Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

HỌC PHẦN QUẢN LÝ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VÀ QUẢN LÝ NHÀ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.58 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TIỂU LUẬN
QUẢN LÝ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VÀ QUẢN
LÝ NHÀ TRƯỜNG
Nêu và phân tích (tính cần thiết và khả thi) giải pháp có tính đột phá và then
chốt để thực hiện nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT trong Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, BCHTƯ khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW). Liên
hệ thực tế ở cơ sở giáo dục hay địa phương anh chị công tác.
Giảng viên phụ trách: TS. Nguyễn Trọng Hậu
Học viên:

HÀ NỘI – 2014
1
HỌC PHẦN QUẢN LÝ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VÀ
QUẢN LÝ NHÀ TRƯỜNG
Đề bài:
Nêu và phân tích (tính cần thiết và khả thi) giải pháp có tính đột phá và
then chốt để thực hiện nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, BCHTƯ khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW).
Liên hệ thực tế ở cơ sở giáo dục hay địa phương anh chị công tác.
2
Bài làm
Ngày 04 tháng 11 năm 2013 tại Hà Nội Nghị quyết về “Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế” (gọi tắt là Nghị quyết 29) đã được Hội nghị Trung ương 8
(khóa XI) thông qua.
Mục tiêu tổng quát của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo nước nhà đã được Nghị quyết 29 chỉ ra là "Tạo chuyển biến căn
bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng


tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực
học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo
dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao
chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc
tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản
sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực".
Để đạt được mục tiêu nói trên, Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra 9
nhóm nhiệm vụ và giải pháp. Trong 9 nhiệm vụ, giải pháp đó, theo tôi nhiệm
vụ và giải pháp thứ 5 “đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo,
bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của
các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng” là giải pháp đột
phá và giải pháp thứ 6 “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo” là giải pháp then chốt chốt bảo
đảm sự thành công của công cuộc đổi mới nền giáo dục đáp ứng yêu cầu công
3
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm “đổi mới” có thể hiểu theo hai cách:
- Đổi mới là thay cái cũ đang có bằng cái mới tiến bộ, thích hợp hơn.
- Đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với
trước, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
Khái niệm “đột phá”: Theo từ điển Tiếng Việt đột phá là chọc thủng,
phá vỡ một số đoạn, điểm yếu trong hệ thống tạo nên những bước chuyển
biến mới, mạnh mẽ.
Khái niệm “then chốt”: Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, then chốt

là thuật ngữ chỉ cái quan trọng nhất, có tác dụng quyết định đối với toàn bộ.
2. Tính cần thiết của giải pháp có tính đột phá và then chốt trong Nghị
quyết số 29.
2.1. Cơ sở lý luận
Đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có vai trò rất
quan trọng trong sự thành bại của sự nghiệp giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên hệ thống giáo dục quốc dân và trong
một nhà trường thì yếu tố đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ nhà giáo (người
dạy) giữ vai trò trung tâm, xuyên suốt của hệ thống. Sản phẩm của họ khác
với sản phẩm của các loại hình lao động khác ở chỗ: Sản phẩm này tích hợp
cả nhân tố tinh thần và vật chất, đó là “Nhân cách – sức lao động”.
Thành quả lao động của họ vừa tác động vào hình thái ý thức xã hội
(giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, tình đoàn kết đồng thuận của đất nước),
vừa hình thành sức lao động kỹ thuật thúc đẩy sự năng động của đời sống thị
trường, ở đây là thị trường sức lao động.
Sứ mệnh của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có ý nghĩa
cao cả đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của
4
họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước, cộng đồng đi vào
trạng thái phát triển bền vững.
Một ngày thiếu giáo dục đất nước không thể tồn tại được và giáo dục
không có người thầy không thể vận động được.
Nói về tầm quan trọng của người giáo viên, đội ngũ giáo viên trong thế
kỷ XXI, Tiến sĩ Raja Roy Singh – nhà giáo dục nổi tiếng ở Ấn độ đã khẳng
định: “Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình giáo dục và đặc biệt
trong việc định hướng lại giáo dục”.
Hiện nay, nhà giáo có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục-đào tạo
nói riêng và trong sự phát triển của xã hội nói chung. Từ thuở xa xưa, cha ông
ta đã nhắc nhở con cháu “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy” và “Không thầy đố
mày làm nên”. Khoa học công nghệ dù phát triển đến đâu chăng nữa thì máy

