Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích nhứng hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.93 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ, quá trình liên doanh, liên kết,
tự do hợp đồng ngày càng phát sinh nhiều các mâu thuẫn, bất đồng. Sự ra đời của Luật Trọng
tài Thương mại năm 2010 đã khắc phục được những điểm bất cập của Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại năm 2003, đồng thời đưa ra nhiều quy định mới về cơ bản phù hợp với pháp luật
và thông lệ quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh những nét ưu việt nói trên, qua gần 2 năm thực
hiện, Luật trọng tài Thương mại 2010 đã bộc lộ những hạn chế trong quá trình giải quyết
tranh chấp.
Nhận thấy được vai trò của pháp luật trọng tài em xin trình bày đề tài: “Phân tích nhứng hạn
chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện”.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Ở Việt Nam, pháp luật cũng giữ quan điểm tiếp cận trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp như hầu hết pháp luật các nước nhưng sử dụng thuật ngữ là “trọng tài thương mại”
để gọi tên cho phương thức này.Theo Luật TTTM năm 2010 tại khoản 1 Điều 3 quy định:
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này”. Theo Luật TTTM năm 2010 đưa ra khái niệm thì theo
hướng mở rộng hơn về nội dung tranh chấp và lĩnh vực tranh chấp, đồng thời vẫn thể hiện
được bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp này là tôn trọng đến cùng sự thỏa thuận
1
của các bên tranh chấp. Vì thế khái niệm này mang những khía cạnh phù hợp hơn với pháp
luật TTTM của đa số các nước trên thế giới hiện nay.
2. Những nội dung cơ bản của pháp luật trọng tài thương mại
Pháp luật trọng tài thương mại gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM phát sinh trên cơ sở thỏa thuận tọng tài do các
bên tự nguyện xác lập. Tuy nhiên, không phải cứ có thỏa thuận trọng tài thì TTTM sẽ được
quyền giải quyết tranh chấp mà còn phụ thuộc vào giới hạn đối tượng trọng tài hay còn gọi là
khả năng giải quyết bằng trọng tài.


Luật TTTM 2010 quy định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài như sau:
-Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
-Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
-Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài thương mại
Theo khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: “Thỏa thuận trọng tài là thoả
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh”. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án – cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh
chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án
có thẩm quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài đòi hỏi có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa
thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”. Ngay cả khi hợp
đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải lập
thành văn bản.
Thứ ba, hình thức trọng tài thương mại
2
Trọng tài tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc (trọng tài adhoc) và trọng tài thường
trực (trọng tài quy chế).
-Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải
quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh
chấp.
-Trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài
hay các viện trọng tài nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các Trung tâm
trọng tài.
Thứ tư, trọng tài viên
Trọng tài viên phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định để có đủ khả năng tiến hành tố
tụng trọng tài.
Trọng tài viên do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên
nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó.
Thứ năm, tố tụng trọng tài thương mại

Tố tụng trọng tài, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hình thức trọng tài. Xuất phát từ bản chất của trọng tài là hình thức tài phán
tư, quyền lực trọng tài có được là do các đương sự thỏa thuận ủy quyền, không mang quyền
lực nhà nước nên tố tụng trọng tài có những điểm khác với tố tụng Tòa án.
Thứ sáu, thi hành quyết định của trọng tài thương mại
Phán quyết của trọng tài là chung thẩm có giá trị bắt buộc thi hành với các bên. Phán quyết
của trọng tài là quyết định của thiết chế giải quyết phi chính phủ nên cơ chế thi hành phán
quyết của trọng tài phải được đảm bảo, định chặt chẽ.
Điều 66 Luật TTTM 2010 đã quy định quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài theo đó:
“Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện
thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật
3
này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài”.
