Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





TRÀ ĐÌNH THỨ




PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





TRÀ ĐÌNH THỨ




PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG

Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.


NGƢỜI CAM ĐOAN



Trà Đình Thứ



















MỤC LỤC

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG 7
1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 7
1.1.2. Khái niệm nợ xấu, mua, bán nợ xấu 9
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ 16
1.1.4. Về nguyên tắc thực hiện mua, bán nợ xấu của NHTM 17
1.1.5. Phân loại nợ của NHTM 19
1.2. Thực trạng nợ xấu 22
1.2.1. Nguyên nhân nợ xấu 26
1.2.2. Vai trò, mục đích của hoạt động mua, bán nợ của TCTD 28
1.3. Các hình thức mua, bán nợ 31
1.3.1. Khái niệm hợp đồng mua bán, nợ 31
1.3.2. Các hình thức mua, bán nợ 32
1.4. Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của TCTD 34
1.4.1. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ của TCTD 34
1.4.2. Đặc điểm pháp luật mua bán nợ xấu của NHTM 35
1.4.3. Nội dung pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, NỢ CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 39
2.1. Chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán, nợ của TCTD 39
2.1.1. Bên bán nợ là TCTD 39
2.1.2. Bên mua nợ 41
2.1.3. Vai trò của NHNN đối việc mua bán nợ 52
2.2. Về phƣơng thức mua, bán nợ 52
2.3. Đối tƣợng của hợp đồng mua, bán nợ 54
2.4. Hình thức của hợp đồng mua, bán nợ 62

2.5. Nội dung của hợp đồng mua, bán nợ 63
2.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua, bán nợ 66
2.6.1. Quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ 66
2.6.2. Quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ 68
2.6.3. Quyền và nghĩa vụ của bên nợ và các bên thực hiện biện pháp bảo đảm cho
khoản nợ 68
2.7. Quy trình xác lập và thực hiện hoạt động mua, bán nợ 69
2.8. Bên môi giới 71
2.9. Các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động mua, bán nợ của
các TCTD 72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 75
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ
PHÁP LUẬT HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TCTD Ở VIỆT NAM 76
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của TCTD ở Việt
Nam 76
3.1.1. Căn cứ vào tình hình nợ xấu ngân hàng 77
3.1.2. Giải quyết bất cập của pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD
hiện nay 78
3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các
TCTD ở Việt Nam 80
3.2.1. Về các chủ thể tham gia hoạt động mua, bán nợ 81
3.2.2. Đối với bên mua nợ 81
3.3.3. Về khoản nợ đƣợc mua, bán, khung giá khoản nợ 84
3.3.4. Về phƣơng thức mua, bán nợ 86
3.3.5. Về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua, bán nợ xấu của NHTM ở Việt
Nam 87
3.3.6. Đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng 88
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 94
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96










DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AMC : Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng
thƣơng mại (Asset Management Company).
AEG : Nhóm chuyên gia tƣ vấn của Liên Hiệp quốc (Advisory Expert Group).
BCBS : Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (Basel Committee on
Banking Supervision).
DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tổn đọng của doanh nghiệp (Debt
and Asset Trading Corporation).
KAMCO : Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc (Korean Assent Management Corporation).
NHNN : Ngân hàng Nhà nƣớc
NHTM : Ngân hàng thƣơng mại
TCTD : Tổ chức tín dụng
VAMC : Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
WTO : Tổ chức thƣơng mại thế giới (World Trade Organizatio













DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Nợ xấu của c ác ngân hàng thƣơng mại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012 23




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật về ngân hàng có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế
và là bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trƣờng; hoạt động ngân hàng trong
thời gian qua đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên, hoạt động kinh doanh
ngân hàng luôn tìm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro trong tín dụng có thể xảy ra bất cứ
lúc nào và trong những năm gần đây thì hoạt động ngân hàng đã dần bộc lộ những
hạn chế, yếu kém, dễ tổn thƣơng, đe dọa gây đổ vỡ cả hệ thống ngân hàng, gây ảnh
hƣởng nghiêm trọng đến cả nền kinh tế. Một vấn đề đang đƣợc giành nhiều sự quan
tâm của xã hội đó là sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu ở các tổ chức tín dụng (TCTD); sự tồn
đọng và phát triển của nợ xấu xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu nợ
xấu cứ ngày một gia tăng sẽ có tác động tiêu cực không chỉ tới hệ thống các ngân
hàng mà còn ảnh hƣởng xấu tới cả nền kinh tế.
Để xử lý vấn đề này, Ngân hàng Nhà nƣớc (NHNN) đã đƣa ra rất nhiều
phƣơng án xử lý nhƣ thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc
ngân hàng thƣơng mại (AMC), Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh

nghiệp (DATC); Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các TCTD Việt
Nam (VAMC), ban hành bổ sung các văn bản pháp luật liên quan, chỉ đạo các
TCTD chủ động triển khai các giải pháp để xử lý nợ xấu…Đối với các TCTD cũng
đã đƣa ra nhiều biện pháp khác nhau, mỗi giải pháp đƣợc lựa chọn phụ thuộc vào
khách hàng đi vay, tùy thuộc tình hình của ngân hàng đồng thời phụ thuộc vào nền
kinh tế. Qua đó, các ngân hàng cho vay có thể tiến hành cơ cấu lại khoản nợ nếu
khách hàng chỉ gặp khó khăn tạm thời; dùng các nguồn dự phòng rủi ro để xóa nợ
cho khách hàng là đối tƣợng vay không còn tồn tại hoặc không thể thu hồi; xử lý tài
sản bảo đảm; khởi kiện ra tòa… Tuy nhiên, một giải pháp có thể mang lại hiệu quả,
giúp thu hồi nhanh phần nào khoản nợ cho các TCTD đó là thực hiện bán quyền đòi
nợ cho các nhà đầu tƣ và giải pháp này đang đƣợc xem là một tất yếu khi tình hình
nợ xấu và nhu cầu cần xử lý nợ ngày càng gia tăng, ảnh hƣởng xấu đến hoạt động
kinh doanh của các TCTD.




2
Trong những năm qua Chính phủ và NHNN đã ban hành rất nhiều văn bản
pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD nhƣng việc thực hiện hoạt động
này còn có nhiều điểm bất cập. Các văn bản pháp luật hiện hành còn thiếu những
quy định cần thiết, nhiều điểm chƣa hợp lý, không phù hợp với thực tiễn. Vì vậy,
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD là
một yêu cầu cấp thiết. Giải quyết đƣợc vấn đề này sẽ giúp cho việc đẩy nhanh tiến
độ giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của
ngân hàng, làm lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi có
sự nghiên cứu cụ thể và giải đáp thấu đáo cả từ phƣơng diện lý luận đến thực tiễn.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế đất nƣớc và hội nhập nền kinh tế quốc tế,

nhất là khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO thì vấn đề tiếp
tục hoàn thiện môi trƣờng kinh doanh và các quy định pháp lý là một vấn đề hết sức
quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên đã giúp tôi lựa chọn đề tài: “Pháp luật về
hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” để làm Luận văn
Thạc s Luâ
̣
t ho
̣
c. Với đề tài này, tác giả mong muốn nghiên cứu, phân tích các quy
định pháp luật về mua, bán nợ để hiểu sâu hơn về thực trạng này và cung cấp những
cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật hiện hành, lý
giải những tồn tại, vƣớng mắc, chỉ rõ nguyên nhân và tìm ra những giải pháp đề
xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng chủ yếu của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD là các khoản
nợ xấu. Hoạt động mua, bán nợ là một trong những giải pháp quan trọng để xử lý
nợ xấu. Hiện nay cũng đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về xử lý nợ
xấu ngân hàng ở nhiều góc độ, nhiều đối tƣợng, khác nhau.Ví dụ, bài “Tình hình xử
lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua – những tồn
tại, vướng mắc và giải pháp tháo gỡ nhằm ngăn ngừa và xử lý nợ tồn đọng” của




3
Trần Minh Tuấn, Phó Thống đốc NHNN; “Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam” của TS. Lê Quốc Lý, Bộ Kế hoạch Đầu
tƣ; “Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Phƣơng Lan, Phó Viện trƣởng Viện Nghiên

cứu khoa học ngân hàng; “Thực trạng nợ xấu của các TCTD ở Việt Nam – Nguyên
nhân và một số giải pháp từ chính sách pháp luật” của ThS. Nguyễn Thanh Tú và
Nguyễn Thị Hồng Nhung; luận văn thạc s nghiên cứu về chuyên đề nợ xấu, điển
hình là luận văn thạc s “Pháp luật về xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại
Nhà nước ở Việt Nam” của Phạm Kim Thoa – Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà
Nội…Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích về thực trạng nợ xấu và nêu lên
những giải pháp để giải quyết tình trạng nợ xấu. Trong số các giải pháp đó, có giải
pháp thực hiện hoạt động mua, bán nợ và tạo lập thị trƣờng mua, bán nợ tại Việt
Nam. Việc xử lý nợ xấu của NHTM tại VAMC đang đƣợc tập trung nghiên cứu, tuy
nhiên, chƣa có công trình nào nghiên cứu khía cạnh pháp lý quy định của “pháp luật
về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam” ở cấp độ lý luận và thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu ở ngân hàng thƣơng mại. Vì vậy, với đề tài này
phần nào đáp ứng đƣợc tính cấp thiết của việc nghiên cứu pháp luật về hoạt động
mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.
Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật, phù
hợp với đòi hỏi của thực tiễn với những đề xuất, kiến nghị của đề tài hy vọng đem
lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt
động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Thông qua đề tài này, tác giả hy vọng
rằng, kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu hoạt
động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam trong tƣơng lai.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài này và thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề
lý luận về vai trò, mục đích của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD trong nền
kinh tế và thực trạng các quy định pháp luật của Việt Nam; đề tài tập trung nghiên
cứu những quy định của pháp luật về hoạt động mua bán nợ của TCTD trong ngân




