2.2. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn 19
Chương 2: Các biện pháp dạy học đọc – hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ
Dạ” (Hàn Mặc Tử) gắn liền với đời sống thực tiễn 21
2.1. Biện pháp chung 21
2.1.1. Đọc tiếp cận văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) 21
2.1.2. Tái hiện hình tượng nhân vật trữ tình 22
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên K36B – Sp Ngữ văn
2.1.3. Phân tích, cắt nghĩa văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) 23
2.1.4. Đánh giá cảm xúc nhân vật trữ tình 25
2.2. Biện pháp dạy học đọc – hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn
Mặc Tử) gắn liền với đời sống thực tiễn 25
2.2.1. Định hướng dạy văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn 25
2.2.2. Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ”
(Hàn Mặc Tử) 39
2.2.2.1. Khổ 1 (Bài học về tình yêu, trách nhiệm và bổn phận với
quê hương đất nước)
2.2.2.2. Khổ 2 (Một tấm gương vượt qua bệnh tật để sống với
những khát khao cháy bỏng của mình) 41
2.2.2.3. Khổ 3 (Khát khao cháy bỏng tình yêu đời, yêu người) 42
Chương 3: Giáo án thực nghiệm 45
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 1 K36B – Sp Ngữ văn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề giảng dạy Ngữ văn có một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhà
trường THPT. Bởi văn học là tri thức của đời sống. Tiếp nhận vốn tri thức có
khả năng đem lại cho con người vốn hiểu biết sâu rộng trong cuộc sống. Tuy
nhiên, vấn đề dạy và học Ngữ văn trong trường THPT hiện nay vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu trên. Hầu hết học sinh THPT hiện nay không thích học văn
bởi vì các em đã được định hướng ngay từ đầu là thi khối A, B. Bên cạnh đó
còn do học sinh không xác định được tâm trạng của nhân vật trữ tình trong
văn bản trữ tình hay trầm trọng hơn giáo viên chưa có phương pháp dạy học
phù hợp nên học sinh chưa hứng thú học Ngữ văn.
Đối với những văn bản văn chương thuộc thể loại trữ tình, học sinh
quan niệm là chúng lãng mạn, xa rời với hiện thực cuộc sống và cho rằng đó
chỉ là những cảm nhận của giới văn nghệ sĩ nên tiếp nhận văn bản trữ tình
theo hướng “Học cho xong”.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến tình trạng học sinh vô cảm với văn
học nói chung và văn bản trữ tình nói riêng. Đã đến lúc chúng ta phải tích cực
đổi mới phương pháp dạy học văn bản trữ tình trong trường THPT. Ý thức
được vấn đề trên ta có cái nhìn toàn diện về xác định vai trò của bộ môn Ngữ
văn với thực tế đời sống. Đó là cách chúng ta sẽ đem lại cho mỗi học sinh
hành trang tinh thần quý giá, một đời sống tình cảm phong phú để các em học
làm người, để hiểu cuộc đời, từ đó biết yêu cuộc đời, yêu con người và để
sống có ý nghĩa hơn cho bản thân, gia đình và xã hội.
Đáp ứng nhu cầu dạy – học văn trên tinh thần đổi mới dạy và học chúng
tôi chọn đề tài: “Đọc – hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) gắn
liền với đời sống thực tiễn”, với mong muốn đi tiếp con đường mà các nhà
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 2 K36B – Sp Ngữ văn
giáo dục quan tâm trong việc chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật. Nghiên cứu này
chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc dạy học, với hi vọng tác phẩm
văn học có ý nghĩa thiết thực với học sinh trong trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Bàn về vấn đề phương pháp dạy học và dạy học Văn có từ rất sớm, xuất
phát đầu tiên ở các nước phương Tây. Xuất hiện với một số cuốn sách
như:“Phương pháp dạy học Văn”của IA Rex. Trình bày phương pháp học một
cách rất cụ thể. Nhấn mạnh vai trò đọc sáng tạo. Coi đó là phương pháp đặc
thù nhằm phát triển năng lực cảm thụ văn học trên phương diện nghệ thuật
thông qua đọc – hiểu.
Trong tác phẩm “Văn học và nhân cách” GS Nguyễn Thanh Hùng cũng
nhấn mạnh đến sự phát triển của quá trình đọc được hoạt động liên tưởng,
tưởng tượng và giới thiệu nghệ thuật.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo, chuyên đề, chuyên luận như: Báo văn
nghệ (14.2.1988) “Môn văn như thực trạng và giải pháp” GS Trần Đình Sử.
Đề cập tới ba mục tiêu của việc dạy văn, rèn luyện khả năng đọc hiểu, bám sát
tác phẩm không suy đoán tùy tiện.
Trong bài viết: “Dạy đọc hiểu là nền tảng văn hóa cho người đọc” tác
giả chỉ ra việc đọc hiểu sẽ giúp hình thành và củng cố, phát triển năng lực,
nắm vững và sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo. Từ bình diện văn hóa
ấy, bài viết xác định: Đọc là một hoạt động văn hóa có ý nghĩa cơ bản cho sự
phát triển của nhân cách.
