Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ VIỆC NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.21 KB, 19 trang )

MụC LụC

Lời nói đầu
Phần thứ nhất: Những vấn đề cần quan tâm về việc nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp việt nam
I. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
a. Nâng cao chất lượng và hiểu quả hoạt động của doanh nghiệp
b. Nâng cao chất lượng và quản lý nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
*Một số kiến nghị đối với nhà nước
II. Quá trình việt nam gia nhập AFTA Có ảnh hưởng đối với doanh nghiệp việt
nam
III. Việc ký kết hiệp định thương mại việt- mỹ đối với doanh nghiệp việt nam có
ảnh hưởng rất lớn
Phần thứ hai: cơ hội và thác thức đối với doanh nghiệp việt nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
Phần thứ ba: những giải pháp cho doanh nghiệp việt nam khi hội nhập kinh tế
quốc tế
Lời kết
1
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập đang là thời cơ rất thuận lợi để phát
triển nhưng đồng thời cũng là những thách thức rất lớn đối với các doanh
nghiệp Việt Nam. Thời điểm Việt nam gia nhập AFTA và kế đó là WTO đã tới
gần, khi đó sẽ không còn khái niệm “Nhà nước bảo hộ” nữa. Các doanh nghiệp
có sức cạnh tranh mạnh thì doanh nghiệp sẽ tồn tại. Nhưng trên thực tế cho
thấy hiện nay cấp vĩ mô đã chuyển nhưng cấp cơ sở (các doanh nghiệp) vẫn
còn “đủng đỉnh”. Từ những bức xúc đó, vừa qua tại Hà nội đã diễn ra Hội nghị
toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ chính trị về
hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói Đảng ta đã có quyết sách rất đúng đắn và
kịp thời cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bởi quá trình này là tất yếu. Xu


thế chung của quốc tế là chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với những tiến
bộ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đồng thời đẩy
nhanh liên minh liên kết khu vực và quốc tế để tạo thế và lực cạnh tranh chiếm
lĩnh giật thị trường, mở đường cho sản xuất phát triển. Tất cả các nước lớn, nhỏ
trên thế giới đang vận động theo xu thế này bởi họ nhận thức rằng nếu đơn
độc, đứng ngoài cuộc sẽ bị cô lập đào thải. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng, Bộ Chính trị đã vạch rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường”.
Sau đây là một số điểm mốc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt nam:
- Bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc
tế: WB, IMF, ADB
2
2
- 1/1995: Nộp đơn xin ra nhập WTO. Đã qua 5 phiên đàm phán
- 7/1995: Ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với Liên minh Châu
ÂU (EU)
- 7/1995: Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN)
- 1/1996: Thực hiện Chương trình CEPT nhằm tiến tới khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA)
- 3/1996: Tham gia sáng lập diễn đàn á - Âu (ASEM)
- 11/1998: Gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương (APEC)
- 7/2000: Ký Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ và có
hiệu lực thi hành từ 10/12/2001
3
3

PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ VIỆC NÂNG CAO SỨC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.
Hội nhập kinh tế quốc có liên quan mật thiết với việc nâng cao sức cạnh
tranh . ở các nước đang phát triển, trong đó có việt nam thực hiện hội nhập kinh
tế, trong bối cảnh các lợi thế của hội nhập đang bị một số nước phát triển và các
tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối nên chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.
Do vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh ở các nước đang phát triển như nước ta
phải được coi là giải pháp cơ bản, mấu chốt, bức xúc có ý nghĩa quyết định cho
việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay.
Để có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cần hiểu khái niệm và nội dung sức
cạnh tranh của doanh nghiệp. Có hiểu sức cạnh tranh của doanh nghiệp là: tổng
thể các yếu tố gắn trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và
biện pháp cấu thành khả năng cạnh tranh được doanh nghiệp sử dụng trong
ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành khách hàng và đem lại
nhiều lợi ích cho doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Nội dung sức cạnh tranh
của doanh nghiệp bao gồm: khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện
đại; khả năng nắm bắt và sử lý thông tin, khả năng tạo ra phương thức phục vụ
và thanh toán trong sản suất kinh doanh, khả năng tạo lập và duy trì “chữ
tín”thương hiệu, khả năng chấp nhận sự mạo hiểm rủi ro trong cạnh tranh.
Theo diễm đàm kinh tế thế giới(WEF) năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế việt nam vẫn xếp ở hạng rất thấp và bấp bênh trên thế giới. Nền kinh tế
Việt nam năm 1977 xếp thứ 49 trên tổng 53 nước xếp hạng, năm 1998 tăng lên
vị trí 39 do các nước khác bị khủng hoảng nhưng năm 1999 lại tụt xuống 48.
Đến năm 2000 vị trí của Việt nam là 52 trên 59 nước.
4
4
Trong thời gian qua chúng ta đã tham gia vào các tổ chức và thể chế hợp tác
kinh tế, thương mại khu vực và thế giới như ASEAN - AFTA, APEC, ASEM