4

hàng thƣơng mại. Trong nội dung đề tài này, tác giả đƣa ra những nhận xét, đánh
giá về xu hƣớng áp dụng pháp luật về hoạt động mua, bán nợ ở Việt Nam và qua đề
tài này, tác giả muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện
pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ khái niệm về hoạt động mua, bán nợ của TCTD; vai trò, đặc điểm
của hoạt động mua, bán nợ đối với hoạt động tín dụng ngân hàng và nền kinh tế;
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về
hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam; những kết quả đạt đƣợc và
những bất cập trong việc xử lý nợ xấu các các ngân hàng thƣơng mại.
- Từ thực trạng tình hình hoạt động mua, bán nợ ở Việt Nam và những kinh
nghiệm của một số nƣớc trên thế giới đề ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về
hoạt động mua, bán nợ ở nƣớc ta.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là các quy định pháp luật điều chỉnh
hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam và việc thực thi các quy định này
trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu: Để đạt độ sâu trong việc đánh giá thực trạng pháp luật
của lĩnh vực này, tác giả chỉ lựa chọn nghiên cứu hoạt động mua, bán nợ của loại
hình TCTD là các ngân hàng thƣơng mại (NHTM). Ngoài ra, hoạt động mua, bán
nợ của các TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và qu tín dụng nhân dân
không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài, sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học để
phân tích lý luận và luận giải thực tiễn nhƣ phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng kết hợp các
phƣơng pháp phân tích, so sánh và tổng hợp; các học thuyết kinh tế đồng thời vận
dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới
nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.





5
Phƣơng pháp phân tích và so sánh đƣợc sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật về
hoạt động mua, bán nợ của các TCTD theo pháp luật Việt Nam. Phƣơng pháp tổng
hợp đƣợc sử dụng để đánh giá khái quát, rút ra kết luận về từng vấn đề trong phạm
vi nghiên cứu và đƣa ra những giải pháp, kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về
hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.
6. Những đóng góp của đề tài
Những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam nhƣng chƣa có đề tài nào
nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Luận
văn “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam”, có những
đóng góp sau đây:
+ Về tư liệu: Hệ thống hóa tƣ liệu, tài liệu, văn bản pháp lý về hoạt động
mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.
+ Về nội dung khoa học:
Thứ nhất, hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam đƣợc nghiên
cứu một cách có hệ thống về cả lý luận cũng nhƣ thực tiễn.
Thứ hai, luận văn tiếp cận tìm hiểu, nghiên cứu nguyên nhân, thực trạng về
hoạt động mua, bán nợ của các TCTD và chỉ ra những bất cập trong quá trình thực
thi các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở
Việt Nam.
Thứ ba, luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy
định pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD trong thời gian tới và nâng
cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xử lý tốt các vấn đề về nợ xấu trong giai
đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận

văn đƣợc thiết kế gồm ba chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động mua, bán nợ và pháp luật điều
chỉnh hoạt động mua bán nợ của các TCTD.




6
Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ của
các TCTD ở Việt Nam.
Chương 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện và một số kiến nghị về pháp luật hoạt
động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.




7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động mua, bán nợ của các TCTD
Trong những năm gần đây, các chủ thể tham gia thị trƣờng tài chính quốc tế đang
sử dụng rộng rãi một nghiệp vụ mới là mua, bán nợ. Nghiệp vụ này có tác dụng chính là
làm tăng tính thanh khoản và tính hiệu quả trong việc đầu tƣ vốn trên thị trƣờng của các
nhà đầu tƣ. Ngoài ra, nghiệp vụ mua, bán nợ còn đƣợc xem là công cụ để Nhà nƣớc tiến
hành điều tiết, kiểm soát các hoạt động tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế nhằm hƣớng
tới một nền kinh tế thịnh vƣợng và phát triển ổn định. Sự tồn tại của hoạt động mua, bán

nợ trong điều kiện hiện nay chính là nhu cầu đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, xử
lý những thua lỗ, yếu kém một cách tích cực bằng cách dịch chuyển nhanh chóng vốn
đầu tƣ vào lĩnh vực vừa an toàn, vừa có lợi nhuận.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của các hoạt động kinh tế, việc mua,
bán nợ nói chung và nghiệp vụ mua, bán các khoản nợ thƣơng mại nói riêng cũng
ngày càng gia tăng ở nhiều nƣớc trên thế giới, với sự tham gia của các định chế
trung gian tài chính mà điển hình là các ngân hàng. Nghiệp vụ này không chỉ có sự
tham gia tích cực của các định chế tài chính trung gian mà trên thực tế, chính quyền
cũng tỏ ra rất quan tâm đến hoạt động này, đặc biệt là các cơ quan có chức năng
quản lý tài chính và tiền tệ của đất nƣớc nhƣ Bộ Tài Chính và ngân hàng Trung
ƣơng. Ban đầu, hoạt động mua bán nợ xuất hiện nhƣ là sự cần thiết phải giải quyết
các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn nhằm xử ký hậu quả kinh doanh yếu kém và
từng bƣớc lành mạnh hoá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó chủ
yếu là các ngân hàng. Tuy nhiên, cùng với thời gian, do nhu cầu luân chuyển vốn
trong nền kinh tế, dần dần những khoản nợ nhƣ tài sản có của các doanh nghiệp và
ngân hàng đƣợc đem ra bán trở thành rộng rãi hơn trên thị trƣờng, trong đó bao gồm
các khoản nợ có mức độ rủi ro cao và thậm chí là cả những khoản nợ lành mạnh.




