Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.23 KB, 82 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CPH: Cổ phần hoá.
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần.
TTCK: Thị trường chứng khoán.
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán.
DN: Doanh nghiệp
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
Nghị định 01: Nghị định 01/2010/NĐ-CP
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
......................................................................................................................
Trang 5
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................
5
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................
6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................
7
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................
7
5. Bố cục đề tài..........................................................................................................
8
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG
KHOÁN RIÊNG LẺ VÀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
RIÊNG LẺ...............................................................................................................
9
1.1 Khái niệm chứng khoán, khái niệm chào bán chứng khoán và chào
bán chứng khoán riêng lẻ.................................................................................
9


• Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán
......................................................................................................
9
1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán
.................................................................................................................
9
1.1.1.2. Đặc điểm chứng khoán
.................................................................................................................
11
1.1.1.3. Phân loại chứng khoán
.................................................................................................................
13
1.1.2. Khái niệm chào bán chứng khoán và phương thức chào bán
chứng khoán
......................................................................................................
14
1.1.2.1. Khái niệm chào bán chứng khoán
.................................................................................................................
14
1.1.2.2. Phương thức chào bán chứng khoán
.................................................................................................................
15
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ
......................................................................................................
18
1.1.3.1. Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ
.................................................................................................................
18
1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ

.................................................................................................................
18
1.1.3.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay
..........................................................................................
20
1.2. Các quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ...................................................................................................................
21
1.2.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
chào bán chứng khoán riêng lẻ
......................................................................................................
21
1.2.2. Những quy định của pháp luật về chào bán cổ phiếu riêng lẻ
................................................................................................................................
23
1.2.3. Những quy định của pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ
................................................................................................................................
31
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.............
33
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO
BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
GÓP PHẦN HOÀN THIỆN................................................................................
37
2.1. Thực trạng về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
...................................................................................................................
37
2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ

................................................................................................................................
37
2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ
................................................................................................................................
52
2.1.2.1. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp
.................................................................................................................
52
2.1.2.2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng
.................................................................................................................
59
2.1.2.3. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nhà nước
.................................................................................................................
61
2.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán
riêng lẻ...................................................................................................................
63
2.2.1. Giải pháp góp phần hoàn thiện về pháp luật chào bán chứng
khoán riêng lẻ
......................................................................................................
63
2.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
..........................................................................................
63
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
chào bán chứng khoán riêng lẻ
..........................................................................................
66
2.2.2. Một số biện pháp khác
................................................................................................................................

67
2.2.2.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về
TTCK
..........................................................................................
68
2.2.2.2. Xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán chào
bán riêng lẻ
..........................................................................................
68
KẾT LUẬN...........................................................................................................
70
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, bất kì quốc gia có nền kinh tế phát triển nào
cũng có 2 kênh huy động vốn quan trọng: kênh huy động vốn gián tiếp thông
qua hệ thống ngân hàng theo nguyên tắc tín dụng và kênh huy động vốn trực
tiếp thông qua TTCK theo nguyên tắc đầu tư. Hiện nay chúng ta không thể
phủ nhận vai trò của TTCK đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc
gia. TTCK phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh tế thị trường.
Người ta ví TTCK như chiếc nhiệt kế đo “nhiệt độ” của nền kinh tế. Sự tăng
trưởng của nền kinh tế được đánh giá qua chỉ số giá chứng khoán của
TTCK. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã
khẳng định TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành
nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu[37,
tr.1]. Đối với Việt Nam, để hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính,
tạo các tiền đề kinh tế quan trọng, đưa đất nước ta đến năm 2020 cơ bản là
một nước công nghiệp như Đại hội Đảng VIII đã đề ra thì việc xây dựng,
phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính trong đó có TTCK là hết sức cần
thiết.
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000, TTCK Việt