và đang chuẩn bị vào WTO. Theo lộ trình gia nhập AFTA thì đến 1/1/2006 Việt
Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống mức 0 – 5% đối với mặt hàng trong
danh mục IL ( cắt giảm ngay)và TEL ( cắt giảm tạm thời ). Khi đó sự bảo hộ
bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước
sẽ không còn tác dụng, hàng Việt Nam liệu có cạnh tranh với hàng nước ngoài
tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN và thị trường thế giới hay
không? Các doanh nghiệp Việt Nam và các cơ quan hữu quan cần phải làm gì
để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp?
I. Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Việc tham gia AFTA và tiến tới môi trường tự do hoá ở phạm vi rộng
hơn. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam tập trung nỗ lực ở mức độ cao
trong giai đoạn 2001-2005 để nâng cao sức cạnh tranh của mình và đảm bảo khả
năng có thể thích ứng với môi trường tự do hoá.
Tập trung xây dựng chiến lược doanh nghiệp để đạt được mục tiêu phát
triển dài hạn.
Một là, lựa chọn hướng và mặt hàng để xây dựng chiến lược. Hướng chiến
lược doanh nghiệp nhằm tạo ra ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng.
Doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu cạnh tranh bằng việc chuyển lợi thế về giá
lao động rẻ hay tài nguyên dồi dào sang cung cấp những sản phẩm có ưu thế cơ
bản về chi phí và giá trị cho khách hàng, tạo ra ưu thế về tiếp thị tổ chức tiêu
thụ và từng bước xác lập thương hiệu riêng.
Hai là, trong khi quyết định lựa chọn hướng chiến lược phát triển, các
doanh nghiệp cần chú trọng đến các vấn dề như phân tích lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, các đối tác
cạnh tranh, trên cơ sở xác định các đặc diểm kinh tế chủ chốt như thị trường,
5
5
thị phần, các điều kiện của thị trường, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của
sản phẩm, quy mô tối ưu của sản lượng, xác định các nhân tố tác động đến dự
phát triển của từng ngành, điều kiện cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ,

nguyên vật liệu, phương hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của thị trường.
Ba là, tổ chức nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị
trường trong nước, khu vực và thế giới.
a- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp:
Thực tiễn quốc tế đã chỉ ra rằng doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả
hoạt động phải dựa vào ưu thế tổng hợp như: Khai thác hiệu quả các lợi thế so
sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm tạo
ra các sản phẩm thoả mãn tốt nhu cầu trong nước và quốc tế cả về chất lượng,
mẫu mã, đặc biệt là giá cả; Chú trọng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,
hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa
vào đổi mới thiết kế chứ không phụ thuộc vào công nghệ sản xuất, tìm kiếm
các nguồn nhập khẩu các yếu tố đầu vào trung gian để sản xuất sản phẩm có
chi thấp nhất hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, để tìm kiếm thông tin hoặc
liên kết những nghiên cứu về thị trường, tiếp thị và phân phối sản phẩm, chú
trọng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ
phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá, tiêu
dùng ở những thị trường tiêu thụ khác nhau, xây dựng năng lực nắm bắt và
phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh
trên thị trường.
Thực hiện giải pháp này theo hướng nhập các thiết bị nước ngoài, học tập
nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất
và chế tạo tại Việt Nam, đối với các công nghệ hoặc thiết khó nhập khẩu hoặc
nhập khẩu quáđắt,các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu
khoa học, kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế
6
6
tạo , các doanh nghiệp có thể khai thác các thông tin qua mạng để tham gia các
hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh
nghiệp, nên đổi mới công nghệ theo hướng tập trung ở một vài khâu then chốt
có ảnh hưởng quyết định nhất, tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia

kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài, tìm kiếm cơ hội liên doanh
với các công ty nước ngoài có khả năng công nghệ hiện đại.
b-Nâng cao chất lương và quản lý nguồn nhân lực trong doanh nghiệp:
- Cho đến nay, lao động có trình độ giáo dục cao và giá rẻ được xem là
lợi thế so sánh lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế này của
doanh nghiệp Việt Nam còn khá hạn chế. Để khai thác được lợi thế này, các
doanh nghiệp cần tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao
động với doanh nghiệp bằng các chính sách như đầu tư cho đào tạo, đảm bảo
công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có những biến động,
xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao
động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
- Đa dạng hoá các kỹ năng và đảm boả khả năng thích ứng của người lao
động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp
này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể sẽ điều chỉnh lao động khi có những biến
động, giảm được chi phí do tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động. Bên cạnh
đó doanh nghiệp cần có đội ngũ quản lý năng động.
*Một số kiến nghị đối với Nhà nước
- Để tăng tính khả thi các giải pháp của doanh nghiệp trong quá trình hội
nhập kinh tế, ngoài nỗ lực từ phía doanh nghiệp, xây dựng một kế hoạch tổng
thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế.
- Căn cứ vào Nghị quyết vào Đại hôi IX , chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001- 2010 cũng như các chủ trương Nghị quyết của Đảng và Nhà nước,
các quyết định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, sớm xây
7
7
dựng một chiến lược tông thể về hội nhập kinh tế vì một lộ trình cụ thể để các
ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao
hiệu quả sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo hội nhập có hiệu quả.
- Tiếp tục cải tổ để tăng cường năng lực cho hệ thống doanh nghiệp.
- Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình chi tiết về cải cách doanh

nghiệp Nhà Nước để thúc đẩy các doanh nghiệp này chuyển hướng sản xuất
kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư
nhân. Trước hết cần có sự nhìn nhận đúng thực tế và khả năng về vị trí vai trò
của khu vực tư nhân đối với nền kinh tế tạo môi trường tâm lý xã hội ủng hộ
rộng rãi cho khu vực này phát triển, hoàn thiện các cơ chế chính sách theo hướng
đảm bảo sự bình đẳng cho sự phát triển kinh tế tư nhân như chính sách thuế đầu
tư, điều kiện và cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, chính sách thu nhập và
tham gia đóng bảo hiểm xã hội chính sách đào tạo khoa học công nghệ.
II. Quá trình việt nam gia nhập AFTA có ảnh hưởng đối với các doanh nghiệp
việt nam
Khi gia nhập AFTA nhiệm vụ và thách thức mà các doanh nghiệp việt
nam đang phải đối diện vì hấu hết các doanh nghiệp nước ta vẫn còn non trẻ.Số
lượng doanh nghiệp nhiều, nhưng nhìn chung có quy mô nhỏ, trang thiết bị kỹ
thuật máy móc không đồng bộ, công nghệ lạc hậu cộng với trình độ quản lý còn
hạn chế dẫn đến năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. trên thực tế
những năm qua quá trình hội nhập chưa được doanh nghiệp nước ta quan tâm
đúng mức, trong khi đó xu hướng này đã và đang ẩn chứa những nguy cơ tiềm
tàng mà doanh nghiệp nước ta cần biết để chủ động mọi mặt khi hội nhập vào thị
trường khu vực và quốc tế. chẳng hạn chúng ta mới bắt đầu đưa vào cắt giảm
những mặt hàng có lợi thế suất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước
8
8
chưa có nhu cầu sản suất được.Bản thân những mặt hàng này đã có thuế suất
xuất nhập khẩu ưu đãi hiện hành thấp( chủ yếu dưới 20% và nằm trong khung từ
0-5% là chính). do đó việc thực hiện cắt giảm hầu như chưa có nhiều biến động
lớn so với mức thuế suất xuất nhập khẩu hiện hành nên chưa có tác động nhiều
đến các doanh nghiệp.
Theo Lịch trình thực hiện cam kết CEPT/ AFTA từ năm 2000- 2006 nuớc ta
sẽ phải cắt giảm thuế quan liên tục đối với hơn 6000 dòng thuế nhập khẩu với