8
Thực tiễn mua, bán nợ trên thế giới cho thấy rằng các khoản nợ đƣợc giao dịch
trên thị trƣờng rất đa dạng, bao gồm các khoản nợ của Chính phủ dƣới dạng trái
phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nƣớc; các khoản nợ của doanh nghiệp và cá nhân phát
sinh trong đời sống dân sự và thƣơng mại; những khoản nợ của các định chế tài
chính trung gian; những khoản nợ bằng ngoại tệ có liên quan đến chủ nợ là các tổ
chức và cá nhân nƣớc ngoài nhƣ nợ Tổ chức quốc tế, nợ Chính phủ nƣớc ngoài và
nợ các tổ chức kinh tế, cá nhân nƣớc ngoài. Có thể nhận thấy rằng sự gia tăng hoạt
động mua, bán nợ trên thị trƣờng tài chính lâu nay là do sự gặp gỡ tự nhiên của

nguồn cung các khoản nợ cần bán từ phía các doanh nghiệp và nhu cầu mua nợ nhƣ
là một cơ hội kinh doanh của các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính chuyên
nghiệp nhƣ các ngân hàng. Mặt khác, kinh nghiệm điều hành nền kinh tế thị trƣờng
đã làm thay đổi cách nhìn nhận của Chính phủ đối với việc xử lý các khoản nợ có
vấn đề theo xu hƣớng nới rộng khả năng linh hoạt trong hoạt động đầu tƣ của các
doanh nghiệp và những định chế tài chính [35]. Ngày nay, việc mua, bán nợ càng
lúc càng thay đổi tuỳ theo nhu cầu phát triển của thị trƣờng và có thể chứa đựng
những tính chất khác hẳn so với các giao dịch ban đầu của thị trƣờng mua, bán nợ.
Hoạt động tín dụng ngân hàng luôn tìm ẩn nhiều rủi ro khi ngân hàng không thể
thu hồi đƣợc toàn bộ hoặc một phần gốc và lãi khi khoản vay đến hạn và khi ngân
hàng không thu hồi đƣợc nợ gốc và lãi thì ngƣời ta gọi là nợ xấu.
Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển thuộc Viện ngôn ngữ học, nhà
xuất bản Đà Nẵng năm 2006, nêu “Nợ” đƣợc hiểu là “cái vay phải trả mà chưa
trả”, với khái niệm này thì nợ chỉ giới hạn trong phạm vi các quan hệ vay tài sản.
Nợ đƣợc hiểu là khoản phải trả thì khoản phải trả đó là nghĩa vụ pháp lý. Theo quy
định tại Điều 280 Bộ Luật Dân sự 2005 thì nghĩa vụ dân sự: “Nghĩa vụ dân sự là
việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ)
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá thực hiện
công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác (sau đây gọi là bên có quyền)” với cách hiểu nghĩa vụ là xử sự
mà một ngƣời phải thực hiện (buộc phải làm hoặc không phải làm) đối với ngƣời




9
khác. Ở đây nghĩa vụ dân sự là quan hệ tài sản, việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể
luôn liên quan nghĩa vụ với một lợi ích vật chất cụ thể và có thể là sự dịch chuyển
tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (nhƣ quan hệ vay tài sản, mua bán tài sản,
mƣợn tài sản, thuê tài sản, …)

1.1.2. Khái niệm nợ xấu, mua, bán nợ xấu
Hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu:
Theo nhóm chuyên gia tƣ vấn Advisory Expert Group (AEG) của Liên hiệp
quốc cho rằng định nghĩa về nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên sử
dụng nhƣ hƣớng dẫn cho các ngân hàng. AEG thống nhất định nghĩa nhƣ sau: “Một
khoản nợ đƣợc coi là nợ xấu quá hạn trả lãi và /hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các
khoản lãi chƣa trả từ 90 ngày trở lên đã đƣợc nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả
theo thỏa thuận; hoặc các khoản vay phải thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhƣng
chƣa có lý do chắc chắc để nghi ngờ về khả năng thanh toán vay sẽ đƣợc thanh toán
đầy đủ” Nói cách khác, nợ xấu đƣợc khẳng định trên 02 yếu tố quá hạn 90 ngày;
khả năng trả nợ bị nghi nghờ.[49]
- Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS):
Ủy ban này không đƣa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các
hƣớng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng,
BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong
hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra: ngân hàng thấy ngƣời vay không có khả
năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chƣa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi;
ngƣời vay đã quá hạn trả nợ 90 ngày. Dựa trên hƣớng dẫn này nợ xấu sẽ bao gồm
toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 và có dấu hiệu ngƣời đi vay không trả
đƣợc nợ. BCBS cũng đề cập tới các khoản vay bị giảm giá trị sẽ xảy ra khi thu hồi
các khoản thanh toán từ khoản vay là không thể. Giá trị tổn thất sẽ đƣợc ghi nhận
bằng cách giảm trừ giá trị khoản vay thông qua một khoản dự phòng và sẽ đƣợc
phản ánh trên báo cáo thu nhập của ngân hàng. Nhƣ vậy lãi suất của các khoản vay
này sẽ không đƣợc cộng dồn và sẽ chỉ xuất hiện dƣới dạng tiền mặt thực tế nhận
đƣợc.Còn chuẩn mực Kế toán quốc tế (IAS) về ngân hàng thƣờng đề cập các khoản