Tất cả các nghiên cứu của văn chương cho rằng đọc là hoạt động đầu
tiên của tiếp nhận văn chương. Các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò của
đọc – hiểu và giảng dạy văn bản trữ tình trong nhà trường THPT. Dựa vào
nghiên cứu trên trong khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ chức: “Đọc – hiểu
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 3 K36B – Sp Ngữ văn
văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) trong nhà trường THPT gắn liền
với đời sống thực tiễn”.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích:
Xác lập các hoạt động các bước dạy văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn
Mặc Tử) theo hướng đọc – hiểu.
Làm rõ các vấn đề xung quanh dạy văn gắn với đời sống thực tiễn.
Khóa luận sẽ đi nghiên cứu đặc điểm của thể loại trữ tình góp phần xây dựng
quy trình dạy văn gắn liền với đời sống.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học thể loại trữ tình ở trường
THPT theo hướng dạy văn là dạy học sinh biết cách làm người – con người
không chỉ có tri thức mà còn có khả năng thích ứng cao, biết giao tiếp ứng xử
trong đời sống.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận thực hiện các nghiệm vụ sau:
Tìm hiểu cơ sở của dạy văn với đời sống và quy trình dạy học đọc –
hiểu văn bản trữ tình ở trường THPT gắn với đời sống thực tiễn.
Vận dụng những hiểu biết trên để đọc – hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ”
của Hàn Mặc Tử (SGK Ngữ văn lớp 11 tập 2 Nxb GD) trong trường THPT
gắn liền với đời sống thực tiễn.
5. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu:
Phương pháp dạy học ngữ văn.
Lí thuyết đọc – hiểu, đọc – hiểu tác phẩm gắn liền với đời sống thực tiễn.
Vận dụng và hướng dẫn HS biết cách đọc – hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ
Dạ” của Hàn Mặc Tử (SGK Ngữ văn lớp 11 tập 2 Nxb GD) trong trường
THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 4 K36B – Sp Ngữ văn
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể loại trữ
tình mà cụ thể là các đặc trưng của thơ trữ tình. Đặc biệt, đi sâu vào hoạt động
đọc – hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) trong trường THPT gắn
liền với đời sống thực tiễn.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lý thuyết: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
so sánh đối chiếu.
Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng lý thuyết đọc – hiểu vào thiết kế
bài giảng văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (SGK Ngữ văn lớp 11
tập 2 Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
8. Dự kiến đóng góp
Định hướng việc dạy học văn bản trữ tình trong trường THPT gắn liền
với đời sống thực tiễn.
Chúng tôi muốn góp phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học.
Đồng thời, bản thân có dịp nâng cao kiến thức, trau dồi kinh nghiệm phục vụ
sự nghiệp trong tương lai.
Bên cạnh đó, khóa luận góp phần hình thành và phát triển khả năng tìm
tòi và nghiên cứu khoa học của người viết.
9. Bố cục khóa luận
Khóa luận gồm 4 phần:
- Mở đầu
- Nội dung
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 5 K36B – Sp Ngữ văn
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái quát
Trong thời đại cơ sở thông tin bùng nổ như hiện nay con người có rất
nhiều cách để tiếp nhận một tác phẩm văn học. Trong đó đọc - hiểu là một
phương pháp đặc trưng giúp bạn chiếm lĩnh một tác phẩm văn học. Bởi văn
chương là nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy để tiếp nhận một tác phẩm văn học thì
không có cách nào khác là đọc – hiểu.
Theo SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10: Đọc là “hoạt động nắm bắt ý
nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý
nghĩa từ tín hiệu âm thanh”. Đó là hoạt động lấy văn bản viết, in, khắc làm
đối tượng khác với việc đọc của người thoát nạn mùững chữ là biết đọc chữ.
Đọc ở đây đòi hỏi hiểu nội dung từ ngữ, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có
thể sử dụng văn bản đó vào đời sống cá nhân và xã hộị.
Hiểu là nắm được thông tin và ý nghĩa của văn bản, giải thích, biểu đạt
được cái hay và ý tưởng của văn bản. Hiểu là ngộ ra, nhận ra nh chân lý đời
sống, những triết lý nhân sinh được viết và gửi gắm trong văn bản. Đồng thời
cũng có thể là sự bổ sung, tiếp thêm cho văn bản những ý nghĩa, giá trị mới.
Theo GS. TS Nguyễn Thanh Hùng thì “Đọc – hiểu là đọc cái chủ quan
của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào
trang sách. Đọc – hiểu không chỉ là tái tạo âm thanh, từ và chữ viết mà còn là
quá trình nhuần thấm tín hiệu nghệ thuật chưa mã hóa đồng thời với việc huy
động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng
thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của văn chương. Đọc – hiểu là đón đầu những gì
đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi quay về với những gì đã đọc
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 6 K36B – Sp Ngữ văn
để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo
trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng”. [5, tr.5]
Trong cuốn “Hiểu văn dạy văn” GS. TS Nguyễn Thanh Hùng khẳng
định: Đọc – hiểu không những là những hình thức tiếp nhận nội dung, vẻ đẹp
thẩm mĩ của văn bản mà đó còn là hoạt động tâm sinh lí, có tính trực giác và
khái quát. Nó hàm chứa trong đó kinh nghiệm cá nhân của bạn đọc. Đây là
mối quan hệ giữa chủ thể sáng tác và chủ thể tiếp nhận, tạo ra quá trình giao
tiếp ngầm giữa nhà văn và bạn đọc. Người đọc chính là người đồng sáng tạo
trong văn chương.