Thứ bảy, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Theo Luật TTTM 2010, Tòa án hỗ trợ TTTM các hoạt động như: hỗ trợ trọng tài vụ việc
trong việc thành lập Hội đồng trọng tài (Điều 41 Luật TTTM 2010); hỗ trợ trọng tài vụ việc
quyết định thay đổi Trọng tài viên (Khoản 4 Điều 42 Luật TTTM 2010); xem xét thỏa thuận
trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thực hiện được, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Hội đồng trọng tài thương mại (Điều 43 Luật TTTM 2010); quyết định áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 48 Luật TTTM 2010); có thể quyết định hủy bỏ hay không
hủy quyết định trọng tài (Điều 68 Luật TTTM 2010).
II. Hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại
1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Với quy định của Luật trọng tài, phạm vi thẩm quyền của trọng tài đã được mở rộng. Bất kỳ
tổ chức, cá nhân nào đều có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp miễn là
lĩnh vực đó phát sinh theo quy định của luật. Tuy nhiên, với quy định mở như vậy thì có cần
hướng dẫn chi tiết các loại tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại không?
Căn cứ theo Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 thì trọng tài thương mại được giải quyết
các loại việc sau: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát

sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các
bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Với quy định này, việc xác định
thẩm quyền của trọng tài thương mại sẽ gặp khó khăn ở 2 vấn đề: một là tranh chấp phát sinh
từ “hoạt động thương mại” được hiểu theo quy định nào? Nhiều ý kiến tiếp nhận khái niệm
“hoạt động thương mại” theo quy định của Luật thương mại năm 2005: “là hoạt động nhằm
mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại
và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”. Cách hiểu này rất hợp lí song vướng mắc ở
chỗ khái niệm “hoạt động thương mại” trên đây lại được hiểu trong khuôn khổ của Luật
4
thương mại năm 2005. Vấn đề thứ hai là “tranh chấp khác” mà Luật trọng tài thương mại quy
định giải quyết theo thủ tục trọng tài rất khó xác định trong pháp luật hiện hành Việt Nam.
Luật chưa tính đến các trường hợp khó xác định thẩm quyền của trọng tài như: + Trường
hợp các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp nhưng lĩnh
vực tranh chấp lại không thuộc phạm vi giải quyết theo quy chế của trung tâm trọng tài;
+ Trung tâm trọng tài từ chối thụ lý vì những lý do chủ quan của trung tâm như không có
trọng tài viên, khó giải quyết được khi áp dụng luật nước ngoài, ngôn ngữ nước ngoài hay
quy tắc tố tụng khác;
+ Các bên chọn cách thức giải quyết bằng cả trọng tài lẫn tòa án hay chọn nhiều trung tâm
trọng tài trong cùng một thỏa thuận.
Nên cần sớm có những quy định cụ thể hướng dẫn để hạn chế những trường hợp như vậy.
2. Thỏa thuận trọng tài thương mại
Thứ nhất, so với Pháp lệnh trọng tài thương mại, Luật trọng tài thương mại còn có quy định
là thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “vi phạm điều cấm của pháp luật” (khoản 6 Điều 18). Tuy
nhiên, Luật lại không cho biêt điều cấm của pháp luật là gì? Bộ luật dân sự có quy định về
điều cấm của pháp luật nhưng vẫn còn rất chung chung. Trong tương lai, đây có thể là một
quy định sẽ được khai thác nhiều, nhất là đối với thỏa thuận trọng tài liên quan đến pháp luật
cạnh tranh, phá sản vì đây là những vấn đề mà nhiều ý kiến cho rằng không được giải quyết
bằng trọng tài.
Thứ hai, Điều 6 Luật trọng tài thương mại chỉ nêu thuật ngữ “thỏa thuận trọng tài không thể
thực hiện được” mà không làm rõ khái niệm trên. Sự thiếu sót này đã gây cản trở các bên

trong việc áp dụng pháp luật để xác định trường hợp nào là thỏa thuận trọng tài không thực
hiện được để họ cân nhắc trước khi xây dựng thỏa thuận trọng tài.