Nam đang có những bước tiến vững chắc, nhằm khẳng định vai trò là công
cụ hiệu quả để huy động và phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho nền
kinh tế. Việc huy động vốn qua TTCK được thực hiện thông qua hoạt động
chào bán chứng khoán dưới 2 hình thức chào bán chứng khoán ra công
chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Chào bán chứng khoán là một
trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động
diễn ra trên TTCK. Bởi nó không chỉ góp phần huy động vốn, tăng vốn cho
DN mà còn tạo ra hàng hóa cho TTCK, quyết định sự tồn tại của TTCK.
Riêng đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ với các quy định về
điều kiện thủ tục chào bán dễ dàng, đối tượng chào bán rộng đang là phương
thức huy động vốn hữu hiệu của các DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Ở nước
ta, với nền kinh tế có hơn 2/3 DN vừa và nhỏ, chưa đáp ứng được điều kiện
để niêm yết trên sàn giao dịch, thì đây là cách huy động vốn hiệu quả nhất.
Đồng thời, việc tiến hành chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ góp phần giúp
các DN đổi mới hình thức quản lý, quản trị DN, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Tuy nhiên, nếu hoạt động chào bán này không được quản lý tốt bằng
pháp luật sẻ có tác động xấu, gây khủng hoảng cho TTCK, gây thiệt hại cho
các nhà đầu tư và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay khi pháp luật chứng khoán đang trong quá trình hoàn thiện. Hoạt
động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn chưa thực sự được quan tâm và
giám sát đúng mức. Điều này đã gây ra nhiều bất ổn cho TTCK trong thời
gian qua cả về mặt lý luận và thực tiễn như: các vụ việc xâm phạm quyền lợi
của các cổ đông hiện hữu khi chào bán chứng khoán riêng lẻ hay các văn
bản pháp luật ban hành không rõ ràng khiến cho các DN cũng như cơ quan
áp dụng pháp luật lúng túng trong quá trình thực hiện. Điều này đã làm
chậm tiến độ huy động vốn của các DN, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển
kinh tế chung của cả nước. Hay sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản
pháp luật… Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng
lẻ của DN diễn ra đúng pháp luật, TTCK vận hành an toàn. Vấn đề nghiên

cứu pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc làm cần
thiết. Từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động chào bán
chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm:
- Phần tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về
hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trên cơ sở các quy định của pháp
luật chứng khoán và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong những năm
qua về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán
riêng lẻ được quy định trong Luật chứng khoán 2006; Luật chứng khoán
2010; Luật doanh nghiệp 1999, 2005; Luật các tổ chức tín dụng 1997 sửa
đổi bổ sung 2004, 2010; Luật ngân hàng nhà nước 1997 sửa đổi, bổ sung
2004, 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về chào bán
chứng khoán riêng lẻ trong quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của hoạt
động chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Đề tài này nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt
động chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định tại Luật chứng khoán
2006 ; Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung 2010; Luật doanh nghiệp 1999,
2005; Luật các tổ chức tín dụng 1997 sửa đổi bổ sung 2004, 2010; Luật ngân
hàng nhà nước 1997 sửa đổi, bổ sung 2004, 2010 và các văn bản hướng dẫn
thi hành như: Nghị định 01, Nghị định 187/2004/NĐ-CP…
- Về thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng hoạt động chào bán chứng

khoán riêng lẻ. Trên cơ sở đó, tìm ra những vướng mắc, bất cập trong quá
trình áp dụng các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ
để đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã được đặt ra tác giả
nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa nhằm làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận cơ bản về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Phương pháp thống kê để thấy được số lượng các đợt chào bán
chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế.
- Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về hoạt động
chào bán chứng khoán riêng lẻ theo Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung
2010 và các văn bản trước đây và các văn bản có liên quan khác.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần lời mở đầu, bảng chữ viết tắt, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1. Tổng quan về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và
pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ ở Việt Nam và giải pháp góp phần hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
RIÊNG LẺ
VÀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ
1.1 Khái niệm chứng khoán, khái niệm chào bán chứng khoán và
chào bán chứng khoán riêng lẻ.
• Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán

1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán
Vào khoảng giữa thế kỷ 15 tại thành phố trung tâm buôn bán của
phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại một số khu như quán cà phê để
trao đổi mua bán các loại hàng hoá như nông sản, khoáng sản, tiền tệ và các
chứng từ có giá. Ðiểm đặc biệt ở đây là các thương gia chỉ giao dịch với
nhau bằng lời nói, không có hàng hoá thật. Những cuộc thương lượng này
nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng trao đổi mua bán ngay hoặc cho
tương lai. Những cuộc trao đổi này ban đầu chỉ là một nhóm người và sau đó
đông dần cho đến khi nó thực sự thành một khu chợ riêng. Thời gian họp
chợ lúc đầu là hàng tháng, sau đó hàng tuần rồi rút ngắn còn hàng ngày.
Trong các phiên họp chợ tại đây các thương gia thống nhất với nhau các quy
ước cho việc thương lượng và sau này trở thành những quy tắc có giá trị bắt
buộc đối với những ai muốn tham gia thị trường và TTCK hình thành từ đó.
Như vậy, TTCK xuất hiện từ thế kỷ thứ 15. Sự hình thành TTCK cũng đồng
thời với thị trường hối đoái và một số thị trường khác.
Quá trình hình thành và phát triển của thị tường chứng khoán thế giới
đã trải qua những giai đoạn thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm
1875 đến 1913, TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh
tế. Hay thời kỳ đen tối nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 và
1987, đã làm cho TTCK thế giới suy sụp nặng nề. Tuy nhiên, TTCK thế giới
vẫn tiếp tục phát triển và trở thành một định chế không thể thiếu trong đời
sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo định hướng
thị trường và nhất là những nước đang phát triển, đang cần thu hút luồng vốn
lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay, phần lớn các nước trên
Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các
châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam Á vào những năm
1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và
Châu Á như Trung Quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990.
Mặc dù ra đời muộn hơn so với các quốc gia khác trên thế giới và
trong khu vực, chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000. Tuy nhiên,

TTCK Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc trong quá trình hội
nhập và phát triển, và đang dần khẳng định vai trò là kênh thu hút và dẫn
vốn quan trọng cho nền kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán, tuỳ theo quan điểm
của mỗi chủ thể và pháp luật mỗi quốc gia.
Theo cách hiểu truyền thống: chứng khoán là bằng chứng viết về
quyền tài sản. [3, tr.1] Định nghĩa này được hiểu theo quan điểm chung
chung, dễ gây nhầm lẫn với các loại tài sản khác như các giấy tờ séc, hối
phiếu, lệnh phiếu… và thậm chí cả giấy đòi nợ.
Theo nghĩa nguyên thuỷ nhất, chứng khoán là những chứng thư,
chứng từ thay thế tiền bạc chi tiêu trong các hành trình nhiều ngày trên biển.
[33, tr.270] Định nghĩa này chỉ phù hợp với giai đoạn đầu khi TTCK mới
hình thành, số lượng hàng hoá còn hạn chế.
Theo cách hiểu của các nhà kinh tế học thì, chứng khoán là mọi sản
phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được. Hiểu theo cách này, khái niệm
chứng khoán không chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh
mà bao gồm các công cụ trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, kỳ
phiếu ngân hàng, các loại thương phiếu, hối phiếu, lệnh phiếu... Nếu hiểu
như vậy chúng ta sẽ khó khăn trong việc xác định cấu trúc của thị trường tài
chính. [9, tr.270]
Theo pháp luật chứng khoán Mỹ, khái niệm chứng khoán được hiểu
rất rộng, nó bao hàm cả những lợi ích mà không phải lúc nào mọi người
cũng nghĩ là chứng khoán. Điều 2(a)(1) Luật chứng khoán 1933 cũng như
Điều 3(a)(10) Luật giao dịch chứng khoán 1934 liệt kê các loại chứng
khoán, bao gồm: chứng nhận (note), cổ phiếu, cổ phiếu quỹ (treasury stock),
hợp đồng giao dịch chứng khoán tương lai (security future), trái phiếu, tín
phiếu, chứng nhận nợ, chứng chỉ xác nhận lợi ích hay việc tham gia vào thỏa
thuận chia lợi nhuận, chứng chỉ tín thác cầm cố (collateral-trust certificate),
chứng nhận tiền tổ chức hoặc đăng ký (preorganization certificate or
subscription), cổ phần có thể chuyển nhượng, hợp đồng đầu tư, chứng chỉ tín

thác bỏ phiếu (voting -trust certificate), chứng chỉ ký thác chứng khoán, lợi
ích chưa chia một phần đối với dầu, ga hoặc các quyền về khoáng sản khác

