Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thực trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.76 KB, 90 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





PHAN VÕ THỊ HẠNH THUỶ




THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ











Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





PHAN VÕ THỊ HẠNH THUỶ



THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG




Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 0107



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ




Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu



Hà Nội - 2015
i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn ở
thành phố Đà Nẵng và dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Lê Thị Hoài Thu.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là có cơ sở, dựa trên số liệu thống
kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng và Cục
thống kê thành phố Đà Nẵng. Bản luận văn này chưa từng được công bố.


Người cam đoan





Phan Võ Thị Hạnh Thuỷ

ii

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
i
Mục lục
ii
Danh mục các chữ viết tắt
iv
Mở đầu
1
1.Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
3
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
4
4. Phương pháp nghiên cứu
4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
5
6. Đóng góp của luận văn
5
7. Kết cấu của luận văn
6
Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp
luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

7

1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội tự nguyện
7
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa Bảo hiểm xã hội tự nguyện
7
1.1.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội tự nguyện
12
1.2. Khái quát chung về pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện
14
1.2.1. Khái niệm pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện
14
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện
16
1.2.3. Nội dung pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện
18
1.2.4. Vai trò pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện
29
Chương 2. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và tình
hình thực hiện tại thành phố Đà Nẵng

31
2.1. Thực trạng pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện
31
2.1.1. Về đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện
31
iii

2.1.2. Về các chế độ Bảo hiểm xã hội tự nguyện
34
2.1.3. Về nguồn hình thành quỹ và quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội tự
nguyện


45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thành
phố Đà Nẵng
48
2.2.1. Những kết quả đạt được
48
2.2.2. Những hạn chế
54
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng

59
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về Bảo hiểm xã hội
tự nguyện

59
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Bảo hiểm
xã hội tự nguyện
62
3.2.1. Bổ sung một số quy định trong Bảo hiểm xã hội tự nguyện
62
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về mức đóng và phương thức đóng Bảo
hiểm xã hội tự nguyện

65
3.2.3. Bổ sung các quy định về quản lý và mở rộng các đối tượng tham
gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện

68

3.2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức,
viên chức trong tổ chức thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện

69
3.2.5. Về tổ chức thực hiện
71
3.2.6. Một số kiến nghị khác
74
Kết luận
77
Danh mục tài liệu tham khảo
78
Phụ lục
83

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


- ASXH: An sinh xã hội
- BHXH: Bảo hiểm xã hội
- BHYT: Bảo hiểm y tế


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta

đã đề ra những chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, ổn định đời sống
xã hội. Đặc biệt, các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến an sinh
xã hội luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng. Sự phát triển kinh tế thị trường
trong những năm qua đã làm cho diện mạo của đất nước có những thay đổi
sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng Kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, thu nhập
bình quân đầu người ngày càng tăng cao, đời sống kinh tế - xã hội của nhân
dân từng bước được cải thiện. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động.
Hệ thống an sinh xã hội được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới
nhiều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong
đó “BHXH, BHYT trụ cột vững chắc của hệ thống An sinh xã hội” [34]. Luật
BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày
12/7/2006; trong đó Bảo hiểm xã hội bắt buộc có hiệu lực từ ngày
01/01/2007; BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 và Bảo hiểm tự
nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Trong những năm qua, BHXH đã
không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính
sách ASXH của đất nước, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người lao động
nói riêng và của toàn dân nói chung. Bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng là một
trong những chính sách an sinh xã hội đang được quan tâm thực hiện từ đầu
năm 2008 và đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần ổn định đời sống
xã hội của nhân dân.
2

Từ năm 2008, số lượng người tham gia BHXH tự nguyện là 6.110
người [21, tr.46], [30], [35], đến cuối 31/12/2013 “số người tham gia BHXH
tự nguyện là 170.600 người” [30], [35]. Loại hình bảo hiểm này chưa thật sự
hấp dẫn đối với người lao động, vì mức đóng còn khá cao so với đại bộ phận
người lao động tự do và nông dân, cũng như quy định số năm đóng góp tối