Thứ ba, bất cập khi áp dụng pháp luật tại thời điểm ký thỏa thuận trọng tài.
Khoản 3 Điều 81 LTTTM quy định: “các thỏa thuận trọng tài được ký kết trước ngày luật này
có hiệu lực được thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm ký thỏa thuận trọng tài”.
5
Nếu áp dụng quy định này sẽ có nhiều trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thục hiện
được. Ví dụ như một thỏa thuận trọng tài không nêu rõ tên tổ chức trọng tài giải quyết tranh
chấp được ký kết năm 2010 nhưng đến năm 2011 mới phát sinh tranh chấp, nếu áp dụng
PLTTTM (có hiệu lực tại thời điểm ký thỏa thuận trọng tài” thỏa thuận này vô hiệu theo
khoản 4 Điều 10, nhưng nếu áp dụng LTTTM (có hiệu lực sau thời diểm ký thỏa thuận), thỏa
thuận có giá trị pháp lý.
Mặt khác lĩnh vực thuộc thẩm quyền của trọng tài theo Luật đã được mở rộng nhiều so với
PLTTTM, như vậy sẽ có trường hợp áp dụng PLTTTM thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu vì
tranh chấp phát sinh không thuộc thẩm quyền của trọng tài, nhưng nếu áp dụng LTTTM thỏa
thuận đó vẫn có giá trị pháp lý.
Nếu áp dụng pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký thỏa thuận trọng tài sẽ dẫn đến nhiều thỏa
thuận trọng tài bị vô hiệu trong khi thỏa thuận này hoàn toàn phù hợp với pháp luật mới.
3. Luật TTTM chưa có quy định về trách nhiệm của trọng tài viên
Bởi trọng tài có cùng chức năng xét xử như thẩm phán do đó trọng tài cũng được hưởng
quyền miễn trừ trách nhiệm đối với những gì mà họ phán xét. Tuy nhiên, quyền miễn trừ này
không tuyệt đối. Dưới một góc độ khác, trọng tài là người cung cấp dịch vụ pháp lý đặc biệt,
pháp luật đã quy định những tiêu chuẩn, nguyên tắc trong quá trình làm việc mà trọng tài phải
đảm bảo, cho nên trọng tài hoàn toàn có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật nghề nghiệp, trách
nhiệm dân sự thậm chí trách nhiệm hình sự trong quá trình hành nghề không tuân thủ đúng
quy định của pháp luật, gây thiệt hại.
Luật luật sư 2006, Luật Công chứng 2006 có quy định về trách nhiệm hành nghề của lậu sư
cũng như công chứng viên (khoản 5 Điều 5 Luật Luật sư; khoản 3 Điều 3 Luật Công chứng)
nhưng trách nhiệm của trọng tài viên lại không được đề cập. Hiện nay khi chưa có quy định
nào về trách nhiệm của hợp đồng nên việc xem xét trách nhiệm của trọng tài có thể theo

hướng trách nhiệm hợ đồng. Quan hệ giữa trọng tài với các bên đương sự có thể coi là quan
hệ hợp đồng, trọng tài có trách nhiệm thực hiện công việc vì lợi ích chung của các bên và
được nhận thù lao mà các bên chi trả, thù lao này được trả ngay cả khi trọng tài không ban
6
hành được phán quyết. Do đó khi trọng tài viên vi phạm, tòa án có thể xem xét trên các yếu tố
là có hành vi vi phạm, có thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với hành vi của
trọng tài để truy cứu trách nhiệm.
4. Hình thức trọng tài thương mại
Các quy định về trọng tài vụ việc hiện nay chưa được chi tiết, cụ thể.