Còn theo GS Nguyễn Thái Hòa: Đọc – hiểu là một phương pháp “Nói
một cách khái quát dù đơn giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử
dụng linh hoạt một thủ pháp, thao tác bằng cơ quan thị giác và thính giác để
tiếp nhận và phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn
bản”. GS đã chỉ ra đọc – hiểu là một hành vi ngôn ngữ và coi đó là một thao
tác dùng các cơ thị giác và thính giác. Người đọc đi tìm hiểu nội dung và nghệ
thuật của văn bản, không chỉ vậy đọc – hiểu còn là quá trình ghi nhớ nội dung
thông tin và cấu trúc văn bản.
Sách giáo viên Ngữ Văn 6 đã nêu ra khái niệm đầu tiên về đọc – hiểu,
về phương pháp đọc – hiểu “Cách làm chủ yếu vẫn là bằng hình thức nêu câu
hỏi hướng dẫn nhưng nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt động
của học sinh, nhằm tìm hiểu văn bản theo 3 hướng sau: Đọc – hiểu; suy nghĩ
– vận dụng; liên tưởng – tích lũy các phương pháp dạy học hiện đại”.
Từ những ý kiến và hiểu biết trên, chúng tôi đi đến xác lập khái niệm về
phương pháp đọc – hiểu trên tinh thần tham khảo và học hỏi:
Theo nghĩa rộng: Đọc – hiểu là thuật ngữ chỉ chung cho phương thức và
mục đích của việc lĩnh hội tri thức và nắm bắt thông tin. Đó là hoạt động nhận
thức nói chung thông qua con đường giải mã văn bản ngôn từ.
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 7 K36B – Sp Ngữ văn
Theo nghĩa hẹp: Đọc – hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngôn
từ, hưởng thụ thẩm mĩ của con người. Nó bao gồm nhiều hành động thể chất
và thao tác tư duy (tưởng tượng, liên tưởng, phán đoán…) để đi đến đích là
cảm hiểu và thể nghiệm được nội dung, ý nghĩa của văn bản.
Như vậy, đọc – hiểu không đơn giản là một kĩ năng như nhiều người đã
quan niệm mà nó chính là một con đường nhằm thu nhận kiến thức.
Mô hình chung cho hoạt động đọc văn: Biết – nhớ - hiểu – vận dụng; từ
những năng lực có thể rút ra trong quá trình đọc – hiểu văn bản văn học; năng
lực cảm nhận, lí giải, thưởng thức, ghi nhớ. Chúng ta có thể bước đầu xác
định thao tác chính sử dụng trong phương pháp đọc – hiểu gồm các bước:
Bước 1: Cần tạo tâm thế tiêp nhận văn bản văn học cho học sinh tức thu
hút sự chú ý của học sinh vào bài học bằng nhiều cách: Lời vào bài hay, ấn
tượng, tổ chức một cuộc thi nhỏ, ứng dụng các phương tiện kĩ thuật gây hứng
thú cho học sinh.
Bước 2: Tri giác ngôn ngữ nghệ thuật hay chính là giúp học sinh đọc –
hiểu khái quát văn bản.
Đọc hiểu khái quát văn bản bao gồm đọc văn bản, tìm hiểu xuất xứ, thể
loại, bố cục văn bản, tìm hiểu chú thích.
Bước 3: Tái hiện hình tượng văn học.
Để tái hiện hình tượng văn bản văn học thì học sinh cần đọc kĩ văn bản
văn học tức đọc nhiều lần để có khả năng ghi nhớ kết cấu văn bản, các chi tiết
biến cố cơ bản. Có thể tái hiện hình tượng văn học bằng nhiều cách như: sơ
đồ hóa những diễn biến trong truyện, mối quan hệ của nhân vật; tổ chức cho
học sinh thực hiện các bài tập tái hiện, kết nối các sự việc cho đúng nội dung
văn bản muốn truyền tải (có thể trực quan hóa bằng tranh, ảnh, hình tượng
phù hợp với từng kiểu loại văn bản).
Bước 4: Phân tích, cắt nghĩa, khái quát hóa ý nghĩa nghệ thuật bằng
phương pháp đàm thoại, diễn giảng.
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 8 K36B – Sp Ngữ văn
Học sinh đọc kĩ văn bản, khảo sát tất cả các yếu tố tạo thành văn bản,
lựa chọn một số yếu tố được xem là cơ bản quan trọng có lượng tư tưởng, chủ
đề cao để khảo sát kĩ vì những yếu tố đó tập trung tài năng tư tưởng của tác
giả và làm nên chính giá trị của tác phẩm.