thiểu để được hưởng lương hưu vẫn cao.
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia có cơ cấu “dân số vàng”. “Năm 2009,
tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi) là 68,4%, dự báo
đến năm 2049 tỷ trọng này là 64,42%” [27, tr.1-2]. Dân số Việt Nam hiện
nay trên 90 triệu người, số lượng người trong độ tuổi lao động đến tháng 6
năm 2013 có khoảng 53 triệu người [28], [35]. Số lượng người tham gia Bảo
hiểm xã hội tự nguyện tính đến 31/12/2012 chỉ đạt 139.643 người [15, tr.13],
[22, tr.26] tính đến 31/12/2013 số người tham gia BHXH tự nguyện đạt
170.600 người [30], [35], tăng 22% so với năm 2012. Tuy nhiên, số người
tham gia BHXH tự nguyện như vậy còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với
tiềm năng và số lượng người lao động ở các khu vực chính thức và phi chính
thức.
Qua hơn 6 năm triển khai thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện đã từng
bước mang lại hiệu quả thiết thực cho người lao động. Tuy nhiên, việc triển
khai BHXH tự nguyện chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động, cũng
như định hướng của Đảng, Nhà nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người
lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH tự nguyện; thể chế,
chính sách, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý như thế nào để tạo điều
kiện thuận lợi triển khai thực hiện Bảo hiểm xã hội tự nguyện. Xuất phát từ
những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Thực trạng thi hành pháp luật Bảo
hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
3

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007, đối với chế độ
BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Để chế độ BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện ngày càng hoàn thiện, phù hợp với người lao động, trong
những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó
phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học như đề tài cấp bộ: "Nghiên cứu mở

rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc
làm và thu nhập”(2002) của tác giả Bùi Văn Hồng; “Giải pháp mở rộng đối
tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân theo đường
lối đổi mới của Đảng và Nhà nước” (2003) của tác giả Kiều Văn Minh. Đề
tài “Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới
và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam” (2007) của tác
giả Đào Thị Hải Nguyệt. Có thể nói các đề tài này chủ yếu tập trung nghiên
cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và kinh
nghiệm của nước ngoài trong việc thực hiện BHXH tự nguyện.
Về luận văn thạc sĩ có thể thấy các công trình sau: “Phát triển bảo
hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Văn Khánh, Học viện Chính trị hành chính - quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2010; “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - 5 năm thực hiện và một số kiến nghị
hoàn thiện” của tác giả Đặng Thị Vân Khánh, Đại học Luật Hà Nội, năm
2013; “Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực trạng và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật” của tác giả Hoàng Quốc Đạt, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2012.
Về bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành có các bài
viết sau: “cần xác định Bảo hiểm xã hội là lưới quan trọng”, Tạp chí Lao
động và xã hội online ngày 19/6/2012; “số người tham gia Bảo hiểm xã hội tự
4

nguyện thấp”, Tạp chí Lao động xã hội 2008, Đăng Doanh (2009); “Định
hướng hoàn thiện chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện” trang web Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội, Tạp chí Lao động xã hội
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trong thời gian qua chỉ mới là
những nghiên cứu bước đầu, thiếu tính hệ thống, đòi hỏi cần bổ sung những
điểm mới, hệ thống các chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện nhằm đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lý luận pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực
trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp để phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng.
- Đề tài làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về BHXH tự
nguyện, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật BHXH tự nguyện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng thời gian qua, phân tích những vấn đề pháp luật và thực
tiễn triển khai mô hình bảo hiểm này để đưa ra những kiến nghị, định hướng
và giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về Bảo hiểm xã hội nói chung và Bảo hiểm xã
hội tự nguyện nói riêng.
5

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
truyền thống như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, diễn giải, quy
nạp những phương pháp trên không sử dụng độc lập mà đan xen và kết hợp
với nhau để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật
BHXH tự nguyện hiện hành và đánh giá thực trạng pháp luật BHXH tự
nguyện nói chung và việc áp dụng BHXH tự nguyện ở thành phố Đà Nẵng
nói riêng.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu về thực trạng thi hành pháp luật

BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra các giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình BHXH này.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ thêm các vấn đề lý luận về pháp luật BHXH tự nguyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BHXH tự nguyện cũng
như quá trình tổ chức thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH tự
nguyện, cũng như đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện BHXH tự nguyện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tiến tới đảm bảo quyền hưởng an sinh xã hội
cho người dân.