nguyên tắc thực hiện là đối với những mặt hàng tính đến thời điểm 1/1/2001 đã
thuộc danh mục CEPT mà có mức thuế xuất không quá 20% thì sẽ phải xem xét
lãi hàng năm để điều chỉnh cắt giảm sao cho có thể tối đa số dòng thuế 0-5% vào
năm 2003 và 0% vào năm 2006. Mức thuế xuất XNK của các mặt hàng khi đă
đưa vào danh mục cắt giảm ngay kể từ khi 1/1/2001 trở đi đều phải có thuế suất
không cao quá 20%. Tất cả các biện pháp hạn chế định hướng quota( hạn ngạch)
sẽ phải bổ ngang khi mặt hàng đó đưa vào danh mục cắt giảm và thời điểm thực
hiện nguyên tắc này bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2001.
Với những biến động về tiến độ và phương thức thực hiện lịch trình CEPT/
AFTA trên chắc chắn sẽ có những tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất
kinh doanh và XNK của các doanh nghiệp nước ta mà trong đó thách thức lớn
nhất cũng là mối quan tâm lớn nhất hiện nay của chính phủ và doanh nghiệp xuất
khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN, từ năm 2003 phá bỏ hạn ngạch định
lượng nhập khẩu từ năm 2006 phải bỏ toàn bộ các biện pháp bảo vệ thuế quan.
Hàng hoá từ các nước ASEAN sẽ tự do tràn vào nước ta nếu các sản phẩm hàng
hoá của ta không chiếm lĩnh được thị trường trong nước. Vấn đề này càng làm
cho các doanh nghiệp trong nước phải thận trọng cố gắng nhiều.
III. Việc ký kết hiệp định thương mại việt- mỹ đối với các doanh nghiệp việt
nam có ảnh hưởng rất lớn.
9
9
Sau nhiều năm mỹ cấm vận kinh tế và cô lập việt nam về chính trị. Hiệp
định thương mại việt- mỹ đã được ký kết coi là một thắng lợi lớn của nhan dân
việt nam trong năm 2001 bởi nó khẳng định vị trí và vai trò của việt nam trên thị
trường quốc tế, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và tạo
điều kiện mới để nền kinh tế việt nam phát triển và hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thức một cách sâu sắc rằng quá
trình quan hệ giữa việt nam với hoa kỳ nói chung và quá trình thực hiện hiệp
định thương mại việt mỹ nói riêng là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh đan
xen phức tạp, từ đó giữa thời cơ và thách thức không có ranh giới và chúng ta