Bước 5: Tự bộ lộ nhận thức hay chính là bước đánh giá liên hệ thực tiễn.
Người đọc đưa ra ý kiến của mình đối với một văn bản có 2 cấp độ:
Thứ nhất: Đánh giá khách quan, đánh giá dựa trên những căn cứ qua
nội dung văn bản vừa phân tích để có nhận xét thỏa đáng.
Thứ 2: Bộc lộ thái độ của cá nhân mang màu sắc chủ quan thể hiện
quan điểm của người đọc: Yêu, ghét, phản đối hay đồng tình…
Biện pháp thực hiện: Giúp học sinh liên hệ thực tế: Yêu cầu học sinh
nhập vai để học sinh bộc lộ bản thân; yêu cầu học sinh viết bài luận đánh giá
tác phẩm hoặc viết bài thu hoạch cá nhân sau khi học xong.
Trên đây là những bước cơ bản của việc đọc – hiểu một tác phẩm văn
chương trong dạy học. Xung quanh đó còn khá nhiều ý kiến khác nhau về vấn
đề này. Trong dạy học, người giáo viên hoàn toàn có thể vận dụng linh hoạt
các bước trên, kết hợp với những phương pháp của mình để giờ học đạt hiệu
quả cao nhất.
1.1.2. Đặc điểm của văn bản trữ tình
1.1.2.1. Khái niệm văn bản trữ tình
Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và
phát triển tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học thể
hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về các loại đặc điểm của
hiện tượng đời sống và tính chất của mối quan hệ giữa nhà văn và các loại
hiện tượng đời sống ấy.
Mỗi thể loại văn học lại có những đặc điểm riêng về nội dung và hình
thức nhằm đáp ứng và phản ánh phù hợp với hiện tượng đời sống, quan điểm
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 9 K36B – Sp Ngữ văn
tư tưởng mà văn học muốn gửi gắm, phản ánh. Chính vì thế, sự phân chia thể
loại là một yêu cầu không thể thiếu. Nhìn chung, đến nay còn rất nhiều sự
tranh luận xung quanh vấn đề phân chia thể loại nhưng với giới hạn của đề tài
về vấn đề dạy học đọc – hiểu văn học theo đặc trưng thể loại gắn liền với đời
sống thực tiễn nên bài viết này chỉ đi sâu vào thể loại trữ tình mà cụ thể là văn
bản trữ tình.
Về nội dung, có thể thấy những tác phẩm trữ tình thường đi sâu vào
khám phá thế giới nội tâm, cảm xúc bên trong – những cảm xúc rất đa dạng,
mơ hồ. Đó có thể là niềm vui, nỗi buồn, sự chia li, hi vọng hay đau đớn…
Đặc biệt, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm trữ tình thường
bộc lộ một cách trực tiếp, có thể thiên về tình cảm cá nhân, có khi suy tư về
nhân tình thế thái, về số phận con người, về thăng trầm xã hội, về cảm xúc
thời đại…
Về hình thức, tác phẩm trữ tình thường có hình thức ngắn gọn mang
tính chất tâm tình, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ mang tính cách điệu, hàm súc, tư
tưởng được mã hóa vào những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa.
Các tác phẩm trữ tình gồm cả tùy bút, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc
nhưng tiêu biểu nhất là thơ trữ tình. Đặc điểm cơ bản của tác phẩm trữ tình là
thổ lộ ý nghĩ, cảm xúc trước thế giới, trong đó tình cảm là mạch phát triển
then chốt của tác phẩm nên biểu hiện tập trung nhất của thể loại trữ tình là thơ
trữ tình. Hiểu một cách đơn giản theo nghĩa hẹp thì văn bản trữ tình là những
văn bản thơ trữ tình có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện
những ý nghĩa, cảm xúc, tâm trạng riêng của người nghệ sỹ trước cuộc sống.