10

nợ bị giảm giá trị (Impaired) thay vì sử dụng thuật ngữ nợ xấu (nonperforming).
Chuẩn mực kế toán IAS 39 đƣợc khuyến cáo áp dụng ở một số nƣớc phát triển vào
đầu năm 2005 chỉ ra rằng cần có bằng chứng khách quan để xếp một khoản vay có
dấu hiệu bị giảm giá trị. Trong trƣờng hợp nợ bị giảm giá trị thì tài sản đƣợc ghi
nhận sẽ bị giảm xuống những tổn thất do chất lƣợng nợ xấu gây ra.
Về cơ bản IAS39 chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời
gian quá hạn chƣa tới 90 ngày hoặc chƣa quá hạn. Phƣơng pháp đánh giá khả năng
trả nợ của khách hàng thƣờng là phân tích dòng tiền tƣơng lai chiết khấu hoặc xếp
hạng khoản vay của khách hàng. Hệ thống này đƣợc coi là chính xác về mặt lý
thuyết, nhƣng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó vẫn đƣợc Ủy
ban Chuẩn mực kế toán quốc tế chỉnh sửa lại trong IFRS 9.
- Theo Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF):
Trong hƣớng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia
(IFRS)2, IMF đƣa ra định nghĩa về nợ xấu nhƣ sau: “Một khoản vay đƣợc coi là nợ
xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất đã
quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã đƣợc vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoản theo thỏa
thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn 90 ngày nhƣng có thể nhận thấy rõ ràng
ngƣời đi vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ (ngƣời vay phá sản). Sau khi khoản
vay đƣợc xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng
nên đƣợc xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm xóa nợ hoặc thu hồi đƣợc lãi
và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi đƣợc khoản vay thay thế”
Từ những định nghĩa trên có thấy đƣợc sự tƣơng đồng trong cách nhận thức
về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một khoản nợ đƣợc coi
là nợ xấu khi xuất hiện 1 hoặc cả 2 dấu hiệu sau: Quá hạn trả nợ gốc và lãi; khi
khách hàng vay vốn bị TCTD hoặc ngân hàng coi là không có khả năng trả nợ. [49]
Ở Việt Nam, khái niệm nợ xấu đƣợc đề cập đến kể từ khi Quyết định số
493/2005/QĐ- NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN (sau đây gọi tắt là
Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN), Quyết định số 18/2007/QĐ- NHNN của Thống
đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về việc phân loại nợ





11
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Về khái niệm nợ xấu đƣợc định nghĩa tại Điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ-
NHNN, Khoản 3 Điều 1 Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN, Khoản 8 Điều 3 và
Điều 10 Thông tƣ 02/20013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích,
phƣơng pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, Theo đó, nợ
xấu là các khoản nợ thuộc các “nhóm nợ dƣới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi nghờ
(nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) ”
Theo quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Quyết định 18/2007/QĐ-
NHNN sửa đổi bổ sung một số điều tại Quyết định 493/2005/QQĐ-NHNN và
Thông tƣ 02/2013/TT-NHNN thì nợ xấu ngân hàng thƣơng mại đƣợc phân loại theo
phƣơng pháp định tính và theo phƣơng pháp định lƣợng.Tại Điều 7 Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN cho phép các TCTD có đủ khả năng và điều kiện đƣợc thực
hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo phƣơng pháp định tính. Theo
phƣơng pháp này, nợ cũng đƣợc phân thành 5 nhóm giống nhƣ cách phân loại nợ ở
Điều 6 nhƣng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chƣa thanh toán mà căn
cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của TCTD
đƣợc NHNN chấp thuận.
Nhƣ vậy, có thể hiểu, tại Việt Nam nợ ngân hàng bao gồm các khoản cho
vay ứng trƣớc, thấu chi và cho thuê tài chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khấu
thƣơng phiếu và giấy tờ có giá khác; các khoản bao thanh toán; các hình thức tín
dụng khác. Trong đó nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 bao gồm nợ dƣới
tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn quy định tại Điều 6, Điều 7 của
Quyết định 493/2005 và Quyết định 18/2007 và Thông tƣ 02/2013/TT-NHNN. Các
đạo luật liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân hàng chƣa có một định nghĩa chính

thức nào về hoạt động mua, bán nợ. Song, thuật ngữ mua, bán nợ cũng đã đƣợc đề
cập nhƣ một định nghĩa chính thức tại Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban
hành kèm theo Quyết định 140/1999/QĐ-NHNN, ngày 19/4/1999 của Thống đốc