Trọng tài vụ việc có một số khác biệt so với trọng tài thường trực nên không thể áp dụng tất
cả các quy định về thủ tục trọng tài cho cả hai hình thức. Một số nội dung cần được làm rõ
đối với trường hợp trọng tài vụ việc như: thời gian thành lập hội đồng trọng tài trong trường
hợp có khiếu nại về quyết định chỉ định trọng tài viên cho bị đơn; thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài vụ việc; lưu trữ hồ sơ trọng tài, các quy định về phí trọng tài để tính thuế thu nhập
các nhân của trọng tài, khấu trừ thuế thu nập cho doanh nghiệp…
Luật TTTM chưa dự liệu trường hợp quyết định chỉ định trọng tài viên cho bị đơn bị khiếu
nại. Khi có sự khiếu nại quyết định chỉ định trọng tài viên của Tòa án thì trong thời gian bao
lâu, hai trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài vụ việc sau khi có quyết định
giair quyết khiếu nại của Tòa án?
5. Tố tụng trọng tài thương mại
Luật trọng tài không có quy định về thủ tục xét lại quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với
quyết định của tòa án về phán quyết trọng tài.
Theo Điều 55 PLTTTM 2003, các bên có quyền kháng cáo, VKS cùng cấp hoặc VKSNDTC
có quyền kháng nghị quyết định của Tòa án về việc hủy hay không hủy quyết định trọng tài.
Giám đốc thẩm, tái thẩm ở đây là về quyết định của tòa án chấp nhận hay không chấp nhận
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, chứ không phải giám đốc thẩm, tái thẩm phán quyết
trọng tài. Điều này nhằm khắc phục những sai sót trong hoạt động của tòa án có thể xảy ra
làm ảnh hưởng đến giá trị của phán quyết trọng tài, quyền lợi của các bên đương sự. Tuy
nhiên, LTTTM được thông qua lại không có quy định này.
7

Điều 133 Hiến pháp 1992 nước CHXHCNVN quy định: “TANDTC là cơ quan xét xử cao
nhất của nước CHXHCNVN. TANDTC giám đốc việc xét xử của các tòa án nhân dân địa
phương và các tòa án quân sự…”. Như vậy việc không cho phép giám đốc thẩm đối với các
quyết định của tòa án về trọng tài cũng như các quyết định của trọng tài phải chăng đã không
tuân thủ Hiến pháp? Điều này làm cho sai sót của tòa nếu không được khắc phục sẽ gây thiệt
hại cho các bên đương sự, đồng thời có thể tạo ra tình trạng áp dụng không thống nhất pháp
luật giữa các địa phương trên cả nước.
Để đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được đúng đắn LTTTM có quy
định về hủy phán quyết trọng tài, song việc đảm bảo giá trị cho phán quyết trọng tài cũng cần
toàn diện ở chỗ, nếu có thủ tục hủy quyết định trọng tài của tòa án, cũng cần có thủ tục để
xem xét quyết định về phán quyết trọng tài đó có đúng hay không.
6. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
Thứ nhất, cơ chế để tòa án thực hiện hoạt động thay đổi trọng tài viên đối với trọng tài vụ
việc chưa được xác định rõ trong luật TTTM. Tòa án có chức năng xét xử, do đó ban đầu
không thể biết rõ về các trọng tài viên để lựa chọn. Vì vậy, tòa án cần nhận được sự giúp đỡ
của các Trung tâm Trọng tài, Hội luật gia hoặc Hiệp hội ngành nghề ở trung ương để các tổ
chức này giới thiệu người có thể được chỉ định làm Trọng tài viên.
Thứ hai, theo Điều 44 Luật TTTM thì nếu các bên không đồng ý với quyết định của Hội đồng
trọng tài về vấn đề thẩm quyền thì có quyền khiếu nại ra Tòa án. Quyết định của Tòa án là
quyết định cuối cùng. Quy định như vậy, sự tham gia của Tòa án có thể gây ảnh hưởng đến
quá trình ra phán quyết trọng tài.