,
các quyền chọn hay đặc quyền về chứng khoán. Một cách khái quát, chứng
khoán là bất kỳ lợi ích, hay công cụ thường được hiểu thông dụng là “chứng
khoán”, hay bất cứ một chứng nhận lợi ích hay sự tham gia, sự bảo đảm, hay
quyền đăng ký, quyền mua “chứng khoán”[34, tr.4]. Luật chứng khoán
Trung Quốc kết hợp cả hai phương pháp trên.[41, tr.210]
Ở Việt Nam, theo khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ
sung 2010 thì: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc
dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn
bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán;
c) Hợp đồng góp vốn đầu tư;
d) Các loại chứng khoán khác do bộ tài chính quy định.”
1.1.1.2. Đặc điểm chứng khoán
Chứng khoán là một loại tài sản tài chính có đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, tính thanh khoản (tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả
năng chuyển tài sản đó ra tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc
vào khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc
giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao
hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên
thị trường và nói chung các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển
nhượng là khác nhau.
Thứ hai, tính rủi ro: Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị
của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro

không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác
động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của
các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi
suất… Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc
một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của
nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá
các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn,
nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi
tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức, người ta sẽ không chịu rủi ro tăng
thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm.
Thứ ba, tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở
hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương
lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và
việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng
quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý – mức độ
chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.
Ngoài những đặc điểm trên, chứng khoán còn có tính “tư bản giả”, thể
hiện ở sự không đồng nhất giữa giá thanh toán và mệnh giá chứng khoán.
Chứng khoán còn có tính giá trị. Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với phần vốn và tài sản của chủ
thể phát hành nên chứng khoán luôn có giá trị nhất định.
1.1.1.3. Phân loại chứng khoán
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại chứng khoán khác nhau tuỳ theo
tính chất, đặc điểm của chứng khoán và mục đích nghiên cứu.
- Căn cứ vào hình thức thể hiện, chứng khoán có thể chia thành: cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các chứng khoán phái sinh (chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai…).
- Căn cứ vào quyền của nhà đầu tư đối với chủ thể phát hành, chứng
khoán có thể chia thành: chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, chứng khoán
phái sinh.

+ Chứng khoán vốn: là chứng từ xác nhận sự góp vốn và quyền sở
hữu phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành.
Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Cổ
phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản
hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn
thanh toán là vô hạn.[14, tr.44]
Khi tham gia mua cổ phiếu, các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của
CTCP. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên
thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật.
+ Chứng khoán nợ: điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng
khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho
người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất
định bao gồm cả gốc và lãi trong khoảng thời gian cụ thể [2, tr.44].
+ Chứng khoán phái sinh: là công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng
khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán
phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán
và phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của TTCK. Có thể phân loại
chứng khoán phái sinh thành các loại như: quyền mua cổ phần, chứng
quyền, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua và quyền
chọn bán.
- Căn cứ vào thời hạn, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán
ngắn hạn, chủ yếu là các giấy tờ có giá ngắn hạn (thường là dưới 1 năm) như
tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng... Chứng khoán dài hạn (có thể từ 2
-10 năm hoặc trên 10 năm) như cổ phiếu, trái phiếu...
- Căn cứ vào lợi tức, có thể chia thành chứng khoán có lợi tức ổn định
và chứng khoán có lợi tức không ổn định. Chứng khoán có lợi tức ổn định là
những chứng khoán tạo ra lợi tức ổn định theo mệnh giá cho người sở hữu
chứng khoán, thường là cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Đối với chứng khoán
có lợi tức không ổn định, người sở hữu chứng khoán hưởng lợi tức theo kết