6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật
Bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện và tình
hình thực hiện tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thành phố Đà Nẵng



7

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành, phát triển từ lâu đời và được
triển khai thực hiện rộng rãi trên thế giới, "chế độ bảo hiểm tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp ra đời lần đầu tiên ở nước Phổ” (Cộng hòa liên bang
Đức). "Đến năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức,
Bỉ. Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH” [33]. Khi
mới triển khai thực hiện BHXH, hầu hết các nước thường áp dụng BHXH bắt
buộc cho các đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia BHXH bắt buộc
(dành cho những người tham gia quan hệ lao động).
Ở Việt Nam BHXH ra đời từ rất sớm. Từ năm 1986, Việt Nam đã thực
hiện chính sách cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường, sự đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có
những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách
BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: Nhà nước thực hiện chế độ
BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến
khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động. Trong văn
kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ, cần đổi mới chính
sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các
thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ
BHXH ra khỏi ngân sách. Ngay trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đất nước giai đoạn 2011-2020, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu là
8

“tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng
bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị
tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống” [20, tr.228].
Hiện nay, ở nước ta Bảo hiểm xã hội được thực hiện với cơ chế Nhà nước -

Người sử dụng lao động - Người lao động. Trong đó, cơ quan nhà nước đóng
vai trò tiến hành các hoạt động bảo hiểm, người sử dụng lao động và người
lao động cam kết đóng góp cho nhà nước để được hưởng các chế độ bảo
hiểm.
BHXH là một trong những phương pháp được con người lựa chọn để
nhằm bù đắp một phần thu nhập khi đối mặt với những rủi ro, biến cố trong
cuộc sống như lũ lụt, hạn hán, động đất, hoả hoạn, bệnh tật, mất việc làm…
Khi rơi vào những trường hợp rủi ro trên, con người có nhu cầu đòi hỏi khắc
phục khó khăn về kinh tế, chữa bệnh, an dưỡng tuổi già, chăm sóc sức
khoẻ… Chính vì vậy các nhà nghiên cứu chính sách xã hội đã đề ra chính
sách bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là bộ phận chủ yếu, trụ cột, đóng vai trò quyết định
của hệ thống An sinh xã hội và được thể chế hoá bằng những văn bản quy
định pháp luật của nhà nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH,
nhưng khái niệm theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đó là: BHXH là sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi
họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung
do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo trợ
của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho
gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
9

Từ những nhu cầu của cuộc sống cần có sự san sẽ, giúp đỡ nhau, tương
thân tương ái mà Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời bên cạnh bảo hiểm xã hội
bắt buộc là nhu cầu tất yếu. Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình BHXH tự
nguyện, đó là “BHXH tự nguyện áp dụng cho bất kì người lao động nào tự
nguyện tham gia và mô hình bảo hiểm bổ sung cho BHXH bắt buộc” [16,
tr.5]. Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng BHXH tự nguyện là chính
sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia;

Nhà nước quy định mức đóng góp để hình thành Quỹ BHXH tự nguyện đảm
bảo đủ kinh phí để chi trả cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng
các chế độ mà người tham gia BHXH được hưởng (bao gồm điều kiện hưởng,
mức hưởng) nhằm bảo đảm bù đắp rủi ro cho người tham gia BHXH tự
nguyện.
BHXH tự nguyện là loại hình BHXH được xây dựng trên cơ sở tự
nguyện của người lao động với tư cách là người tham gia cũng là người
hưởng BHXH. Giữa loại hình BHXH tự nguyện và loại hình BHXH bắt buộc
có những điểm giống nhau về mục tiêu, bản chất, mục đích hoạt động, sự
hình thành và sử dụng quỹ. Tuy nhiên, BHXH tự nguyện có những điểm khác
so với BHXH bắt buộc đó là mối quan hệ lao động của những người tham gia
BHXH ở hai loại hình này.
Trong những năm qua, cùng với BHXH bắt buộc, việc triển khai
BHXH tự nguyện đã phát huy tác dụng trong việc hỗ trợ người lao động khi
gặp những khó khăn, biến cố trong cuộc sống, trên cơ sở những đóng góp của
người lao động trước khi xảy ra những rủi ro đó. Có thể hiểu một cách khái
quát về Bảo hiểm xã hội tự nguyện như sau:
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban
hành để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
10