Thứ ba, vấn đề Tòa án hỗ trợ trong việc đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phát sinh một số
khó khăn như: Tòa án trước khi thực hiện đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc còn phải xem
xét xem các bên có ký hợp đồng với nhau hay không, có thỏa thuận trọng tài hay không, năng
lực pháp luật và năng lực hành vi của những người ký kết hay không, việc xử có thật hay
không… Như vậy là tăng gánh nặng cho Tòa án. Hơn nữa, Tòa án hiện chưa có bộ phận riêng
8
để thực hiện việc đăng ký, hỗ trợ này. Tòa án có cần phải có bộ phận riêng này hay không và
thực hiện đăng ký như thế nào, thì vẫn phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ tư, Tòa án hỗ trợ trong việc hủy phán quyết trọng tài

+ Liên quan đến việc thay đổi người tiến hành tố tụng, các bên liên quan có quyền yêu cầu
thay đổi Hội đồng xem xét đơn yêu cầu không, khi mà Hội đồng đó đã do Chánh án chỉ định.
Nếu có thì giải quyết thế nào? Mặt khác, Luật TTTM có quy định tại khoản 5 Điều 71 rằng:
khi bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt không có
lý do chính đáng thì Hội đồng ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu. Tuy nhiên, “lý do
chính đáng” ở đây được hiểu như thế nào, và có đình chỉ việc xét đơn yêu cầu không khi chưa
xác định được lý do của việc vắng mặt là chính đáng hay không chính đáng. Cần quy định rõ
những vấn đề này vì đây là những trường hợp sẽ xảy ra trên thực tế.
+ Trường hợp hủy vì lý do “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam” (điểm đ, khoản 2, điều 68 Luật TTTM): nội hàm khái niệm “các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam” chưa được làm rõ. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, chưa có một định nghĩa chính thức cho khái niệm này, khiến cho việc áp dụng quy định
này trên thực tế ở các tòa án khác nhau còn chưa thống nhất.
+ Còn có những điểm không thống nhất giữa Luật TTTM với Bộ luật TTDS. Việc giải quyết
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là một trong những loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án. Do đó, Tòa án ngoài việc tuân thủ các quy định của Luật TTTM, còn phải
tuân thủ các quy định của BLTTDS. Theo điều 313 BLTTDS thì ngay sau khi ra quyết định
mở phiên họp giải quyết việc dân sự, Tòa án phải gửi hồ sơ cho VKS cùng cấp nghiên cứu.
VKS phải nghiên cứu hồ sơ trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, hết thời hạn này
VKS phải trả lại hồ sơ để Tòa án mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Còn luật TTTM dường
như lại có cách tiếp cận khác khi quy định Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng
cấp trong thời hạn 7 ngày làm việc, trước ngày mở phiên tòa.
9
III. Hướng hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Nghị định hướng dẫn thi hành LTTTM 2010 nên quy định cụ thể những tranh chấp nào thuộc
phạm vi của trọng tài để hạn chế xung đột về thẩm quyền giữa trọng tài và tòa án. Đồng thời,
các văn bản pháp luật cần giải thích theo hướng mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài,
tôn trọng ý chí tự do thỏa thuận của các bên tranh chấp. Về vấn đề này, tại hội thảo góp ý xây
dựng nghị định hướng dẫn thi hành LTTTM 2010, có ý kiến đề nghị nên quy định thẩm

quyền trọng tài theo hướng loại trừ, mở rộng thẩm quyền của trọng tài ra cả những tranh chấp
dân sự, trừ một số tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, quan hệ hôn nhân, gia đình và
thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự. Đề xuất trên là phù hợp với pháp luật trọng tài
của nhiều nước trên thế giới.