1.1.2.2. Đặc trưng của văn bản trữ tình
a. Lấy việc bộc lộ nội tâm con người làm mục đích, nội dung biểu đạt
Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm nhưng ở tác
phẩm trữ tình lại có cách thể hiện tình cảm riêng biệt. Ở tác phẩm tự sự, tác
giả xây dựng bức tranh về đời sống trong đó các nhân vật thường có đường đi
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 10 K36B – Sp Ngữ văn
và số phận của chúng. Bằng những đối thoại và độc thoại, tác giả kịch thể
hiện tính cách và hành động con người qua những mâu thuẫn xung đột. Ở tác
phẩm trữ tình thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩa
được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu:
“Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng…”
(Ca dao)
Bài ca dao giống như một cái cớ để chàng trai bày tỏ tình cảm với cô
gái. Bằng tài hoa nghệ thuật, người nghệ sĩ dân gian đã giữ lại cho chúng ta
những tình cảm lành mạnh, trong sáng, tế nhị trong cách tỏ tình của những đôi
lứa ngày xưa. Đặc biệt với những bài thơ trữ tình có khả năng đi sâu vào
những ngõ ngách tâm hồn con người để phản ánh thế giới nội tâm phức tạp và
phong phú. Những tình cảm ấy xuất phát từ những tình cảm thật trong đời
sống: nỗi buồn, niềm vui, yêu, ghét… Điều này ta dễ dàng nhận ra trong
những bài thơ đương đại:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể…”
(“Sóng” – Xuân Quỳnh)
Với việc sử dụng hình ảnh sóng Xuân Quỳnh đã diễn tả hai trạng thái
dường như không tồn tại trong một bản thể, vậy mà nó lại là quy luật của tự
nhiên, bản tính khác thường, phức tạp. Đó là ẩn dụ cho những cung bậc, sắc
thái của một trái tim đang yêu. Miêu tả con sóng nhưng lại chính là cách để
chủ thể trữ tình bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình. Như vậy có thể thấy, từ
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 11 K36B – Sp Ngữ văn
những câu ca dao xưa cho tới những bài thơ đương đại, dấu hiệu chung của
các tác phẩm trữ tình là sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con
người: Những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ … và từ đó người đọc có thể nhận
thấy một phần mình trong cái được phản ánh.
b. Chủ thể trữ tình
Nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân
vật trữ tình hay còn gọi là chủ thể trữ tình.
Chủ thể trữ tình là hình tượng nhân vật trực tiếp đứng ra để thổ lộ cảm
xúc, suy nghĩ, tâm trạng trong tác phẩm và chi phối toàn bộ cảm xúc của bài
thơ. Nhân vật trữ tình cũng có những đặc điểm riêng góp phần làm nên đặc
trưng của văn bản trữ tình: Không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ
cụ thể như nhân vật tự sự và kịch. Cụ thể trong bài “Quê hương”của Tế Hanh
thì nhân vật trữ tình chính là tác giả:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi.
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Trong một bài thơ thường có một nhân vật trữ tình nhưng những bài thơ
có kết cấu đối đáp thường xuất hiện hai nhân vật trữ tình:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng…”
(“Việt Bắc” - Tố Hữu)
Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa chủ thể trữ tình và nhân vật trữ tình.
Nhân vật trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm là nguyên nhân
trực tiếp khơi dậy nguồn tình cảm của tác giả.
“Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 12 K36B – Sp Ngữ văn
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em”.
(“Tôi yêu em”– A. X. Puskin)
Nhân vật trữ tình là “tôi” và đối tượng để tâm tình ở đây là “em”. Mặc
dù không đánh đồng chủ thể trữ tình là tác giả nhưng nhân vật trữ tình trong
thơ thường là hiện thân của tác giả.
Để thấy rõ hơn đặc trưng này của văn bản trữ tình thì nhân vật trữ tình
cũng có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, đó là nhân vật trữ tình mang nhiều cảm xúc và vào thời điểm
xuất hiện trong tác phẩm luôn có nhu cầu tâm sự dãi bày. Bài thơ “Tiếng hát
con tàu” của Chế Lan Viên, nhân vật trữ đã thể hiện rõ cảm xúc của mình
trong thời điểm miền Bắc sau những năm kháng chiến thắng lợi, vừa mới trải
qua thời kì khôi phục kinh tế, bắt đầu bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Ở
đây không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa của anh và em mà còn là sự kết
tinh của những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước.
Thứ hai, nhân vật trữ tình thường bộc lộ cảm xúc trực tiếp xuất phát từ
hoàn cảnh cá nhân trong đời sống nhưng đồng thời hướng tới tính khái quát
đại chúng dành cho tâm trạng của nhiều người. Như bài thơ “Tự hát” của
Xuân Quỳnh là cảm xúc, tâm trạng rất riêng của cô gái nhưng cũng là cảm
xúc chung của những người phụ nữ trong tình yêu: lo âu, trăn trở về tình yêu
của mình…
Như vậy, thơ trữ tình tuy biểu hiện thế giới nội tâm chủ quan, lại cũng
có thể theo cách riêng của mình phản ánh thực tế khách quan của cuộc sống
xã hội. Đúng như V. Huy – go khẳng định: “Cái tôi trữ tình trong thơ là cái
ta của thời đại”.
Thứ ba, cảm xúc của nhân vật trữ tình ít nhiều gắn bó với cuộc đời tác
giả. Có thể nói lên tâm trạng tác giả nhưng không có nghĩa nó đồng nghĩa với
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 13 K36B – Sp Ngữ văn
tác giả bởi lẽ trong nhiều trường hợp tác giả đứng ở vị trí trung gian nói hộ
tâm trạng của người khác để tạo nên tâm trạng trữ tình nhập vai. Trong bài
thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ: Nhà thơ nói hộ tâm trạng của con hổ trong vườn
bách thú xót xa cho dĩ vãng quá khứ hoàng kim. Chỉ có thể thấy văn bản là
sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Dù là nhân vật trữ tình nào thì phẩm chất và
cá tính nhà thơ cũng để lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm. Nếu điều nhà thơ
viết ra không bắt nguồn từ phẩm chất tinh thần của mình thì tác phẩm khó có
sự hấp dẫn nghệ thuật và gây xúc động lòng người. Ngược lại nếu bài thơ chỉ
ghi lại những cảm xúc tủn mủn, những tâm trạng không bắt nguồn từ hiện
thực xã hội và lịch sử khách quan thì không có giá trị.
c. Ngôn ngữ trữ tình
Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm
tự sự và kịch đều mang tính gợi hình, gợi cảm, hàm súc nhưng trong ngôn
ngữ thơ có những đặc điểm thể hiện theo cách riêng.