động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao
động bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự
nguyện đóng góp một phần thu nhập của người lao động, người sử dụng lao
động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình
họ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Hoặc có thể nói: Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã
hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội.
Từ những khái niệm trên đây, có thể thấy rằng người lao động có

quyền lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình
và người lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện để được
hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của nhà nước. Khi tham gia vào
BHXH tự nguyện thì mức đóng góp được chia cho người sử dụng lao động và
người lao động; tỷ lệ đóng góp của các bên khác nhau tuỳ thuộc vào sự thoả
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia BHXH tự
nguyện thông qua việc người sử dụng lao động trả lương cho người lao động
để người lao động tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện.
BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà vì mục đích bảo
đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định, thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội. Cùng với BHXH bắt buộc, Bảo hiểm xã hội tự nguyện có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện qua các mặt sau đây:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện góp phần thực hiện công bằng xã hội, tạo
sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên thị trường lao động. BHXH tự
nguyện là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người có thu nhập cao,
thấp khác nhau theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là công
cụ phân phối thu nhập của những người mạnh khoẻ, may mắn, có việc làm ổn
11

định cho những người đau ốm, gặp phải những biến cố, rủi ro trong lao động
sản xuất và trong cuộc sống. Ở các nước phát triển và đang phát triển, trong
điều kiện kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng.
Chính phủ các nước đều đưa ra các chính sách để giảm dần khoảng cách giàu,
nghèo, chính vì vậy, chính sách BHXH tự nguyện là một trong những chính
sách tạo sự bình đẳng cho người lao động, góp phần làm giảm bớt khoảng
cách giữa người giàu và người nghèo.
Thứ hai, BHXH tự nguyện có vai trò phân phối, sử dụng hiệu quả
nguồn quỹ dự phòng, tạo cơ chế chia sẻ, nhằm giảm bớt những rủi ro, góp
phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời
sống xã hội và tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Quỹ BHXH tự nguyện

được hình thành tư
̀
s ự đóng góp của người lao động và từ sự hỗ trợ của nhà
nước để chi trả các chế độ cho người tham gia BHXH tự nguyện. Quỹ BHXH
phát triển sẽ góp phần tạo nguồn lực tài chính, cung ứng vốn cho việc đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, quỹ BHXH tự nguyện góp phần ổn định tài
chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, BHXH tự nguyện giúp đảm bảo thu nhập cho người lao động
và gia đình họ khi gặp những khó khăn như ốm đau, tai nạn lao động, chết…
Những người tham gia BHXH tự nguyện hầu hết là những người lao động tự
do, thu nhập thường thấp, không ổn định, bấp bênh như: những người nông
dân, kinh doanh, buôn bán nhỏ… khi họ tham gia BHXH tự nguyện sẽ giúp
họ và gia đình họ đảm bảo được phần nào những rủi ro xảy ra trong cuộc
sống.
Thứ tư, BHXH tự nguyện góp phần nâng cao năng suất lao động xã
hội, thúc đẩy sản xuất phát triển. Người tham gia BHXH tự nguyện được đảm
bảo về thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết, giúp họ tiết kiệm kinh phí đều
12

đặn để dự phòng khi già yếu, mất sức lao động… Chính vì vậy, BHXH tự
nguyện tạo động lực cho người lao động phấn khởi, yên tâm làm việc, tạo
điều kiện để thu hút các nguồn lực lao động vào nền sản xuất, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Thứ năm, BHXH tự nguyện góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân,
giảm chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội. BHXH tự nguyện góp
phần tạo cơ hội để thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của
các thành viên khác trong xã hội. Người có thu nhập cao, có năng lực cao hơn
sẽ đóng góp nhiều hơn vào quỹ BHXH, họ trợ giúp cho những người yếu thế
trong xã hội. Những người lao động khi gặp phải rủi ro, họ sẽ nhận được trợ
cấp từ BHXH để cải thiện cuộc sống.