phải biết tận dụng biến thời cơ thành hiện thực và vượt qua thách thức để chuyển
thành những thuận lợi mới.
hiệp định thương mại việt- mỹ là một hiệp định song phương nhưng là trên
nền tảng đa phương vì cơ bản ở đây các thoả thuận đều gắn với các quy tắc, quy
định tương ứng của tổ chức thương mại thế giới(WTO) nên hiệp định song
phương này được coi như kinh nghiệm cần thiết và là bước tiến của việt nam
trên con đường gia nhập WTO. Chính vì vậy mà việc nhận thức rõ những lợi ích
cũng như những khó khăn thách thức khi thực hiện thương mại việt- mỹ có ý
nghiã rất quan trọng.Việc ký hiệp định việt- mỹ là lằm trong khuôn khổ chính
sách đối ngoại của nhà nước ta nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước. Hiệp định đi vào thực thi sẽ đem lại những cơ hội và khả
năng trước hết là mở rộng thị trường và tăng nhanh suất khẩu hàng hoá. Bởi mỹ
là một thị trường lớn có dung lượng nhập khẩu lớn nhất thế giới( mỗi năm nhập
khẩu 1200 tỷ USD hàng hoá với thuế suất ) mà trong đó việt nam có khả năng
gia tăng xâm nhập vào thị trường với các mặt hàng như dệt may, dày dép, thuỷ
sản, cà phê và một sốhàng nông sản, thuỷ cộng mỹ nghệ từ đó việt nam có thể
thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm trong nước. tuy nhiên, khả năng tăng
nhanh xuất khẩu này còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng các doanh nghiệp
10
10
việt nam có sức đủ sức cạnh tranh về mặt chất lượng, giá thành ngay tại thị
trường việt nam hay không (nhất là trong lĩnh vực dịch vụ) bởi việc mở cửa thị
trường luôn gắn với ý nghĩa lưu thông hàng hoá, dịch vụ hai chiều.
Đối với doanh nghiệp việt nam, hiệp định thương mại việt- mỹ mở ra những
thời cơ thuận lợi, song bên cạnh đó lại là những thách thức hết sức cụ thể như về
chất lượng, giá cả, hiểu biết thị trường, về sự chủ động và chữ tín trong kinh
doanh, là cuộc cạnh tranh gay gắt tại thị trường trong nước và thị trường hoa kỳ.
Các doanh nghiệp nhà nước thì phải chạy đua với thời gian bởi những ưu đãi của
nhà nuớc về vốn, về thị phần và những bảo hộ của nhà nước thông qua biên pháp
phi thuế quan sẽ bị loại bỏ dần theo lộ trình. Và cuối cùng là những thách thức

về nhân lực trong nhiều lĩnh vực như lĩnh vực khoa học công nghệ, luật pháp,
kinh doanh, hành chính nhà nước mà điều quan trọng là vấn đề đào tạo nhân
lực có chất lượng và sự tiếp thu có chọn lọc.
hiệp định thương mại việt-mỹ bắt đầu có hiệu lực và guồng máy đó bắt đầu
chuyển động. Để thực thi hiệp định có hiệu quả,việt nam phải thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của hành hoá dịch
và của chính các doanh nghiệp, một nhân tố có ý nghĩa quyết định trong quá
trình hội nhập quốc tế nói chung và thực thi hiệp định thương mại với hoa kỳ nói
riêng. Chúng ta phải tìm hiểu hệ thống pháp luật, thị trường tập quán làm ăn của
hoa kỳ và chủ động tích cực xâm nhập vào thị trường này.
PHầN II
CƠ HộI Và THáCH THứC ĐốI VớI DOANH NGHIệP VIệT NAM
TRONG QUá TRìNH HộI NHậP KINH Tế QUốC Tế
Thực tế cho thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong
những năm qua đã có những bước phát triển quan trọng. Xuất phát từ nhu cầu
11
11
thực tế phải nỗ lực hoà nhập vào nền kinh tế thế giới để phá thế bị bao vây, cô
lập, nền kinh tế Việt nam vào những năm đầu thập kỷ 90, đến nay đã mang lại
sắc thái mới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, trao
đổi thương mại với trên 150 nền kinh tế và quan hệ đầu tư với khoảng 70 nước
và vùng lãnh thổ. Đến nay Việt nam đã thu hút được trên 42 tỷ USD vốn đầu tư
với trên 3.000 dựa án, trong đó đã thực hiện được khoảng 21 tỷ USD và nguồn
vốn này chiếm đến 30% tổng vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công
nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho gần 40 vạn lao động. Quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam tranh thủ được nguồn vốn ODA ngày
càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Đến nay, các nhà tài trợ đã tiếp
tục cam kết dành cho nước ta gần 20 tỷ USD. Quá trình chủ động Hội nhập kinh
tế quốc tế còn tạo cơ hội để Việt nam tiếp cận với những thành quả của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều

công nghệ và dây chuyền sản xuất hiện đại được sử dụng đã tạo nên bước phát
triển mới trong các ngành sản xuất. Đã có nhiều doanh nghiệp Việt nam thời
gian qua đã áp dụng thành công tiêu chuẩn quốc tế ISO nên chất lượng sản
phẩm đã được nâng lên. Đây là một minh chứng cho điều này.
Lợi thế là vậy, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt nam hiện nay còn rất
lúng túng và thiếu hiểu biết về hội nhập. Theo điều tra của Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam, hiện mới có 84% số doanh nghiệp được hỏi trả lời có
nhận được thông tin về hội nhập, trong đó 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết
gì về quá trình hội nhập, 50% không có thông tin về hiệp định Thương mại Việt
– Mỹ. Bên cạnh đó nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập của các
cấp còn giản đơn. Đây cũng là một trong những lý do chính khiến việc xác định
triển khai chọn mặt hàng, xác định lợi thế, biện pháp xúc tiến thương mại, mở
rộng thị trường để thực hiện lộ trình cam kết của ta còn chậm và lúng túng. Đến
nay trừ thuỷ sản, rau quả và dệt may đã thâm nhập được thị trường Hoa kỳ còn
12
12
hầu hết các mặt hàng khác chúng ta chưa có một chiến lược cụ thể nào để chiếm
lĩnh và phát triển thị trường trước khi mở cửa thị trường theo lộ trình cam kết
hàng hoá Hoa Kỳ và các nước khác vào Việt Nam.
Trong lĩnh vực nông nghiệp: Thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế, nhiều năm qua nông nghiệp nước ta đã có những bước tiến quan
trọng, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước về lương thực, thực phẩm, đồng thời
đã trở thành một ngành hàng xuất khẩu lớn, có năm đã đem lại trên 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số mặt hàng đã có vị thế quan trọng trên
thị trường quốc tế như: gạo, cà phê, điều, hồ tiêu Thế nhưng hiện tại khả năng
cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản của nước ta còn thấp do năng suất, chất
lượng thấp, giá thành sản xuất còn cao như ngô, đậu tương, bông, thịt
lợn Nguyên nhân nữa dẫn đến sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam kém
còn do sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh nông lâm
sản còn thấp. Đa số nhà máy chế biến quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu

hơn nhiều so với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và thế giới.
Hiện nay gần 70% doanh nghiệp thuộc Bộ NN& PTNT có vốn dưới 10 tỷ đồng
cộng với khả năng nắm bắt và khai thác thị trường còn yếu. Cho nên mở cửa thị
trường sẽ là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt nam thì thấy kinh tế
Việt Nam về cơ bản vẫn là một nước chủ yếu là nông nghiệp : 62% kim ngạch
thu được từ xuất khẩu là hàng thô và sơ chế , chủ yếu là hàng nông sản chiếm
38% còn lại là hàng công nghiệp mà phần lớn làm hàng gia công, dẫn đến sức
cạnh tranh của một số mặt hàng công nghiệp trên thị trường còn yếu. Hiện
tượng mức bảo hộ một số mặt hàng công nghiệp còn quá cao như: Xe máy, xe
đạp 59%, gạch và gạch ốp lát 48%, hàng may mặc 42% và mức thuế suất bình
quân cao nhất 19% so với các nước trong khu vực sẽ là thách thức lớn đối với
nhiều ngành hàng công nghiệp khi thực hiện cam kết cắt giảm thuế và giảm mức
13
13
bảo hộ. Chính vì vậy, từng bước xoá bỏ bảo hộ là biện pháp cần thiết nhằm buộc
doanh nghiệp cải tổ toàn diện, chủ động vươn lên đối đầu trực tiếp với sức ép
cạnh tranh từ các nước trong khu vực và thế giới. Đồng thời, trước mắt chúng ta
phải kiên trì với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh và mở rộng đầu tư các
mặt hàng khác, nhất là chú trọng đầu tư cho các ngành có hàm lượng công nghệ
cao, có thế mạnh trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu như : điện tử- tin học, dệt,
nguyên liệu hoá chất, cơ khí và cơ điện tử có như thế chúng ta mới mau chóng
chiếm được một vị trí rõ ràng trong thương mại quốc tế. Bởi một thực tế hiện
nay năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam được xếp vào nước có khả
năng cạnh tranh thấp và còn giảm dần trong 3 năm trở lại đây. Năm 1998 theo
đánh giá của Tạp chí Diễn đàn cạnh tranh toàn cầu, Việt nam đứng thứ 43 trong
59 nước được đánh giá về năng lực cạnh tranh. Năm 1999, vị trí của Việt nam tụt
xuống thứ 48 và năm 2000 là 53 đó là điều mà mỗi chúng ta không thể không
suy nghĩ và lo lắng khi nền kinh tế của chúng ta tham gia HNKTQT. Mới gần
đây theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW thì hiện nay tỷ trọng