12
NHNN theo đó “mua, bán nợ là hoạt động mua, bán theo đó bên bán chuyển giao
khoản nợ mà bên nợ hiện đang nợ bên bán nợ (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt) cho
bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán
nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với khoản nợ theo thoả thuận của hai
bên” và đƣợc quy định tại Khoản 1,2 Điều 3 Quyết định 59/2006/QĐ – NHNN,
ngày 21/12/2006 của Thống đốc NHNN Ban hành quy chế mua, bán nợ của các
TCTD sửa đổi bổ sung nhƣ sau:
“Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển
giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua
nợ” “Khoản nợ được mua, bán là khoản nợ được TCTD thành lập và hoạt động
theo Luật các TCTD, TCTD nước ngoài cho khách hàng vay (kể cả khoản trả thay
trong bảo lãnh) hiện đang còn dư nợ hoặc đang được theo dõi ngoại bảng”.
Theo thông tƣ 02/2013/TT-NHNN, nợ xấu là những khoản nợ đƣợc phân
loại vào nhóm 3 (nợ dƣới chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng
mất vốn); các nhóm nợ trên có các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở
lên. Tuy, có nhiều khái niệm khác nhau nhƣng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về
cơ bản cũng đƣợc xác định dựa trên hai yếu tố: (i) Các khoản dƣ nợ đã quá hạn từ
90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả nợ của khách hàng đƣợc xếp vào loại nghi ngờ về
khoản vay sẽ đƣợc thanh toán đầy đủ.
Mua, bán nợ có nhiều cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng nếu nợ là
nghĩa vụ pháp lý thì có thể đem bán đƣợc không và có ai dám mua không? Nhƣng
theo tác giả thì đối với hoạt động ngân hàng thì mua bán nợ là mua bán khoản cho

vay của ngân hàng cho các TCTD khác; và việc mua, bán nhƣ vậy đƣợc thực hiện
dựa trên quyền thu nợ của chủ nợ, chứ không phải nghĩa vụ trả nợ của con nợ.
Dƣới góc độ kinh tế, có quan điểm cho rằng hoạt động mua, bán nợ là hoạt
động tín dụng. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất hoạt động tín dụng của TCTD thì đây
là quan hệ chuyển giao vốn giữa TCTD với các tổ chức, cá nhân (khách hàng) theo
nguyên tắc hoàn trả và dựa trên cơ sở tín nhiệm.
Trong hoạt động nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thƣơng mại, cho vay là




13
hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.Nhƣ vậy, cho vay khác với
hình thức cấp tín dụng khác của TCTD: Chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
Trong nghiệp vụ cho vay, TCTD giao một khoản tiền nhất định trong một thời gian
nhất định cho bên đi vay để dung vào mục đích nhất định và phải hoàn trả cả gốc và
lãi khi đến hạn. Điều này có nghĩa là đối với hình thức cho vay thì khoản tiền vay
đƣợc chuyển giao trực tiếp hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay. Chủ thể tham
gia quan hệ cho vay là bên cho vay (TCTD) và bên đi vay (khách hàng vay). Hình
thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa TCTD và khách hàng là hợp đồng tín dụng
ngân hàng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên cho vay thông thƣờng là các
TCTD đƣợc thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật các
TCTD. Trong hợp đồng tín dụng phải đáp ứng các điều kiện nhất định theo quy
định của pháp luật nhƣ khách hàng vay vốn của TCTD phải sử dụng vốn vay đúng
mục đích nhƣ đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và phải hoàn trả cả gốc và lãi
vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Còn bên đi vay có
thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam hoặc cá nhân, pháp nhân nƣớc ngoài (sau đây

gọi chung là khách hàng vay) có quan hệ tín dụng với TCTD cũng phải thoả mãn
điều kiện nhất định của TCTD nhƣ phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự, chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật và mục đích sử dụng
vốn vay phải hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam
kết; có dự án đầu tƣ, phƣơng án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi và có hiệu quả,
nhƣ vậy có thể thấy:
- Tín dụng bao giờ cũng phát sinh trên cơ sở tín nhiệm.
- Bên chuyển giao vốn chuyển giao cho bên khác sử dụng trong một khoản
thời gian nhất định.
- Khi hết thời hạn sử dụng vốn, bên nhận chuyển giao vốn phải hoàn trả vốn
đã vay cho bên chuyển giao. Sự hoàn trả này thƣờng có giá trị lớn hơn so với giá trị