móc cũng không thể thay thế được người thầy trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo.
2.2. Cơ sở pháp lý
Vai trò quan trọng của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đã được quy
định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục.
Luật giáo dục sửa đổi bổ sung năm 2009 đã khẳng định:
Điều 15. Vai trò và trách nhiệm của nhà giáo
Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi
ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực
hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý
trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học.
Điều 16. Vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục
Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản
lý, điều hành các hoạt động giáo dục.
5
Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm cá
nhân.
Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý
giáo dục, bảo đảm phát triển sự nghiệp giáo dục.
Trong 8 giải pháp của Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã khẳng
định giải pháp đầu tiên “Đổi mới quản lý giáo dục” là giải pháp đột phá và giải
pháp “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” là giải pháp then
chốt để đảm bảo thành công của sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý, Nghị quyết số 29 đã đánh giá cao vai trò đặc biệt quan trọng của đội
ngũ các nhà giáo trong sự nghiệp giáo dục-đào tạo nước nhà. Nghị quyết
khẳng định, những thành tựu của nền giáo dục-đào tạo nước nhà trong thời

gian qua, trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc; sự quan
tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục;
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.3.1. Đội ngũ nhà giáo
a. Về số lượng và cơ cấu nhà giáo:
Tính đến năm học 2010-2011, cả nước có khoảng 1.069.100 nhà giáo
(bao gồm: 171.900 giáo viên mầm non; 344.900 giáo viên tiểu học; 312.400
giáo viên trung học cơ sở; 136.600 giáo viên trung học phổ thông; 15.100
giáo viên các trung tâm giáo dục thường xuyên; 14.500 giáo viên trung cấp
chuyên nghiệp; 20.200 giáo viên các trường dạy nghề, trung cấp nghề, cao
đẳng nghề, trung tâm dạy nghề và 53.500 giảng viên đại học, cao đẳng). Tình
trạng thiếu giáo viên diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp học, cụ thể:
6
- Đối với giáo dục mầm non: tỷ lệ bình quân trong nhóm nhà trẻ là 10
trẻ em/giáo viên (quy định là 8 trẻ em/giáo viên), trong nhóm mẫu giáo là
20,6 trẻ em/giáo viên (quy định là 20 trẻ em/giáo viên);
- Đối với giáo dục tiểu học: tỷ lệ bình quân đạt 1,29 giáo viên/lớp, tuy
vượt định mức 1,20 giáo viên/lớp dạy học 1 buổi/ngày, song so với yêu cầu
dạy học 2 buổi/ngày (định mức là 1,50 giáo viên/lớp) thì mới chỉ đáp ứng
được 86% nhu cầu về số lượng giáo viên.
- Đối với giáo dục trung học phổ thông: tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 2,01,
song còn quá thấp (định mức là 2,25);
- Đối với giáo dục đại học: khối cao đẳng có tỷ lệ bình quân 23,86 sinh
viên/giảng viên; khối đại học có tỷ lệ bình quân 27,75 sinh viên/giảng viên,
đều cao hơn mức 20 sinh viên/giảng viên.
Vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở
các địa bàn khác nhau (thừa giáo viên ở các trung tâm, thành phố, thị xã, thị
trấn nhưng lại thiếu giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn),

theo môn học (thừa giáo viên dạy văn hoá, thiếu giáo viên dạy các môn đặc
thù, tự chọn) và theo ngành nghề đào tạo.
b. Về chất lượng đội ngũ nhà giáo:
- Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, cụ thể:
giáo viên mầm non đạt 90%; giáo viên tiểu học đạt 97,8%; giáo viên trung học
cơ sở đạt 98,6%; giáo viên trung học phổ thông đạt 97,5%; giáo viên trung cấp
chuyên nghiệp đạt 94,66%; giáo viên dạy nghề đạt 58,88%; giáo viên cao đẳng
nghề đạt 82,83%; giáo viên trung cấp nghề đạt 73,16% và giảng viên đại học,
cao đẳng đạt 92,93%. Số chưa đạt chuẩn giảm dần hàng năm.
Mặc dù số lượng nhà giáo đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo
là rất cao, nhưng năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhiều nhà
giáo còn hạn chế, chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, vẫn còn có
7
những giáo viên xếp loại yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là nhà giáo
công tác ở miền núi, ít có điều kiện nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức.
- Về nghiệp vụ sư phạm: phần lớn nhà giáo đều đã qua đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ nhà
giáo đã được nâng lên (đặc biệt ở các cấp học cao và đối với giảng viên). Tuy
nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực sư
phạm, trình độ tin học và ngoại ngữ. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng
nhà giáo gặp khó khăn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy tiên
tiến, hạn chế khả năng nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế.
- Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp tốt; hầu hết đều tận tuỵ với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần trách
nhiệm cao, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số ít nhà giáo do
chạy theo vật chất đơn thuần, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và học sinh đối với ngành giáo
dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã chỉ đạo nghiêm túc, có biện pháp
giáo dục, xử lý kịp thời, thậm chí đưa ra khỏi ngành những người vi phạm đạo