DNNN thực sự có hiệu quả và có triển vọng đứng vững trong quá trình hội
nhập chỉ đạt khoảng 21%, số doanh nghiệp không có hiệu quả bị lỗ triền miên
chiếm 20%, nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì con số này còn cao hơn.
Thứ trưởng Bộ Công nghiệp ông Nguyễn Xuân Chuẩn rất lo ngại về sức cạnh
tranh của hàng hoá Việt Nam:
Rõ dàng thấy Việt nam có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các nước
ASEAN cho nên sức cạnh tranh của hàng hoá còn nhiều hạn chế, đang và sẽ
đứng trước những thách thức rất to lớn khi hội nhập kinh tế trong khu vực và thế
giới. Chính vì vậy, chủ động Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là việc của
Chính phủ, mà điều sống còn là các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình. Vì doanh nghiệp là chủ thể thực hiện hội nhập, là động lực hết
sức quan trọng và then chốt.
14
14
Một điều mà nhiều năm nay làm hạn chế năng lực phát triển của doanh
nghiệp là, mặc dù môi trường kinh doanh đã được cải thiện song hệ thống pháp
luật còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và nhất quán. Nghị Quyết 07/TƯ
của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu: “Trong bộ máy hành chính
còn nhiều biểu hiện của bệnh quan liêu và tệ tham nhũng, trình độ nghiệp vụ
yếu kém, nguồn nhân lực chưa được đào tạo tốt”.
Một số doanh nghiệp cho rằng để hội nhập thành công thì hệ thống pháp
luật phải hoàn chỉnh, nhất quán, ổn định. Các điều khoản pháp luật phải nhất
quán, không chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau, đặc biệt, tránh
trường hợp văn bản phải sửa đi sửa lại nhiều lần, nhiều cơ quan ra hướng dẫn
đối nghịch nhau gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hệ thống pháp luật về kinh tế còn phải
phù hợp với thông lệ và luật chơi quốc tế, có như vậy nhà đầu tư mới yên tâm.
Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa
cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối phó thách thức. Tại Hội nghị toàn quốc
về HNKTQT phó thủ tướng Nguyễn Mạnh cầm đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo về

HNKTQT: “ Phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường. Một
lộ trình quá nóng về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng
chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp,
vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường ”. Tuy
nhiên, Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh cầm nhấn mạnh: “ Điều đó không có nghĩa
là lộ trình càng dài càng tốt, bởi vì kéo dài lộ trình sẽ đi liền với duy trì quá lâu
chính sách bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại và nguy cơ tụt
hậu xa hơn ”

15
15
PHầN III
NHữNG GIảI PHáP CHO DOANH NGHIệP VIệT NAM KHI HộI NHậP
KINH Tế QUốC Tế

Từ những thực tế đó mà Chính phủ đã đề ra chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết 07 về HNKTQT bao gồm 10 nội dung chính sau:
- Công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế
thương mại
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh
- Tổng kết và hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc
tế
- Đào tạo nguồn nhân lực
- Kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại
- Nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng
- Đàm phán gia nhập WTO
- Mở rộng thị trường xuất khẩu, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật
của các nước và các tổ chức quốc tế
- Kiện toàn tổ chức.