quả kinh doanh của DN thường là một chứng khoán loại này.
- Căn cứ vào khả năng chuyển đổi, chứng khoán có thể chia thành:
chứng khoán có khả năng chuyển đổi và chứng khoán không có khả năng
chuyển đổi. Chứng khoán có khả năng chuyển đổi là những chứng khoán
cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển sang một loại chứng khoán khác
theo những điều kiện và tỷ lệ nhất định. Cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chuyển
đổi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Chứng khoán không có khả
năng chuyển đổi không có những đặc điểm như trên.
Việc phân loại chứng khoán giúp chúng ta hiểu hơn về các loại chứng
khoán, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi sở hữu các chứng khoán khác
nhau, quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán.
1.1.2. Khái niệm chào bán chứng khoán và phương thức chào bán
chứng khoán
1.1.2.1. Khái niệm chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khoán là việc đưa thêm chủng loại chứng khoán mới
vào thị trường, bao gồm tất cả các hoạt động như xin phép, mời chào, phát
hành, phân phối chứng khoán với mục đích cuối cùng là đưa chứng khoán ra
thị trường, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán. Hoạt động này chỉ diễn ra
trên thị trường sơ cấp - nơi chứng khoán lần đầu tiên được phát hành.
Các chứng khoán thường được chào bán theo hai hình thức, đó là
chào bán ra công chúng và chào bán riêng lẻ. Chào bán chứng khoán ra công
chúng là việc bán chứng khoán cho một số lượng lớn công chúng đầu tư,
trong đó một số lượng chứng khoán phải được phân phối cho các nhà đầu tư
nhỏ, khối lượng phát hành phải đạt một tỷ lệ nhất định. Các chứng khoán
chào bán ra công chúng được niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung.
Các công ty chào bán chứng khoán ra công chúng có lợi thế trong việc
quảng bá hình ảnh, tên tuổi và mặc nhiên được coi là có tình hình tài chính
lành mạnh, hoạt động kinh doanh ổn định. Đây là lợi thế lớn cho công ty khi
ký kết hợp đồng, tìm kiếm bạn hàng.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc chào bán chứng khoán trong

phạm vi một số nhà đầu tư nhất định, thông thường là những nhà đầu tư có
tổ chức với những điều kiện hạn chế, không tiến hành chào bán rộng rãi ra
công chúng. Nhưng lại có lợi thế về điều kiện, thủ tục chào bán dễ dàng hơn
so với chào bán ra công chúng. Đây là điều kiện thuận lợi để các DN huy
động vốn và tìm kiếm đối tác chiến lược.
1.1.2.2. Phương thức chào bán chứng khoán
Phương thức chào bán chứng khoán là những cách thức thực hiện mối
quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư trong suốt quá trình đưa chứng
khoán từ nơi phát hành đến với công chúng đầu tư.
Chứng khoán có thể được chào bán theo các phương thức:
- Bán trực tiếp:
Là phương thức tổ chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán
trực tiếp cho nhà đầu tư không qua khâu trung gian. Đây là phương thức cổ
điển chứng khoán được mua bán như hàng hoá thông thường. Tổ chức phát
hành tự mình thực hiện tất cả các công đoạn của quá trình chào bán như
chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, đăng ký chào bán, quảng cáo, phân phối chứng
khoán... Phương thức này đòi hỏi tổ chức phát hành phải am hiểu thị trường,
có hệ thống phân phối rộng, nhu cầu huy động vốn không cấp bách. Khi đó
chứng khoán sẽ đi thẳng từ nhà phát hành đến tay nhà đầu tư, không có chi
phí trung gian.
Ưu điểm của phương thức bán trực tiếp là tổ chức phát hành sẽ tối đa
được lợi nhuận, nắm bắt được nhu cầu thị trường. Nhưng tổ chức phát hành
sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát tổng lượng vốn lưu động, thời gian tập
trung vốn thường kéo dài nên phương thức này ẩn chứa nhiều rủi ro.
- Chào bán chứng khoán thông qua đại lý phát hành:
Đại lý phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức đứng ra làm
đại diện phân phối chứng khoán cho tổ chức phát hành theo hợp đồng đại lý
trong đó có cam kết tỷ lệ hoa hồng (phí đại lý phát hành).
Thông thường tổ chức đại lý phát hành là các công ty chứng khoán
hay các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật. Với trình độ