đức, lối sống và chuẩn mực của người thầy.
c. Về công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ nhà giáo còn
nhiều khó khăn, bất cập:
- Về chính sách phát triển giáo dục mầm non: biên chế giáo viên mầm
non rất khó khăn, trong khi lương của giáo viên hợp đồng quá thấp, dẫn đến
tình trạng nhiều nơi khó tuyển dụng giáo viên mầm non.
- Phần lớn các địa phương chưa thực hiện việc phân cấp tuyển dụng
theo Quyết định số 62/2007/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
- Chính sách luân chuyển nhà giáo và nghĩa vụ làm việc trong ngành
giáo dục sau tốt nghiệp đối với sinh viên sư phạm còn thiếu cơ chế, biện pháp
khả thi để triển khai thực hiện có hiệu quả.
8
- Công tác đánh giá phân loại nhà giáo đã có nhiều đổi mới, bước đầu
phát huy tính tích cực, tạo động lực và khuyến khích nhà giáo phấn đấu vươn
lên. Tuy nhiên, hạn chế trong công tác này là nhận thức và trách nhiệm của
một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đầy đủ, còn né tránh,
nể nang; chưa ban hành kịp thời các tiêu chí đánh giá, thiếu các tiêu chí cụ
thể, định lượng nên việc đánh giá chưa thật chính xác, khách quan, chưa phản
ánh đúng thực chất về đội ngũ.
- Những năm qua, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với các bộ, ngành tập trung
xây dựng và ban hành được một hệ thống văn bản chỉ đạo tương đối đồng bộ,
tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương và các cơ sở giáo dục thực hiện tốt
chế độ chính sách đối với đội ngũ nhà giáo (như: chế độ chính sách đối với
nhà giáo công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn; chính sách miễn thu học phí đối với học sinh vào học
ngành sư phạm.v.v ). Cùng với chính sách chung của Nhà nước, tùy vào điều
kiện kinh tế của từng vùng, các sở GD&ĐT đã tích cực tham mưu với các cấp
chính quyền để có những chính sách riêng hỗ trợ cho đội ngũ nhà giáo (như:
chế độ hỗ trợ tiền lương cho giáo viên mầm non ngoài công lập; chế độ hỗ trợ
cho giáo viên đi học tập nâng cao trình độ.v.v…). Tuy nhiên, chế độ chính

sách cho đội ngũ nhà giáo hiện còn nhiều hạn chế, vướng mắc, như:
+ Nhiều quy định trong chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
nhà giáo đã ban hành từ lâu, không còn phù hợp song chậm được bổ sung, sửa
đổi, như: chế độ cho giáo viên đi bồi dưỡng tập trung theo Quyết định số
291/CP ngày 30/12/1974 của Hội đồng Chính phủ; chế độ làm việc và định
mức lao động của nhà giáo; Chế độ thanh toán tiền lương dạy thêm giờ và
phụ cấp dạy lớp ghép; chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm và chế
độ cấp bù học phí sư phạm.v.v
+ Bất cập trong việc thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo, cụ
thể như: chưa giải quyết triệt để bất hợp lý trong hệ thống thang, bảng lương, chế độ
9
phụ cấp cho nhà giáo, chính sách tiền lương đối với giáo viên mầm non và chế độ
đối với giáo viên hợp đồng; thu nhập của nhà giáo ở các trường công lập và ngoài
công lập có khác biệt lớn; đời sống của phần đông nhà giáo vẫn còn khó khăn, điều
kiện làm việc còn hạn chế nên bản thân họ chưa thực sự yên tâm công tác, thậm chí
ở một số thành phố lớn đã có hiện tượng giáo viên xin nghỉ việc, chuyển chỗ, làm
nghề khác.v.v…
2.3.2. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
a. Về số lượng: Tính đến năm học 2010-2011, cả nước có khoảng
120.000 cán bộ quản lý giáo dục (trong đó, giáo dục mầm non: 18%; giáo dục
phổ thông: 65%; giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học: 6% và ở cơ quan
quản lý giáo dục các cấp: 11%).
b. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đã đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ, song vẫn còn nhiều bất cập:
- Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn trình độ
đào tạo; tuy nhiên, khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác quản lý còn rất hạn chế. Đa số chưa được đào tạo có hệ
thống về công tác quản lý, trình độ và năng lực điều hành quản lý còn bất cập,
tính chuyên nghiệp thấp, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên
chất lượng, hiệu quả công tác còn nhiều hạn chế.

- Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có ý thức chính trị, phẩm
chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn sư phạm cao (do hầu hết là những
nhà giáo được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý), có kinh
nghiệm trong công tác quản lý giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán
bộ quản lý giáo dục có biểu hiện chạy theo những tiêu cực của kinh tế thị
trường, chưa tích cực, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
c. Công tác sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cũng
còn nhiều khó khăn, bất cập, như: chưa giải quyết thoả đáng chế độ chính sách
10
đối với những nhà giáo được điều động sang làm công tác quản lý; thu nhập
của cán bộ quản lý giáo dục ở các trường công lập và ngoài công lập có khác
biệt lớn; đời sống của phần đông cán bộ quản lý giáo dục gặp khó khăn, điều
kiện làm việc còn hạn chế nên nhiều người chưa thực sự yên tâm công tác.
2.3.3. Công tác quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ôm
đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý
chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài
chính. Hệ thống pháp luật và chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm
được sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp giữa ngành giáo dục và các bộ, ngành, địa
phương chưa chặt chẽ. Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính
cho giáo dục chưa hợp lý; hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao. Đầu tư của
Nhà nước cho giáo dục chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên; phần
chi cho hoạt động chuyên môn còn thấp. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
của các cơ sở giáo dục chưa được quy định đầy đủ, sát thực.
Với những phân tích ở trên cho thấy, mặc dù đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục có vai trò rất quan trọng nhưng trên thực tế hai yếu tố này vẫn
còn nhiều tồn tại, bất cập, yếu kém ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giáo
dục và hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, việc đổi mới quản lý giáo dục và
phát triển đội ngũ nhà giáo đang trở thành yêu cầu cấp bách của toàn ngành

giáo dục và xã hội.
3. Tính khả thi của giải pháp có tính đột phá và then chốt trong Nghị
quyết số 29.
Để thực hiện thành công đổi mới giáo dục lần này, chúng tôi cho rằng
đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức là khâu khởi đầu và có ý nghĩa rất quan
trọng, thậm chí là yếu tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Bởi
vì, nếu không có nhận thức mới, không có tư duy phù hợp thì không thể có
chương trình, kế hoạch chuẩn xác để triển khai được.
11
Như chúng ta đã biết quá trình đổi mới căn bản và toàn diện ngành giáo
dục sẽ phải trải qua rất nhiều giai đoạn, thực hiện nhiều đề án, chương trình
hành động… mới đem lại hiệu quả. Nghị quyết 29 đã khẳng định một số giải
pháp mang tính đột phá then chốt, đó là vấn đề giáo viên, cán bộ quản lí, đó là
công tác quản lí trước hết là của ngành GD&ĐT… Nhưng việc triển khai chỉ
đạo cụ thể trong từng lĩnh vực, trong từng thời gian sẽ có những ưu tiên. Như
trong triển khai biên soạn chương trình mới, SGK mới sẽ có giải pháp then
chốt là nhanh chóng tiếp cận và làm chủ được phương pháp thiết kế chương
trình theo lối phát triển năng lực của người học.
Trong một, hai năm đầu triển khai Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì việc đổi mới thi cử là khâu có ý
nghĩa đột phá vì các lý do sau:
Thứ nhất, nền giáo dục của chúng ta hiện nay đang nặng về ứng thí, đổi
mới thi cử sẽ dẫn ngay đến đổi mới trong nội dung, phương pháp học và dạy.
Đổi mới thi cử không là mục tiêu cuối cùng, nhưng nếu làm tốt sẽ làm lay
chuyển các khâu xung yếu khác, dẫn đến sự thay đổi trong cả hệ thống và sẽ
tạo ra những thay đổi về chất.
Thứ hai, thi cử đang là một khâu gây nhiều bức xúc, được cả xã hội
quan tâm.
Thứ ba, nếu chuẩn bị chu đáo thì chúng ta có thể thực hiện được ngay
đổi mới thi cử, đảm bảo được yếu tố chắc thắng mà không cần phải đầu tư