1.1.2. Bản chất của BHXH tự nguyện
BHXH ra đời là nhu cầu khách quan và là sản phẩm tất yếu của nền
kinh tế. Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật, Đức, Anh,
Canada… BHXH phát triển vững mạnh, cùng với hệ thống BHXH đa dạng,
với nhiều loại hình BHXH phong phú. BHXH nhằm bù đắp những thiệt hại,
rủi ro cho người lao động và gia đình họ khi gặp những biến cố trong cuộc
sống, BHXH nói chung và BHXH nói riêng mang bản chất kinh tế và mang
bản chất xã hội.
- Tính kinh tế của BHXH tự nguyện
Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng
thể hiện ở việc người tham gia BHXH tự nguyện đóng góp một khoản tiền
để hình thành nên quỹ dự trữ. Nguồn quỹ dự trữ này được dùng để trợ cấp
cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm
hoặc mất thu nhập. BHXH tự nguyện tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho
người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH mà họ tham
13

gia. Chính vì vậy, về mặt kinh tế BHXH tự nguyện là một hình thức tổ chức,
phân phối lại thu nhập, góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế
cho người lao động và gia đình họ. BHXH là một bộ phận cấu thành nên
GDP của mỗi quốc gia, được phân phối lại cho những thành viên trong xã
hội khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm đau, sinh đẻ, già yếu, chết sự
phân phối thu nhập có thể thực hiện giữa người trẻ và người già, giữa những
người khỏe mạnh với người ốm đau, giữa người có thu nhập cao với người
có thu nhập thấp hoặc phân phối giữa bản thân người lao động và gia đình
họ. Chính nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và
gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội.
Tóm lại, bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện chính là việc hình
thành và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện góp phần tổ chức, phân phối lại thu
nhập, nhằm bảo đảm đời sống của người lao động và gia đình họ trước những

bất trắc, rủi ro xã hội.
- Tính xã hội của BHXH tự nguyện
"Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng,
là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã
hội" [11, tr.2]. Về mặt xã hội, BHXH nói chung và BHXH tự nguyện với mục
tiêu không vì lợi nhuận, mà vì mục tiêu xã hội. Người tham gia BHXH tự
nguyện được chia sẻ rủi ro và được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Quỹ BHXH tự nguyện thực hiện
theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” đã góp phần trang trải những rủi ro khi
xảy ra cho người lao động và gia đình họ. Mặc dù người lao động đóng một
khoản tiền nhỏ trong thu nhập của mình, nhưng được bồi hoàn một khoản thu
nhập đủ lớn từ nguồn quỹ BHXH tự nguyện, nhờ đó đã chia sẻ, giúp cho
14

người lao động và gia đình họ trang trải rủi ro khi thu nhập của họ bị giảm
hay bị mất.
Như vậy, về mặt xã hội, BHXH tự nguyện hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận, là một trong những chính sách xã hội, góp phần thực hiện chính
sách xoá đói giảm nghèo của đất nước, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, góp phần ổn định đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, giữa bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH tự
nguyện đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh
tế cho người lao động và gia đình của họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH
tự nguyện, và ngược lại, khi nói đến sự đóng góp một khoản kinh phí nhỏ từ
thu nhập nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính
kinh tế của BHXH tự nguyện.
1.2. Khái quát chung về pháp luật BHXH tự nguyện
1.2.1. Khái niệm pháp luật BHXH tự nguyện
Bảo hiểm là một trong những phương pháp, công cụ hữu ích có vai trò

quan trọng nhằm giúp con người phòng ngừa và vượt qua được những trở
ngại rủi ro trong cuộc sống. Ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội được biết đến từ rất
sớm và được xem là một trong những công cụ đắc lực trợ giúp cho người lao
động trang trải khi gặp những biến cố đột xuất xảy ra trong cuộc sống, bằng
cách sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho
người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân
do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động
hoặc khi chết.
BHXH tự nguyện có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời, nó
được thực hiện rộng rãi trên thế giới, xuất phát đầu tiên từ ở Đức và ở Anh,
15

với những quỹ khác nhau do các hội nghề nghiệp, hội tương tế quản lý. Ở
mỗi quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển dân trí khác nhau thì chính
sách, pháp luật về BHXH cũng có những điểm khác nhau. Dù trình độ dân trí
có khác nhau nhưng loại hình BHXH tự nguyện là loại hình được xây dựng
trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của người tham gia, bằng cách đóng góp một
phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ bảo hiểm nhằm giảm bớt
những rủi ro, biến cố của người tham gia như mất việc làm, ốm đau, tai nạn,
tử tuất
Theo quy định của Luật BHXH, BHXH tự nguyện được định nghĩa
như sau: “BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện
tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu
nhập của mình để hưởng BHXH” (khoản 3, Điều 3).
Qua khái niệm này, có thể thấy người lao động tự nguyện tham gia
hoặc không tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp
với khả năng kinh tế và thu nhập của mình, điều này đã tạo điều kiện cho
người tham gia có thể cân đối nguồn tài chính trong gia đình để lựa chọn mức
đóng phù hợp và có điều kiện để tham gia BHXH tự nguyện nhằm giảm bớt