Thứ nhất, ngôn ngữ thơ bão hòa cảm xúc: Đặc trưng nổi bật của thơ trữ
tình là mọi từ mọi câu đều chứa đựng cảm xúc. Ngôn ngữ thơ không bao giờ
là ngôn ngữ khách quan, yên tĩnh của tác phẩm tự sự. Lời thơ thường là lời
đánh giá trực tiếp thể hiện một quan hệ của chủ thể với cuộc đời:
“Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
(“Tiếng hát con tàu” - Chế Lan Viên)
Màu sắc cảm xúc và cá thể hóa trong ngôn ngữ thơ lãng mạn gắn liền
với sự bùng nổ của cái tôi cá nhân và sự tuôn trào của tình cảm. Tình cảm
nồng nhiệt trong thơ được dồn chứa vào ngôn từ, đặc biệt là những nhãn tự -
tiêu điểm để từ đó có thể nhìn thấu vào tâm hồn tác giả. Chính vì thế sự lựa
chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 14 K36B – Sp Ngữ văn
dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán của chủ thể trở
lên nổi bật. Đặc biệt, lời thơ trữ tình còn mang tính chất “mê hoặc”. Lời thơ
thường phải khác thường để đưa ta vào những chân lí thâm thúy của cuộc
sống. Đây là điểm khác biệt hẳn so với lời tự sự, kịch hay lời nói đời thường.
Thứ hai, ngôn ngữ thơ mang tính cách điệu: Ngôn ngữ thơ không sử
dụng cách diễn đạt giản dị, sáo mòn trong đời sống mà thường tìm đến cách
diễn đạt mới, sáng tạo hoặc đem đến những ý nghĩa mới mẻ cho những cái
tưởng như cố định sáo mòn. Có thể coi đây là một yêu cầu lạ hóa trong thơ.
Thứ ba, ngôn ngữ thơ cô đọng hàm súc: Do giới hạn khuôn khổ bài thơ
đòi hỏi nhà thơ khi sáng tạo phải dồn nén tư tưởng, cảm xúc vào trong ngôn
từ. Vì thế thường tìm đến biện pháp đối, điệp, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, liên
tưởng và sử dụng những biểu tượng giàu ý nghĩa:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
(“Tràng giang”- Huy Cận)
Thứ tư, ngôn ngữ trữ tình rất giàu nhạc tính, hình ảnh: Thơ trữ tình đặc
biệt yêu thích các ẩn dụ nghệ thuật. Tác phẩm trữ tình phản ánh cuộc sống
qua những rung động của tình cảm. Như nhịp đập của trái tim khi xúc động,
ngôn ngữ thơ có nhịp điệu riêng của nó. Thế giới nội tâm của nhà thơ không
chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ
ngữ ấy. Có thể coi tính nhạc điệu là một nét đặc trưng của tác phẩm trữ tình.
Nhạc tính của ngôn ngữ trữ tình được biểu hiện qua rất nhiều khía cạnh như
thanh điệu, sự gieo vần, cách ngắt nhịp, sự trùng điệp hài hòa.
Thanh điệu là sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ. Trầm bổng là sự thay đổi
những âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh trắc tạo ra
những điều mà chữ nghĩa không thể nói hết:
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 15 K36B – Sp Ngữ văn
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
(“Tràng giang” - Huy Cận)
Một trong những cái đẹp trầm bổng của âm thanh là cách ngắt nhịp:
“Người ra đi/ đầu / không ngoảnh lại
Sau lưng / thềm nắng / lá rơi đầy”
(“Tống biệt hành”– Thâm Tâm)
Cách ngắt nhịp 3/1/3 – 2/2/3 góp phần thể hiện ý chí quyết tâm của
người ra đi và tình cảm lưu luyến bịn rịn khi rời xa Hà Nội.
Cuối cùng, ngôn ngữ trữ tình mang đậm dấu ấn riêng của tác giả: Từ
tính cá thể của tình cảm trong thơ đã chi phối cách lựa chọn ngôn từ và để lại
dấu ấn riêng của từng nghệ sĩ trong tác phẩm. Do đặc điểm rất riêng của ngôn
ngưc trữ tình mà cụ thể là ngôn ngữ thơ nên khi khám phá một văn bản thơ
cần đi từ lớp ngữ nghĩa, lớp hình ảnh âm thanh, nhịp điệu đến việc tìm hiểu
nghĩa bóng, tư tưởng, ý đồ nghệ thuật của tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên
mà khi nhắc đến thơ trữ tình, người ta nhắc đến những khúc hát du dương,
khác với thơ trung đại, âm nhạc trong thơ trữ tình là âm nhạc gắn với biểu
hiện đa chiều của chủ thể. Nói cách khác cùng với sự xuất hiện trực tiếp của
cái tôi cá nhân cá thể, thơ ca trữ tình lấy tiếng nói của con người làm nền tảng
cho nhạc điệu, giọng điệu.