chuyên môn và sự am hiểu thị trường, các đại lý phát hành sẽ tạo mạng lưới
phân phối rộng, số lượng chứng khoán bán ra lớn hơn so với bán trực tiếp.
Nhưng tổ chức phát hành gặp khó khăn trong việc xác định tổng lượng
chứng khoán bán ra, phụ thuộc vào khách hàng, bị động trong khả năng huy
động vốn và chịu phí đại lý phát hành. Các đại lý chỉ chịu trách nhiệm phân
phối chứng khoán, không bảo đảm thành công cho đợt chào bán.
- Chào bán chứng khoán thông qua đấu giá:
Là phương thức các tổ chức trung gian sẽ thực hiện đấu giá đối với số
lượng chứng khoán mà DN sẽ bán ra bên ngoài. Nhà đầu tư sẽ tham gia đấu
giá bằng cách đăng ký trước, việc trả giá chứng khoán được tiến hành bỏ
phiếu kín. Người tổ chức đấu giá, tổ chức phát hành sẽ ấn định giá tối thiểu
và thực hiện bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá. Thông qua đấu
giá, người mua và người bán sẽ xác định được một mức giá phù hợp, khách
quan và công bằng. Giá chứng khoán được hình thành theo hai chiều: người
mua cạnh tranh với những người mua khác để mua được với giá thấp nhất,
người bán cạnh tranh với những người bán khác để bán được với giá cao
nhất. [18, tr.222]
Có nhiều phương thức đấu giá, nếu căn cứ vào hình thức đấu giá, có
đấu giá trực tiếp, đấu giá gián tiếp, đấu giá tự động. Nếu căn cứ vào phương
thức đấu giá, có đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục.
- Chào bán chứng khoán thông qua đấu thầu:
Đấu thầu chứng khoán là phương thức một hoặc nhiều nhà thầu sẽ
mua toàn bộ số chứng khoán dự định phát hành, sau đó phân phối lại trên cơ
sở phân chia tỷ lệ phần trăm với tổ chức phát hành.
Phương thức này có ưu điểm là xác định tổng lượng vốn lưu động,
thời gian huy động vốn ngắn (thường chỉ từ 1- 6 tuần). Tuy nhiên, tổ chức
phát hành phải chịu chi phí trung gian. Khoản phí này do tổ chức phát hành
thoả thuận với tổ chức đấu thầu, tổ chức được uỷ quyền. Trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình trung ương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh... thường chào bán