những rủi ro khi xảy ra cho bản thân và gia đình. Nhà nước đã đề ra các quy
định về mức đóng, quy định các chế độ của BHXH tự nguyện, điều kiện để
hưởng và mức hưởng để đảm bảo bù đắp những rủi ro cho người tham gia
BHXH tự nguyện. Như vậy, Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một công cụ bảo
đảm tối thiểu để người lao động duy trì và tái tạo khả năng lao động mà
không phải là các khoản chi trả trực tiếp để người lao động chữa bệnh khi ốm
đau, tai nạn, người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù
hợp để được hưởng các chế độ bảo hiểm.

16

1.2.2. Nguyên tắc pháp luật BHXH tự nguyện
BHXH là một trong những chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia.
Việc thực hiện chính sách BHXH đều tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc BHXH là những quy định nhằm đảm bảo cho các hoạt động
BHXH diễn ra bình thường, đạt được mục tiêu mong muốn của nó.
BHXH tự nguyện là một trong những bộ phận cấu thành nên BHXH, vì
vậy BHXH tự nguyện tuân thủ theo những nguyên tắc chung của BHXH và
tuân theo những nguyên tắc riêng. Những nguyên tắc chung của BHXH được
tổng hợp từ những văn bản của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về BHXH và
từ những chính sách của các quốc gia có hệ thống an sinh tiên tiến trên thế
giới. Theo đó, nguyên tắc chung BHXH cụ thể như sau:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của
người tham gia. Đây là một trong những nguyên tắc đặc trưng của BHXH tự
nguyện. Nguyên tắc này thể hiện sự tự nguyện của người lao động có quyền
tự do lựa chọn tham gia hoặc không tham gia BHXH tự nguyện. Họ có quyền
được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng BHXH tự nguyện phù hợp với
thu nhập của mình. Phí đóng BHXH tự nguyện dựa hoàn toàn vào sự đóng
góp của người lao động mà không có sự đóng góp nào khác của người sử
dụng lao động. Nguyên tắc này xuất phát từ đối tượng của loại hình BHXH tư

̣

nguyê
̣
n, những người tham gia BHXH thường là những người lao động có thu
nhập thấp và không ổn định nên họ cần được tạo điều kiện phù hợp với nhu
cầu để thuận lợi hơn cho họ khi tham gia BHXH tự nguyện.
Thứ hai, các quy định BHXH tự nguyện phải linh hoạt trong giới hạn
hợp lý của toàn hệ thống, nhằm đảm bảo cân đối, hài hoà lợi ích của các chủ
thể trong quan hệ BHXH tự nguyện.
17

Đa phần người lao động có nhu cầu thiết yếu về BHXH. Song nhu cầu
đó phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ
BHXH. Trong BHXH tự nguyện, tính linh hoạt được thể hiện rõ nét nhất ở
quy định về mức đóng, phương thức đóng và mức hưởng bảo hiểm. Người lao
động khi tham gia BHXH tự nguyện thường có quan hệ lao động không ổn
định. Hằng tháng, người lao động có thể làm nhiều công việc khác nhau, ở
nhiều nơi khác nhau, với nhiều chủ sử dụng lao động, do đó mức thu nhập
giữa các tháng cũng khác nhau. Người lao động khi sử dụng thu nhập của
mình, trước hết họ dành phần lớn chi cho các nhu cầu sinh sống hằng ngày
của bản thân và gia đình, phần còn lại họ xem xét để đóng phí BHXH tự
nguyện. Phương thức đóng cũng cần phải linh hoạt để người lao động có thể
đóng bảo hiểm hằng tháng, hằng quý, hoặc sáu tháng một lần, thậm chí một
năm một lần. Tuy nhiên, mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở
mức thu nhập do người lao động lựa chọn, nhưng mức thu nhập này theo quy
định của pháp luật Việt Nam thì mức đóng thấp nhất bằng mức lương tối
thiểu chung và cao nhất không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung. Việc
quy định mức thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và mức cao nhất
bằng hai mươi lần lương tối thiểu nhằm tạo sự cân đối lợi ích của các chủ thể