Một là: có sự quản lý hướng dẫn của nhà nước. Cần xây dựng chiến lược
hội nhập, bước đi gắn liền với chính sách kinh tế nội địa trên cơ sở đó vạch ra
những bước đi triển khai những chiến lược cụ thể phù hợp với điều kiện việt
nam.
Hai là:hoàn thiện môi trường kinh doanh. Nhà nước phải rà soát lại các
văn bản pháp quy, tạo hành lang pháp lý, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh,
tự do cạnh tranh theo khuôn khổ pháp luật đồng thời phù hợp với luật pháp quốc
16
16
tế. Nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính để khuyến khích đầu tư.
* Hệ thống ngân hàng: kinh nghiêm cho thấy khủng hoảng tài chính tiền tệ
vừa qua là hệ quả của sự yếu kém của hệ thống tài chính quốc gia của việc sử lý
nợ nước ngoài, chính sách sai lầm về vay nghiệp vụ ngân hàng và sự yếu kém
trong việc kiểm soát các dòng vốn. Nhiệm vụ hiện nay là cải tổ hệ thống ngân
hàng, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, chủ động sự kiểm soát di chuyển của
các dòng vốn tạo cơ sở vững chắc để huy động, vận động vốn nâng cao hiệu quả
đầu tư. cũng cần chọn lọc để đảm bảo an ninh kinh tế và thích ứng một cách có
hiệu quả với tiến trình tự do hoá.
* Hệ thống thuế: cải cách chính sách thuế phải gắn chặt với sự phát triển
của các ngành kinh tế đảm bảo hiệu quả kinh doanh, đảm bảo nguồn thu của nhà
nước đồng thời tăng cường tính cạnh tranh và độ an toàn khi hội nhập, giảm dần
hàng rào phi thuế quan theo lộ trình của AFTAvà WTO.
Ba là: thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhà nước cần
xây dựng chiến lược cạnh tranh tích cực bằng cách tổ chức lại cơ cấu ngành kinh
tế, bảo hộ có chọn lọc; phát triển vùng nông nghiệp chuyên canh cùng công
nghiệp chế biến, tăng cường công nghệ sau thu hoạch cần tập trung vào các đặc
khu kinh tế và các tổng công ty có sức cạnh tranh thực sự việt nam mới đủ sức
hội nhập.
Bốn là: phát huy nội lực các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
phải nhận thức rõ ràng hội nhập là cơ hội để giao lưu và học hỏi để xúc tiến

thương mại và đầu tư ra nước ngoài nhưng cũng là nguy cơ phá sản. Do đó các
doanh nghiệp phải khai thác hiệu quả và phát huy nội lực đổi mới kỹ thuật công
nghệ nâng cao chất lượng tăng tính hấp dẫn và tính cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế.
17
17
Năm là: đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực để
chuẩn bị cho hội nhập cần phải đào tạo được đội ngũ cán bộ lao động tận tâm
nhiệt tình chất lượng cao, giỏi ngoại ngữ và kỹ thuật đàm phán, kỹ thuật chuyên
môn, ham hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế. Đây là nhân tố tiền tạo ra năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế trong dài hạn.
Do đó xu thế khách quan của toàn cầu hoá kinh tế và chủ trương Việt nam
chủ động HNKTQT đã được khẳng định rõ trong nhiều Nghị quyết của đại hội
Đảng và đã được triển khai trên thực tế. Nguyên nhân tình trạng hiện nay nhiều
doanh nghiệp vẫn còn rất mù mờ và lúng túng về hội nhập là do: nhận thức, tư
tưởng về các nội dung, bước đi, lộ trình, về sự cần thiết phải hội nhập để phát
triển đất nước ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương và doanh nghiệp
vẫn chưa được nhất quán.Chính vì vậy nhiệm vụ đầu tiên trong 10 nhiệm vụ cụ
thể mà Nghị quyết 07 nêu ra là: “ Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên
truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể, trong các doanh
nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất
và nhất quán về HNKTQT, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài
của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân
dân ta chủ động HNKTQT”.
18
18
lời kết
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tất yếu tiếp tục thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH – HĐH
nước nhà. Trong quá trình đó chúng ta vừa có những thuận lợi, vừa phải đương

đầu với những thách thức nghiệt ngã. Các doanh nghiệp Việt Nam cả sản xuất
lẫn kinh doanh ngay từ bây giờ cần có nhận thức đúng đắn để có chiến lược cụ
thể tham gia, khai thác lợi thế để sản phẩm của mình vươn ra thị trường thế giới.
Cần biến cam kết quốc tế thành chương trình hành động của từng đơn vị. Phát
huy nội lực, kết hợp chặt chẽ sản xuất và kinh doanh, không ngừng đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh để khẳng định
vị trí của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Do thời gian có hạn nên không tránh khỏi những sai sót, em rất mong thầy
cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

19
19

×