14
lúc cho vay ban đầu nghĩa là ngƣời đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay),
khoản giá trị dôi ra này đƣợc gọi là lãi suất tín dụng.
Từ nhận định trên, có thể thấy, quan hệ tín dụng là quan hệ làm chuyển dịch
quyền sở hữu có điều kiện, bởi lẽ việc ngƣời cho vay đòi lại tài sản đã cho vay khi
đến hạn chính là một quyền năng của chủ sở hữu. Đối với ngƣời đi vay khi vay vốn
phải sử dụng theo đúng mục đích của hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên và
nếu vi phạm quy định này thì đó sẽ là một trong những căn cứ làm chấm dứt hợp
đồng tín dụng. Điều này có nghĩa rằng bên đi vay không có toàn quyền định đoạt
đối với khoản vay.
Đối với hoạt động mua, bán nợ theo Quyết định 59/2006/QĐ-NHNN thì:
“Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao
quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ”.
Nhƣ vậy, bên mua nợ sẽ có quyền của chủ nợ và thực hiện mọi quyền năng của chủ
sở hữu đối với khoản nợ đã mua, điều này có sự khác biệt rõ ràng với hoạt động tín

dụng của ngân hàng. Vì vậy, hoạt động mua, bán nợ không phải là hoạt động tín
dụng.
Về mặt lý thuyết, thông qua hoạt động mua, bán nợ, với tƣ cách là bên bán
nợ TCTD có thể thu hồi lại một phần vốn tồn đọng của doanh nghiệp trong các
hợp đồng tín dụng đã ký trƣớc đó với khách hàng; đối với bên mua thì thƣờng
nhằm vào mục tiêu lợi nhuận. Tính đặc thù của hoạt động mua, bán nợ của các
TCTD, thƣờng là TCTD chào bán các khoản nợ xấu, các khoản nợ ít có khả năng
hoặc không có khả năng thu hồi. Trong giao dịch mua, bán nợ thì bên bán bao giờ
cũng chỉ nhận đƣợc mức giá thấp hơn so với giá trị thực tế của khoản nợ xấu;
cũng nhƣ các loại hàng hóa khác, các khoản nợ với vai trò là một loại hàng hóa
đặc biệt, luôn vận động theo các nguyên tắc nhƣ nguyên tắc thỏa thuận, nguyên
tắc tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí và các quy luật cơ bản nhƣ của thị
trƣờng nhƣ quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, … theo quan
điểm kinh tế về hoạt động mua, bán nợ là cơ sở để khoa học pháp lý đƣa ra khái
niệm về hoạt động mua, bán nợ.




15
Dƣới góc độ pháp lý thì hoạt động mua, bán nợ của TCTD với khách hàng là
một giao dịch hợp đồng mua, bán mà đối tƣợng mua, bán chính là quyền đòi nợ, với
tƣ cách là một loại quyền tài sản, theo đó các bên thỏa thuận việc mua, bán các
khoản nợ và hệ quả cuối cùng của việc mua, bán này là có sự chuyển giao quyền sở
hữu các khoản nợ từ bên bán sang bên mua và bên mua có nghĩa vụ trả tiền mua nợ
cho bên bán. Nhƣ vậy, hoạt động mua, bán nợ là một quan hệ pháp luật với đầy đủ
các thành phần cơ bản về: chủ thể, khách thể, đối tƣợng và nội dung của quan hệ
pháp luật (quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng mua, bán nợ).
Đối với trƣờng hợp TCTD là bên bán nợ có một số nội dung sau:
Thứ nhất: Sự thỏa thuận giữa TCTD với bên mua nợ đƣợc thể hiện dƣới hình

thức pháp lý là hợp đồng mua, bán nợ.
Thứ hai: Đối tƣợng đƣợc bán là khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng tín
dụng giữa TCTD với khách hàng. Bên mua nợ đƣợc quyền đòi nợ đối với các khoản
phải thu đƣợc chuyển giao từ phía các TCTD.
Thứ ba: Trong giao dịch mua, bán nợ của TCTD, có sự chuyển giao quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ các khoản nợ giữa bên bán (TCTD) với bên mua. Theo
thỏa thuận này thì bên bán phải có nghĩa vụ chuyển giao quyền đòi nợ cho bên mua
và toàn bộ các giấy tờ, tài liệu liên quan đến khoản nợ cho bên mua đồng thời
chuyển giao cả nghĩa vụ gánh chịu những rủi ro phát sinh từ các khoản nợ cho bên
mua. Bên bán có quyền nhận thanh toán từ bên mua.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về hoạt động mua, bán nợ
của TCTD nhƣ sau: “Hoạt động mua, bán nợ của TCTD là sự thỏa thuận giữa
bên bán và bên mua nợ xấu được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng bằng
văn bản, theo đó quyền đòi nợ của TCTD (và tài sản bảo đảm của khoản nợ nếu
có) được chuyển giao cho bên mua nợ, còn bên mua nợ có nghĩa vụ thanh toán
tiền cho TCTD theo thỏa thuận”.
Thực chất, của việc mua bán, nợ đó là việc chuyển nhƣợng lại "quyền thu hồi
nợ" từ một "khoản nợ phải thu" của bên bán nợ (chủ nợ) đối với khách nợ sang cho
Bên mua nợ, để Bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên Khách nợ. Nhƣ vậy, hoạt