trong quan hệ BHXH tự nguyện. Người lao động đóng BHXH ở mức thấp thì
đương nhiên chỉ nhận được trợ cấp thấp; muốn được hưởng trợ cấp BHXH
cao, điều đương nhiên người lao động sẽ phải đóng phí cao hơn. Nếu người
tham gia BHXH đóng phí BHXH thấp mà hưởng trợ cấp BHXH cao, sẽ ảnh
hưởng đến an toàn của quỹ BHXH và tính lâu dài của chính sách BHXH sẽ
không co
́
khả năng thực thi. Hiện nay nước ta đang ở trong tình trạng bội chi
ngân sách, nhà nước cần có những chính sách phù hợp để đảm bảo sự an toàn
của quỹ BHXH, đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHXH tự nguyện.
18

Người lao động tham gia BHXH tự nguyện thường có thu nhập không
ổn định, bấp bênh nên không thể có mức đóng ổn định, họ có thể tạm ngừng
đóng BHXH tự nguyện không cần có lý do. Vì vậy, người lao động có quyền
tự chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với khả năng của họ. Mức
hưởng BHXH tự nguyện cần đa dạng hơn và cần được tính toán trên cơ sở
mức đóng, thời gian tham gia BHXH. Quy định mức hưởng BHXH tự nguyện
như vậy mới đảm bảo cân đối được lợi ích của người tham gia bảo hiểm và
đảm bảo cân đối nguồn quỹ BHXH tự nguyện.
Thứ ba, đảm bảo liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
Mục đích chung của loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện là
đảm bảo an sinh xã hội cho người tham gia. Thông thường, người tham gia
BHXH bắt buộc được hưởng nhiều chế độ hơn người tham gia BHXH tự
nguyện. Trên thực tế, tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của quan hệ lao
động mà người lao động có thể có thời gian tham gia BHXH bắt buộc vừa có
thời gian tham gia BHXH tự nguyện. Pháp luật Việt Nam đã quy định khá chi
tiết về việc chuyển đổi giữa hai loại hình bảo hiểm này và người lao động
trong cùng một thời điểm chỉ có thể tham gia đóng BHXH bắt buộc hoặc
BHXH tự nguyện. Sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện

nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động khi họ vừa có
thời gian tham gia BHXH tự nguyện, vừa có thời gian tham gia BHXH bắt
buộc để họ có thể hưởng chế độ hưu trí, chế độ tử tuất theo quy định của pháp
luật trên cơ sở thời gian đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
1.2.3. Nội dung pháp luật BHXH tự nguyện
Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện
BHXH có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác của quốc gia
như các chính sách về an sinh xã hội và các chính sách xã hội. Trong hệ thống
19

an sinh xã hội của một quốc gia thường bao gồm các chính sách về BHXH,
trợ giúp xã hội, trợ cấp gia đình, các quỹ tiết kiệm xã hội, các dịch vụ xã hội
khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng… Trong đó, BHXH là một trụ
cột cơ bản nhất và có mối quan hệ mật thiết với các bộ phận khác, nhằm góp
phần thực hiện an sinh xã hội đất nước. Việc thực hiện chính sách BHXH còn
chịu tác động của nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, khả năng tài chính, các yếu tố về cơ chế, chính sách, thể chế, pháp luật
và trình độ nhận thức của người dân. Chính sách BHXH có mối quan hệ hữu
cơ với các chính sách xã hội khác như chính sách dân số, chính sách lao động
- việc làm, chính sách chăm sóc sức khỏe dân cư… Khi dân số tăng hoặc
giảm sẽ làm cho cơ cấu dân số thay đổi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu,
quy mô của đối tượng tham gia BHXH.
BHXH tự nguyện cũng là một trong những bộ phận cấu thành nên
chính sách an sinh xã hội. Quan hệ BHXH tự nguyện cũng tương tự như
BHXH nói chung đều có sự tham gia của các chủ thể sau:
- Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện.
- Chủ thể được hưởng BHXH tự nguyện.
- Chủ thể thực hiện BHXH tự nguyện.
Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện
Chủ thể tham gia BHXH tự nguyện là người đóng góp phí BHXH để

bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được BHXH. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, chủ thể tham gia BHXH là người sử dụng lao động,
người lao động và trong chừng mực nào đó có cả nhà nước. Tuy nhiên hiểu
theo nghĩa rộng thì người sử dụng lao động cũng có thể là người gián tiếp
tham gia BHXH tự nguyện.

×