bằng phương thức đấu thầu.
- Chào bán chứng khoán thông qua bảo lãnh phát hành:
Bảo lãnh phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức bảo lãnh
cam kết với tổ chức phát hành về việc thực hiện các thủ tục trước khi chào
bán, phân phối chứng khoán cho nhà đầu tư, nhận mua chứng khoán để bán
lại và mua số chứng khoán còn lại chưa phân phối hết.
Sự tham gia của tổ chức bảo lãnh giúp hoạt động chào bán chứng
khoán diễn ra thuận lợi hơn. Tổ chức bảo lãnh chuẩn bị hồ sơ, thủ tục cần
thiết trước khi chào bán và tiến hành phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo
lãnh có thể thành lập tổ hợp bảo lãnh để phân tán rủi ro trong đợt chào bán.
Có nhiều phương thức bảo lãnh với mức độ cam kết khác nhau được
ghi rõ trong hợp đồng bảo lãnh. Những DN mới thành lập hoặc quy mô nhỏ
có thể chọn hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn để đảm bảo thành
công cho đợt chào bán. Nếu công ty có nhu cầu một số vốn nhất định cho
chiến lược kinh doanh mà không thể sử dụng số vốn ít hơn có thể chọn bảo
lãnh theo phương thức tất cả hoặc không. Những DN phát hành bổ sung
thêm cổ phiếu, nếu có những cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của
công ty có thể áp dụng phương thức bảo lãnh dự phòng cho những quyền
mua không được thực hiện. Nếu tổ chức bảo lãnh không bảo đảm khả năng
phân phối hết số chứng khoán có thể thoả thuận với tổ chức phát hành hình
thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất. Mỗi phương thức bảo lãnh đều có ưu và
nhược điểm riêng. Do đó, tổ chức phát hành cần lưu ý nhu cầu vốn và những
đặc thù của DN để lựa chọn phương thức bảo lãnh phù hợp.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ
1.1.3.1. Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ
Trong một thời gian dài trước khi có Nghị định 01 điều chỉnh về hoạt
động chào bán chứng khoán riêng lẻ và Luật chứng khoán sửa đổi, bổ sung
thì ở nước ta chưa hình thành nên một khái niệm nhất quán nào về hoạt động
chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Hiện nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 01 và khoản
12a Điều 6 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung năm 2010 thì có thể
hiểu: Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán
cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và
không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hay phương tiện internet.
1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
Thứ nhất, chào bán chứng khoán riêng lẻ chỉ hướng tới một số lượng
nhà đầu tư hạn chế, thông thường là những nhà đầu tư có tổ chức hay những
nhà đầu tư cá nhân có tiềm lực kinh tế hoặc những người có mối quan hệ
thân thiết với chủ thể phát hành. Pháp luật các nước quy định khác nhau về
số lượng nhà đầu tư tối thiểu được chào bán trong mỗi đợt chào bán riêng lẻ.
Tại Mỹ và Nhật Bản nếu phát hành cho dưới 200 nhà đầu tư được coi là
chào bán riêng lẻ; tại Hàn Quốc, Thái Lan, Indonexia nếu chào bán cho thấp
hơn 50 nhà đầu tư là chào bán riêng lẻ. [14, tr.62]
Thứ hai, ở các nước theo hệ thống Civil law, hoạt động chào bán
chứng khoán riêng lẻ do Luật chứng khoán và kinh doanh chứng khoán điều
chỉnh, các nước theo hệ thống Common law chủ yếu do Luật công ty điều
chỉnh. Ở Việt Nam, hoạt động này do nhiều văn bản pháp luật khác nhau
quy định tuỳ theo loại hình DN và lĩnh vực kinh doanh. Đó là Luật doanh
nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, các Nghị định về cổ phần hoá, phát hành
trái phiếu, chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty
cổ phần...
Thứ ba, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thường gắn với việc
thành lập công ty cổ phần và quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu doanh
nghiệp. Khi thành lập công ty cổ phần các cổ đông sáng lập có thể tiến hành
chào bán cổ phần riêng lẻ góp đủ số vốn điều lệ đã đăng ký. Các công ty
Nhà nước có thể lựa chọn phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ để
tiến hành cổ phần hoá (CPH).
Ngoài ra, khi chào bán chứng khoán riêng lẻ công ty có thể thực hiện
một số mục đích khác như duy trì các quan hệ kinh doanh (khách hàng lâu

năm, nhà cung cấp, phân phối…) hoặc chào bán cho cán bộ, công nhân, viên
chức của công ty. Chi phí chào bán chứng khoán ra công chúng thường cao
hơn chi phí chào bán chứng khoán riêng lẻ, có thể lên đến 8-10% so với tổng
lượng vốn huy động. Công ty có thể chọn phương thức chào bán chứng
khoán riêng lẻ với mức chi phí thấp hơn.
1.1.3.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay
Đối với TTCK, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cung cấp
hàng hoá cho TTCK, tạo cơ sở cho các hoạt động trao đổi mua bán trên thị
trường và kiểm chứng ban đầu về chất lượng chứng khoán sẽ được cung
ứng.
Đối với tổ chức phát hành, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
là một kênh huy động vốn hiệu quả, linh hoạt. Thông qua chào bán chứng
khoán riêng lẻ tổ chức phát hành sẽ tăng quy mô, hiệu quả sử dụng vốn, mở
rộng sản xuất. Đây là nguồn vốn dài hạn và ổn định. Hoạt động này góp
phần thúc đẩy DN tự “hoàn thiện” mình trong việc thực hiện tốt hơn chế độ
tài chính, kế toán, công bố thông tin… Từ đó, DN từng bước đáp ứng những
điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường
tập trung.
Đối với các nhà đầu tư, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
cung cấp các loại chứng khoán và những thông tin bổ ích về đợt chào bán và
tổ chức phát hành. Bằng những kiến thức, kinh nghiệm họ quyết định đầu tư
vào một loại chứng khoán cụ thể. Do vậy, hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ có ý nghĩa nhất định đối với các nhà đầu tư.
Đối với tổ chức trung gian, với vai trò đại lý phát hành, bảo lãnh phát
hành, tư vấn phát hành... các tổ chức này không chỉ thu được khoản lợi
nhuận nhất định (phí, hoa hồng) từ các hợp đồng đại lý, bảo lãnh... Thông
qua những hoạt động này, tổ chức trung gian sẽ nắm bắt được nhu cầu, diễn
biến của thị trường và đưa ra những chiến lược kinh doanh hợp lý.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, cùng với quá trình

chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
là quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN. Hoạt động chào bán chứng khoán riêng
lẻ góp phần thúc đẩy quá trình CPH DNNN, giảm sự bao cấp về vốn cho
những DN này. Huy động vốn bằng cách chào bán chứng khoán mang lại sự
linh hoạt và chủ động cho DN, tạo điều kiện để DN tiếp cận với phương
thức quản lý hiệu quả hơn.
Ngoài ra, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chuyển đổi các loại hình DN khác như DN có vốn
đầu tư nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ
phần và hoạt động quản lý nhà nước trên thị trường sơ cấp.
1.2. Các quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ
1.2.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000 nhưng cho
đến năm 2006 lần đầu tiên nhà nước ban hành luật để điều chỉnh cho hoạt
động này. Chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2007, Luật chứng khoán đã
góp phần rất lớn vào sự phát triển của TTCK. Mặc dù, Luật chứng khoán
2006 không điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Nhưng
đây là cơ sở để xác định điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ, trên cơ sở
điều kiện, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng.
- Luật chứng khoán ra đời nhưng lại bỏ sót không điều chỉnh hoạt
động chào bán chứng khoán riêng lẻ, đây là một thiếu sót lớn của Luật
chứng khoán 2006. Trong khi hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn
diễn ra hàng ngày, khối lượng và giá trị ngày càng tăng, diễn ra khá phức
tạp, đặt ra đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của nhà nước. Đáp ứng đòi hỏi của
thực tế, ngày 23/8/2008 thủ tướng chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
20/2008/CT-TTg về tăng cường quản lý thị trường chứng khoán. Chỉ thị quy
định cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ.

- Nhằm cụ thể hóa chỉ thị của thủ tướng chính phủ về hoạt chào bán
chứng khoán riêng lẻ quy định tại Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg, ngày
26/11/2008 Bộ tài chính và ủy ban chứng khoán đã ban hành công văn
14285/BTC-UBCK hướng dẫn Chỉ thỉ thị số 20/2008/CT-TTg. Công văn
đưa ra khái niệm cháo bán chứng khoán riêng lẻ, và hồ sơ báo cáo kế hoạch
chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Sau một thời gian hình thành và phát triển, hoạt động chào bán
chứng khoán riêng lẻ đã xảy ra nhiều vấn đề cần sự quản lý và giám sát của
nhà nước. Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định 01 nhằm thắt chặt
hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên, sau một thời gian có
hiệu lực Nghị định 01 đã bộc lộ nhiều thiếu sót và hạn chế.
- Trước những vướng mắc của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về những
hạn chế trong Nghị định 01 về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Đồng thời trả lời công văn của Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 27/01/2011 Ủy ban chứng khoán đã ban hành Công văn số
350/UBCK-QLPH về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 01. Và cũng
nhằm giải đáp một số vướng mắc trên thực tế đang gặp phải trong quá trình
tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Nhằm khắc phục những thiếu sót của Luật chứng khoán 2006 và
tháo gở những vướng mắc do Nghị định 01. Ngày 24/11/2010 Quốc hội đã
ban hành Luật số 60/2010/QH để sửa đổi bổ sung Luật chứng khoán 2006.
Luật chứng khoán sửa đổi đã bổ sung thêm quy định về điều kiện và thủ tục
chào bán chứng khoán riêng lẻ vào Luật chứng khoán 2006 tại điều 10a. Đây
là lần đầu tiên hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định vào
trong luật. Theo đó, nội hàm hoạt động chào bán chứng khoán bao gồm chào
bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ.

×