16
động mua bán nợ đƣợc thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà
không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ).
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ
Về lý thuyết, hoạt động mua, bán nợ của TCTD có những điểm giống nhau
cơ bản so với hoạt động mua, bán nợ nói chung, nhƣ chủ thể là bên mua nợ và bên
bán nợ; đối tƣợng mua bán là các khoản nợ - quyền tài sản; hình thức pháp lý của

quan hệ mua, bán nợ là hợp đồng mua bán nợ… Tuy nhiên, ngoài những điểm
giống cơ bản nêu trên, hoạt động mua, bán nợ của TCTD còn có những đặc điểm
riêng nhƣ sau:
Một là, TCTD là bên bán nợ hoặc là bên mua nợ là chủ thể đặc biệt của nền
kinh tế. Bởi: (i) TCTD với tƣ cách là bên cấp vốn cho nền kinh tế, có mặt hầu hết
trong các quan hệ vay nợ của doanh nghiệp; (ii) địa vị pháp lý đặc biệt của TCTD:
là định chế trung gian, ngƣời đi vay để cho vay. Vì vậy, khi các TCTD thực hiện
bán nợ thì đây là một hình thức xử lý tài chính trong quá trình kinh doanh làm tăng
nguồn vốn để đối phó với những rủi ro bên ngoài; (iii) TCTD là chủ thể kinh doanh
có điều kiện nên phải bảo đảm một số điều kiện nhất định nhƣ: phải có vốn pháp
định; phải đƣợc NHNN cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trƣớc khi tiến hành
đăng ký kinh doanh theo luật định.
Hai là, đối tƣợng của hoạt động mua, bán nợ của TCTD là các khoản nợ phát
sinh từ hoạt động cho vay. Các khoản nợ này có thể là nợ trong hạn, nợ quá hạn, nợ
có tài sản bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm đƣợc phân loại theo Quyết định
493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD
và đƣợc sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 18/2007/QĐ – NHNN ngày 25 tháng 4
năm 2007.
Ba là, giao dịch mua, bán nợ của TCTD chỉ có thể đƣợc xác lập dựa trên một
giao dịch cơ sở đã đƣợc thực hiện (đó chính là hợp đồng cho vay hoặc hợp đồng
cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng). Hệ quả của các giao dịch cơ sở này là xác
lập quyền chủ nợ của TCTD đối với bên nợ và giao dịch này đƣợc xem là yếu tố tạo




17
ra hàng hóa (các khoản nợ) cho thị trƣờng mua, bán nợ. Nó, là đặc trƣng cơ bản để
phân biệt hoạt động mua, bán nợ của TCTD với hoạt động mua, bán tài sản và các

quyền tài sản khác trong giao dịch dân sự, thƣơng mại. Do quyền đòi nợ phát sinh
từ một giao dịch trƣớc đó nên khi thực hiện hoạt động mua, bán nợ, bên mua nợ
phải tiến hành kiểm tra phân tích toàn diện về giao dịch cơ sở đã làm phát sinh
quyền đòi nợ để đánh giá tính hợp pháp của giao dịch này, trên cơ sở đó xác định
tính hợp pháp của khoản nợ đƣợc mua bán.
Bốn là, quan hệ mua, bán nợ của TCTD đƣợc tạo lập thông qua hợp đồng và
tùy thuộc vào việc đƣợc chủ thể nào mua nợ để xác định quy chế pháp lý giải quyết
tranh chấp giữa các bên khi tham gia vào hoạt động bán nợ.
Năm là, giao dịch mua, bán nợ là một giao dịch chứa đựng rủi ro rất cao.
Khi bên bán nợ bán khoản nợ phải thu của mình cho bên mua nợ và sẽ chuyển giao
quyền sở hữu cùng toàn bộ các giấy tờ, tài liệu có liên quan tới khoản nợ sang cho
bên mua nợ và điều này cũng có nghĩa là các rủi ro từ khoản nợ đó cũng đƣợc
chuyển giao sang cho bên mua nợ và bên mua nợ phải gánh chịu tất cả các rủi ro
phát sinh từ khoản nợ đó. Các khoản nợ đuợc mua, bán rất đa dạng nhƣng không
phải lúc nào cũng là các khoản nợ lành mạnh mà nó còn bao gồm cả các khoản nợ
có vấn đề, nhƣng vì mục tiêu lợi nhuận mà bên mua nợ vẫn chấp nhận rủi ro. Đây
cũng là đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động cấp
tín dụng nói riêng trong đó có mua, bán nợ.
1.1.4. Về nguyên tắc thực hiện mua, bán nợ xấu của NHTM
Mua bán, nợ xấu đƣợc thực hiện nhƣ các giao dịch thông thƣờng thông qua
hợp đồng mua, bán nợ. Vì vậy, việc ký kết hợp đồng mua bán nợ cũng phải tuân thủ
các nguyên tắc chung về ký kết hợp đồng, cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tự nguyện, tự do ý chí
Theo nguyên tắc này, thì một hợp đồng đƣợc hình thành phải hoàn toàn dựa
trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí) không có sự áp đặt ý
chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Trong qúa trình giao kết hợp đồng tất cả mọi sự
tác động làm mất tính tự nguyện của các bên sẽ làm ảnh hƣởng đến hiệu lực của

×