2. Thỏa thuận trọng tài thương mại
-Văn bản hướng dẫn luật nên bổ sung và làm rõ khái niệm thế nào là “thỏa thuận trọng tài
không thực hiện được” để các bên tranh chấp cũng như trọng tài viên dễ dàng áp dụng và đối
chiếu giải quyết tranh chấp. Ví dụ như trường hợp các bên thỏa thuận trung tâm trọng tài cụ
thể nhưng lĩnh vực tranh chấp đó không thuộc phạm vi giải quyết trong quy chế của trung
tâm trọng tài được chỉ định từ chối áp dụng giải quyết; các bên chọn cách thức giải quyết
bằng cả trọng tài lần tòa án hoặc chỉ rõ nhiều trung tâm trọng tài và cách thức giải quyết trọng
tài trong cùng một thỏa thuận trọng tài
-Việc áp dụng pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký kết thỏa thuận trọng tài trong một số
trường hợp trở nên không hợp lý, nghị định hướng dẫn cần quy định có sự vận dụng pháp luật
linh hoạt, mềm dẻo trong những trường hợp như vậy để không bị lãng phí những thỏa thuận
trọng tài đã được thành lập.
3. Trách nhiệm trọng tài viên
10
Cần phải có quy định về trách nhiệm của trọng tài viên khi hành nghề một cách hợp lý để
nâng cao tinh thần trách nhiệm của trọng tài viên. Trọng tài viên phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về phán quyết của mình.
4. Hình thức trọng tài thương mại
Cần quy định về thời gian thành lập Hội đồng Trọng tài vụ việc trong trường hợp có khiếu
nại quyết định chỉ định trọng tài viên cho bị đơn. Quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng
về tính hợp pháp, liên tục của tố tụng trọng tài, bởi lẽ, nếu hai thành viên không thể tự mình
bầu được Chủ tịch Hội đồng Trọng tài thì các bên phải đề nghị Tòa án có thẩm quyền chỉ
định Chủ tịch Hội đồng Trọng tài theo quy định tại Khoản 3 Điều 41 LTTTM chứ không thể
kéo dài tố tụng. Luật TTTM cần quy định: “Trong trường hợp có khiếu nại quyết định chỉ
định trọng tài viên cho các bên, thì trong vòng 15 ngày kể từ ngày Tòa án có văn bản giải
quyết khiếu nại, hai trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài để giải quyết vụ

kiện”.
5. Tố tụng trọng tài thương mại
-Hướng dẫn về các thời hạn và thời gian gia hạn trong tố tụng trọng tài: đối với hầu hết thời
hạn trong tố tụng trọng tài cần có quy định về trường hợp bất khả kháng để khấu trừ thời gian
cho phù hợp. Đồng thời cần quy định rõ thời gian trong một số trường hợp là tính ngày làm
việc và một số trường hợp là tính cả các ngày nghỉ. Quy định về cách giải quyết khi vi phạm
quy định thời hạn trong tố tụng trọng tài.
-Cần quy định về thủ tục xét lại quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với quyết định của
tòa án về phán quyết trọng tài.
6. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
-Cần làm rõ khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Cần cân nhắc việc
thay thế khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” bằng khái niệm “trật tự
công cộng” để phù hợp hơn với Công ước New York năm 1958, Luật Mẫu và với thực tiễn
pháp luật các nước trên thế giới. Tòa án các nước về cơ bản là đều giải thích điều khoản trật
11
tự công cộng theo nghĩa rất hẹp, và hạn chế từ chối thi hành hoặc hủy quyết định trong tài,
chỉ trong trường hợp cực kỳ hãn hữu mà thôi. Vì thế, một quyết định trọng tài quốc tế sẽ
không bị hủy bỏ hoặc từ chối công nhận chỉ đơn giản vì không phù hợp với yêu cầu trong
nước. “Trật tự công cộng” đảm bảo cho các Tòa án Việt Nam có thể từ chối công nhận một
quyết định trọng tài trái với trật tự công quốc tế. Do đó, nên thay khái niệm “những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” bằng thuật ngữ “trật tự quốc tế”.
Nếu không áp dụng phương án này, thì cần phải thống nhất về cách hiểu, giải thích và áp
dụng các quy định về “những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” dựa trên việc tổng
kết xét xử của Tòa án và nâng nó lên thành một tài liệu pháp lý để đạt được sự chấp nhận
chung của các nhà làm luật cũng như thực tiễn công tác xét xử.