nhiều kinh phí, cơ sở vật chất
3. Liên hệ thực tế ở cơ sở giáo dục anh chị công tác
Qua 17 năm thành lập và phát triển, đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức của trường Cao đẳng Vĩnh Phúc không ngừng trưởng thành cả về số
lượng và chất lượng; kiến thức, năng lực thực tiễn không ngừng được nâng
lên, hầu hết có bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường, quyết tâm thực hiện
công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Toàn trường hiện
12
có 150 cán bộ, giảng viên và công nhân viên, 100% giảng viên của trường
phấn đấu đạt chuẩn theo quy định Nhà nước. Trong đó có 4 tiến sĩ, 68 thạc sĩ,
còn lại là đại học và cao đẳng. Đội ngũ cán bộ viên chức ngày càng trưởng
thành đủ phẩm chất và năng lực, vững vàng, tự tin trong công việc, đảm
đương được cơ bản các khâu của quá trình đào tạo.
Bên cạnh những ưu điểm ở trên, hiện nay trường Cao đẳng Vĩnh Phúc
cũng đang gặp một số khó khăn trong công tác quản lý và phát triển đội ngũ
cán bộ, giảng viên. Cụ thể:
Trong công tác quản lý chưa sử dụng và khai thác phần mềm quản lý
dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các phòng, ban, khoa, tổ, trung tâm còn ôm
đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý
chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý.
Còn một bộ phận cán bộ quản lý có biểu hiện chạy theo những tiêu cực
của kinh tế thị trường, chưa tích cực, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Đội ngũ cán bộ, giảng viên có học vị Tiến sĩ còn quá ít, chiếm khoảng
4% số giảng viên trong trường, có bộ môn chưa có cả thạc sĩ, một số cán bộ
giảng viên sau khi nghiên cứu sinh xong không muốn trở lại trường công tác.
Chưa giải quyết thoả đáng chế độ chính sách đối với những nhà giáo
được điều động sang làm công tác quản lý; đời sống của phần đông cán bộ
giảng viên gặp khó khăn, điều kiện làm việc còn hạn chế nên nhiều người chưa

thực sự yên tâm công tác.
Trong thời gian tới cùng với ngành giáo dục – đào tạo, Ban giám hiệu và
cán bộ giảng viên trường Cao đẳng Vĩnh Phúc cần thực hiện một số yêu cầu sau:
Thay đổi nhận thức trong công tác lãnh đạo, quản lý. Coi đổi mới công
tác quản lý và phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên là nhiệm vụ sống còn của
Nhà trường. Thực hiện quản lý theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
13
Bảo đảm dân chủ hóa trong Nhà trường. Thực hiện cơ chế người học
tham gia đánh giá người dạy, giảng viên tham gia đánh giá cán bộ quản lý.
Tập trung vào quản lý chất lượng đào tạo: chuẩn hóa đầu ra và các điều
kiện đảm bảo chất lượng trên cơ sở ứng dụng các thành tựu mới về khoa học
giáo dục, khoa học công nghệ và khoa học quản lý.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý giáo dục.
Chuẩn hóa trong đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đánh giá nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục. Chú trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong
và tư cách của đội ngũ nhà giáo để làm gương cho học sinh, sinh viên.
14
KẾT LUẬN
Chúng ta đều biết giáo dục là một vấn đề hệ trọng và phức tạp, liên
quan đến mọi gia đình, liên quan đến sự phát triển của đất nước. Những thay
đổi về mục tiêu, nội dung, phương pháp và cách thức kiểm tra, đánh giá sẽ có
tác động đến không chỉ đội ngũ giáo viên, học sinh, các nhà quản lý giáo dục
mà còn tác động trực tiếp đến hàng triệu gia đình và toàn thể xã hội. Bởi vậy
mà việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục sẽ là một thách thức không nhỏ.
Nhưng rõ ràng, khắc phục được khó khăn, vượt qua thách thức thì giáo dục
nước ta mới có thể phát triển, trở thành nền giáo dục tiên tiến trong khu vực
và dần dần theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Có Nghị quyết của
Đảng, có sự đồng thuận của toàn xã hội, cùng với sự nỗ lực hết mình của
ngành Giáo dục, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được những thành tựu mới.

15

×