Màu sắc “điệu nói” của thơ ca trữ tình đã mở rộng diện tiếp xúc đời
sống của thơ, làm cho thơ trở nên phong phú hơn. Tuy nhiên, thơ trữ tình, do
sự trôi chảy quá mạnh của cảm xúc, nhiều khi trở nên dài dòng, thừa thãi về
câu chữ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Văn học luôn là người thư ký trung thành của thời đại, thời đại xã hội
thế nào sẽ được thể hiện vào trong tác phẩm văn học như vậy. Tác phẩm văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 16 K36B – Sp Ngữ văn
học ra đời là để con người thỏa mãn nhu cầu tinh thần giàu có và cao đẹp vô
hạn của chính mình. Vậy nên, văn chương không thể, nếu như không muốn
nói là không được phép, ngoảnh mặt lại với con người và xã hội. Vấn đề duy
nhất đặt ra là: Cần phải đáp ứng nhu cầu của đời sống bằng chính đặc trưng
của văn chương. Cần phải gắn văn chương với đời sống thực tiễn. “Văn học là
nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội”.
Trong giáo dục cũng vậy, tất cả các môn học trong nhà trường đều phải
gắn việc dạy và học với đời sống xã hội. Thừa nhận ý nghĩa đào tạo to lớn của
nguyên tắc dạy học văn gắn liền với đời sống là điều không phải bàn cãi
nhưng để thống nhất một cách hiểu thấu đáo về bản chất và đặc điểm mối
quan hệ giữa văn chương và đời sống thật không dễ dàng. Đã biết sức mạnh
riêng của môn văn trước hết tồn tại “bản chất người” trong từng tác phẩm.
Sức mạnh riêng của môn văn được nhân lên gấp nhiều lần trong nhà trường
với tư cách là một môn học cơ bản. Những tác phẩm được lựa chọn trong
chương trình có một giá trị tiêu biểu “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nội dung
đã được sàng lọc, xác định qua thời gian nên mang tính thời sự và có giá trị
thực tiễn.
Xã hội càng phát triển, đặc biệt trong thời đại hội nhập, nhu cầu vươn
tới một nền giáo dục chất lượng cao, đào tạo ra những người có khả năng
thích nghi với cuộc sống, giải quyết những vấn đề thiết thực của cuộc sống
ngày càng cấp thiết. Đó là cái đích hướng tới của giáo dục, trong đó Ngữ văn
là một môn học giữ vai trò rất quan trọng.
Từ trước tới nay, môn Ngữ văn được coi là môn học đặc thù với rất
nhiều chức năng: Vừa rèn luyện về ngôn ngữ, rèn luyện tư duy hình tượng
cũng như khả năng sáng tạo của học sinh, vừa rèn luyện năng lực cảm thụ cái
đẹp của văn chương lại vừa có nhiệm vụ giáo dục nhân cách, đạo đức. Mục
đích cuối cùng của việc dạy văn trong nhà trường là đào tạo ra những con
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 17 K36B – Sp Ngữ văn
người có khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, có kĩ năng đọc, kĩ năng viết và kĩ
năng nói đáp ứng được các nhu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc dạy và học Ngữ văn trong nhà
trường (các cấp) hiện nay chưa đáp ứng được những yêu cầu trên.
Theo điều tra của nhiều công trình nghiên cứu về việc dạy – học văn
hiện nay, kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh rất đáng báo động. Nhiều
học sinh không biết cách tự viết, không thích đọc và cũng không biết cách
tiếp cận một văn bản ngoài nhà trường để có thể tự đọc – hiểu. Thậm chí,
nhiều học sinh, sinh viên ra trường không biết cách viết một lá đơn xin việc,
không trình bày được ý tưởng trong công việc một cách mạch lạc… tức là đã
thiếu đi những kĩ năng sống cơ bản lẽ ra phải được trang bị qua môn Ngữ văn.
Vì vậy, dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực
tiễn là vấn đề cần thiết.
1.2.1. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
trong trường THPT
Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông trong đó
có đổi mới phương pháp dạy học văn theo tinh thần khoa học hiện đại đã và
đang diễn ra sôi động và thu được nhiều kết quả đáng mừng. Việc chúng tôi
chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được quy
định tại Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 14
tháng 6 năm 2005 ở Khoản 2 Điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, lòng say mê tự học và ý chí vươn lên”.