-Luật Mẫu có một quy định có thể cho là ưu điểm của Luật Mẫu, đã hạn chế sự tham gia của
Tòa án có thể ảnh hưởng đến quá trình ra phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài có thể lựa
chọn giải quyết tất cả các vấn đề cùng một lúc trong một phán quyết cuối cùng. Khoản 3 Điều
16 Luật Mẫu quy định: “Hội đồng trọng tài có thể quyết định về đơn yêu cầu về việc Hội
đồng trọng tài không có thẩm quyền xét xử như là vấn đề mở đầu hoặc giải quyết tại quyết

định về nội dung tranh chấp. Nếu Hội đồng trọng tài giải quyết như là một vấn đề mở đầu là
ủy ban có thẩm quyền xét xử, thì bất kỳ bên nào cũng có thể, trong vòng 30 ngày sau khi
nhận được thông báo về quyết định này, đề nghị Tòa án được xác định tại điều 6 quyết định
vấn đề này, quyết định này không bị kháng án”. Luật trọng tài thương mại nên thay đổi theo
hướng này của luật Mẫu.
7. Cần xác định địa phương nào được thành lập trung tâm trọng tài và quy định rõ
số lượng trung tâm trọng tài tại mỗi địa phương
Trong thời gian qua dù việc phát triển các trung tâm trọng tài ở nước ta là chưa nhiều, song
để quản lý tốt hoạt động trọng tài, trong thời gian tới cần có quy định cụ thể và chặt chẽ hơn
về việc thành lập các trung tâm trọng tài. Việc xác định số lượng các trung tâm trọng tài ở các
địa phương vừa là trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài, vừa thể hiện thái
độ của Nhà nước trong việc khuyến khích hoạt động trọng tài. Trong thời gian đầu, cần quy
12
định về giám sát chặt về số lượng các trung tâm trọng tài mới thành lập; sau này khi trọng tài
ở giai đoạn phát triển, việc thành lập các trung tâm trọng tài sẽ chịu sự điều tiết của cơ chế thị
trường. Thành lập các trung tâm trọng tài dựa vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội của từng
khu vực có thể căn cứ trên các yếu tố như trình độ phát triển, số lượng dân cư, số lượng
doanh nghiệp… Mặt khác, số lượng hợp lý các trung tâm trọng tài ở một khu vực sẽ tạo điều
kiện cho các bên trong tranh chấp có sự lựa chọn trọng tài hợp lý, đồng thời đảm bảo cung
cấp đủ số lượng các trọng tài viên có chất lượng.
8. Cần hướng dẫn nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài trong quá trình trọng
tài
Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên
lựa chọn. Việc lựa chọn pháp luật nước ngoài và áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Vậy cần hiểu các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt nam như thế nào?
Do đó cần có sự tổng kết từ công tác xét xử thực tiễn của Tòa án để giải thích cụ thể về các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam để việc áp dụng nguyên tắc này được thuận tiện.
9. Cho phép áp dụng án lệ trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Việc áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại nói riêng và tranh chấp

thương mại nói chung được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia. Trong hoạt động xét xử của
Tòa án Việt Nam, việc áp dụng án lệ đã được từng bước thực hiện một cách không chính thức
trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động xét xử của TANDTC đối với
Tòa án các cấp dưới hình thức báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm; các công văn khoa học
xét xử, ban hành rộng rãi các quyết định Giám đốc thẩm đối với các bản án hình sự, dân sự,
thương mại, lao động và hành chính. Vì thế trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, pháp
luật cần có sự ghi nhận việc áp dụng án lệ. Việc tìm hiểu, chọn lọc, tiếp thu kinh nghiệm của
các nước bổ dung cho pháp luật trọng tài Việt nam là hết sức cần thiết trong thời điểm hiện
nay khi nước ta đang hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, các tranh chấp thương
mại có yếu tố nước ngoài nagyf càng nhiều.
13
10. Phí trọng tài
Chính phủ cần quy định khung hay giới hạn về phí trọng tài và mức lệ phí Tòa án liên quan
đến trọng tài. Hoạt động của trọng tài là hoạt động tư song Chính phủ cũng cần có sự kiểm
soát nhất định về nguồn thu của trọng tài viên, các trung tâm trọng tài để có căn cứ tính thuế
hợp lý tạo nguồn thu cho ngân sách. Cần có quy định về phí trọng tài cũng như mức lệ phí tòa
án liên quan trong một số trường hợp để các trung tâm trọng tài không lợi dụng thu phí bất
hợp lý, chiếm dụng những khoản phí mà các bên đã nộp.
11. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của trọng tài
Luật TTTM chỉ là một văn bản pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực thuộc hệ thống pháp luật
kinh tế, nằm trong mối quan hệ tổng hợp với các văn bản pháp luật khác như Luật thương
mại, Luật hàng không dân dụng, Bộ luật hàng hải, Luật đầu tư…Ngoài ra Luật TTTM còn
liên quan chặt chẽ đến các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại như thi
hành án, tố tụng dân sự. Do vậy cần có sự hoàn thiện một cách đồng bộ các văn bản pháp luật
liên quan để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.
12. Tham gia công ước ICSID
ICSID là tên viết tắt tiếng Anh của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Trọng tài
theo ICSID là một quy trình độc lập, được quản lý bằng hai công cụ pháp lý là Công ước
ICSID và các nguyên tắc trọng tài ICSID. Ưu điểm của công ước và trung tâm trọng tài này
là: việc tham gia vào công ước là hoàn toàn tự nguyện song một khi đã tham gia thì không

được rút khỏi côn gước. Các quốc gia thành viên dù không phải là bên tranh chấp vẫn phải
tiến hành công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài ICSID.
KẾT LUẬN
Pháp luật trọng tài thương mại hiện hành, mà văn bản có tính chất nền là LTTTM 2010, về
cơ bản đã khắc phục được nhiều yếu kém, hạn chế của các quy định trước đây, làm cho pháp
luật về trọng tài thương mại ở nước ta trở nên hoàn thiện hơn, không chỉ phù hợp với thực
tiễn kinh tế - xã hội của Việt Nam mà còn phù hợp với pháp luật quốc tế về trọng tài thương
mại. Luật trọng tài thương mại 2010 đã tiếp thu những điểm hợp lý và phổ biến trong lĩnh
14
vực giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài của một số nước và xu thế phát triển của
TTTM thế giới. Tuy vậy, quá trình thực hiện cho thấy quy định của pháp luật TTTM của
chúng ta đã bộc lộ những bất cập, dẫn đến quá trình thực hiện có những vướng mắc, chưa tạo
ra được cơ chế thật sự thông thoáng cho hoạt động TTTM. Thực tế này đòi hởi pháp luật
TTTM phải được tiếp tục hoàn thiện mới có thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Tập II, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2006.
2. Luật trọng tài thương mại 2010.
3. Luật Thương mại 2005.
4. Trần Thanh Huyền, Một số vấn đề pháp lí cơ bản về thỏa thuận trọng tài theo Luật
trọng tài 2010, Luận văn tốt nghiệp, 2012.
5. Đỗ Phương Hiền, Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
theo quy định Luật trọng tài thương mại năm 2010, Khóa luận tốt nghiệp, 2012.
6. Lê Thị Vân Anh, Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo quy
định của Luật trọng tài thương mại năm 2010.
7. Lê Thị Nhàn, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài thương mại, Luận văn thạc sĩ Luật học.
8. Nguyễn Minh Châu, Tìm hiểu pháp luật về tọng tài thương mại Việt Nam, Khóa luận
tốt nghiệp.

15

×