Đặc điểm cấu trúc chương trình THPT hiện nay quan tâm đến việc dạy
tác phẩm văn học theo loại thể. Nhiều văn bản mới như văn bản nhật dụng
được đưa vào trong chương trình. Vì vậy, nghiên cứu cảm thụ không chỉ đóng
khung một cách phiến diện vào vấn đề hứng thú mà cần chú ý nhiều hơn vào
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 18 K36B – Sp Ngữ văn
giá trị thực tiễn (gắn liền với tâm lí, sinh lí, xã hội, mĩ học…). Không thể dạy
văn theo cách tĩnh và thiếu mối liên hệ biện chứng giữa văn học và cuộc sống.
Khuynh hướng khoa học ngày nay yêu cầu một cách nghiêm ngặt về khảo
nghiệm thực tiễn trữ tình. Bởi những đặc trưng rất riêng của văn bản trữ tình
so với các loại văn bản khác, đòi hỏi học sinh phải có năng lực cảm thụ văn
chương mới có thể phân tích cắt nghĩa, bình giá những chi tiết, hình ảnh trong
văn bản. Trong khi trên thực tế, học sinh không có hứng thú với những bài
thơ trung đại bởi chúng khó hiểu, công thức, cũng không có hứng thú với thơ
hiện đại bởi cho rằng đó là những văn bản xa rời thực tế và không phù hợp
với tâm lý đương thời.
Giáo viên với tư cách là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của
học sinh nhằm giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình
dạy, đôi lúc còn gặp phải lúng túng khi truyền tải những kiến thức, cảm xúc
thẩm mĩ mà văn bản trữ tình đem lại. Nguyên nhân một phần do giáo viên
chưa gắn thực tiễn với bài dạy khiến học sinh cảm thấy khó hiểu và không có
hứng thú tiếp nhận. Tạo ra một khoảng trống không có sự liên hệ giữa học
sinh và văn bản, dẫn đến tình trạng “học cho xong”. Mặc dù trên thực tế, dù
văn bản trữ tình có được viết ở thời đại nào cũng tái hiện lại một đời sống,
một hiện thực nào đó. Cho nên sẽ thật thiếu xót nếu dạy đọc – hiểu văn bản
trữ tình mà không gắn liền với thực tiễn.
Văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một văn bản trữ tình
trong chương trình SGK NGữ văn THPT lớp 11. Đây là một thi phẩm nổi
tiếng những năm đầu thế kỉ XX, là một trong những “đứa con tinh thần” thể
hiện rõ nhất hồn thơ Hàn Mặc Tử và là một tác phẩm luôn sống trong lòng
những người yêu thơ. Trong chương trình Ngữ văn THPT học sinh tiếp nhận
văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” – một văn bản trữ tình của một tác giả nổi tiếng
được đánh giá là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt nhất của
Khóa luận tốt nghiệp đại học Khoa Ngữ văn
Nguyễn Thị Kim Nên 19 K36B – Sp Ngữ văn
phong trào “Thơ mới”. Học sinh có thể thấy văn bản này hay, thấy thích đôi ba
câu thơ lạ nhưng chưa thực sự nhận ra giá trị thực tiễn, quan niệm nhân sinh
sâu sắc mới mẻ chứa đựng trong nó – điều đó đã làm nên sức sống trường tồn
cho tác phẩm trong gần thế kỉ qua. Nhìn nhận thực trạng này và với mục đích
nâng cao chất lượng dạy học văn nói chung, dạy văn hướng tới việc dạy chữ
và dạy làm người, chúng tôi nghiên cứu đề tài “Đọc – hiểu văn bản “Đây
thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) gắn liền với đời sống thực tiễn”.
1.2.2. Đọc – hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn
Như đã trình bày ở lí do chọn để tài: Đối với những văn bản văn
chương thuộc thể loại trữ tình, học sinh thường có quan niệm chúng quá lãng
mạn, bay bổng, xa rời với hiện thực cuộc sống và cho rằng đó chỉ là những
cảm nhận của giới văn nghệ sĩ nên tiếp nhận văn bản trữ tình theo hướng “học
cho xong”. Trong thực tế, những văn bản trữ tình lại mang lại những giá trị
nhân sinh rất thiết thực mà học sinh chưa khám phá ra. Người giáo viên với
vai trò hướng dẫn tổ chức hoạt động học của học sinh chính là chiếc cầu nối
giúp học sinh nhận ra và tiếp thu những giá trị đó qua phương pháp đọc - hiểu
văn bản. Nếu như trong những giờ dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình giáo viên
có thể dẫn dắt học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn, học sinh có thể
áp dụng vào trong cuộc sống của mình thì chắc chắn giờ văn sẽ thu hút được
rất nhiều sự chú ý của học sinh và không còn hiện tượng học sinh không có
hứng thú khi tiếp nhận văn bản này.
Trong giờ học giáo viên giúp học sinh biết rung cảm với nhịp đập trái
tim con người trước cuộc sống muôn màu, bồi đắp lòng tin yêu con người và
cuộc sống, biết căm ghét những gì hạ thấp nhân phẩm và ngăn cản sự phát
triển toàn diện của con người. Nếu không gắn với lợi ích thực tiễn đặc biệt
trong môi trường xã hội công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay thì việc dạy