Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2 : PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.18 KB, 12 trang )

TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2 : PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN.
I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ở Tiểu học , môn Tiếng Việt và môn Toán là hai môn học trọng tâm được gọi là
hai môn “công cụ”. Môn Toán cung cấp cho học sinh: Những kiến thức cơ bản về số
học, hình học, đại lượng và đo đại lượng, giải toán có lời văn; học sinh biết tính toán,
đo lường, giải toán, vận dụng vào thực tiễn. Qua đó giúp phát triển tư duy, trí tuệ phát
triển các phẩm chất đạo đức cần thiết, đem lại niềm hứng thú, sự tự tin cho học sinh.
Môn tiếng việt có mục tiêu cũng không kém phần quan trọng.Việc dạy học Tiếng Việt
giúp hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc,
viết ) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động lứa tuổi.Thông qua việc dạy
và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện thao tác của tư duy,bên cạnh đó còn cung cấp
cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng việt, những hiểu biết sơ giản về xã hội,
tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài; đồng thời
còn bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Trong khuôn khổ của bài viết này, tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ của việc
dạy học tiếng Việt, thông qua dạy học phân môn Kể chuyện.
Trong môn Tiếng Việt, phân môn kể chuyện cũng có một vị trí quan trọng. Kể
chuyện và nghe chuyện là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của trẻ
em.Từ thuở còn bé thơ, các em đã thích nghe kể chuyện. Bước vào tuổi học đường,
nhu cầu kể chuyện của các em ngày càng trở nên bứt thiết hơn. Phân môn kể chuyện
trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học đã đáp ứng yêu cầu trên của trẻ. Mặt khác,
việc kể chuyện không thể tách rời với nội dung được kể trong chuyện. Đó là những tác
phẩm văn học có giá trị của Việt Nam và thế giới được tuyển chọn để phù hợp với bản
tính hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng và tràn đầy cảm xúc của trẻ em. Nó đáp được nhu
cầu được giải trí, vui chơi, được xúc động và sáng tạo khám phá, được thấy cái tốt, lẽ
công bằng … Phân môn kể chuyện góp phần lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm
xúc, đem lại niềm vui, sự hứng thú, trau dổi vốn sống, vốn văn học, phát triển tư duy


và ngôn ngữ cho học sinh. Chính vì vậy, tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể
chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói, tập kể chuyện, bước đầu tập dùng
ngôn ngữ của bản thân để diễn tả ( kể chuyện ) . Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh
được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lí thú, các em cảm nhận được nội dung
và thu hoạch được những bài học bổ ích.
Ở lớp 2, phân môn kể chuyện có nhiệm vụ:
1. Phát triển kĩ năng nói và nghe cho học sinh, bao gồm:
- Kĩ năng độc thoại: kể lại câu chuyện đã học hay đã nghe theo các mức độ khác
nhau ( kể từng đoạn, kể toàn bộ câu chuyện, kể theo lời lẽ trong văn bản, kể bằng lời
của mình ).
- Kĩ năng đối thoại: Tập dựng lại câu chuyện theo các vai khác nhau , bước đầu
biết sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp như: nét mặt, cử chỉ, điệu bộ . . .
Trang 1
- Kĩ năng nghe: Theo dõi được câu chuyện bạn kể tiếp hoặc nêu ý kiến bổ sung,
nhận xét.
2. Củng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và tư
duy logic, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực cuộc sống thông qua nội dung câu
chuyện.
3. Bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trau dồi hứng thú đọc và kể chuyện, đem lại niềm
vui tuổi thơ trong hoạt động học tập.
Để giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Kể chuyện cũng là cơ sở để các em có thể
học tốt các môn học khác có liên quan đến kĩ năng nói và nghe, đồng thời phát triển
vốn từ ngữ, phát triển tư duy của các em. Nhưng qua thực tế và việc khảo sát ở trường
tôi cho thấy việc giảng dạy phân môn kể chuyện chưa được giáo viên đầu tư đúng
mức, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh ở phân môn này chưa cao. Các em
không tự tin khi được gọi lên kể chuyện; còn lệ thuộc nhiều vào lời lẽ ở sách giáo
khoa; kể chuyện như đang đọc bài, chưa kết hợp được kể chuyện với kèm theo các yếu
tố phi ngôn ngữ ; . . . .
Vì vậy việc giảng dạy phân môn kể chuyện lớp 2 trong nhà trường cần được quan
tâm nhiều hơn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phân môn này, với vai trò là một cán

bộ quản lí chuyên môn trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Một số biện
pháp quản lí hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2: Phân môn kể chuyện ”.
II/. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
1/. Thuận lợi:
Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện cho tập thể giáo viên tự thể hiện và
phát huy khả năng trong giảng dạy và học tập.
Việc đổi mới chương trình và Sách giáo khoa Tiếng Việt trong đó có phân môn Kể
chuyện lớp 2 được tiến hành được nhiều năm. Học sinh đã được làm quen với cách
học mới từ lớp anh chị của mình nên dễ dàng tiếp nhận và thực hành dưới sự hướng
dẫn của giáo viên.
Mặt khác phân môn Kể chuyện lớp 2 nhìn chung có nội dung ngắn gọn, cụ thể có
định hướng rõ ràng, chủ yếu là thực hành nhằm rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (
nghe, nói, đọc, viết ) cho học sinh.
2/. Khó khăn:
Trường tôi còn có một số phụ huynh có quan điểm “ trăm sự nhờ thầy, nhờ cô”
giao khoán cho giáo viên chủ nhiệm. Điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
học tập của phân môn.
Mặt khác, trình độ giáo viên không đồng đều, việc tiếp nhận thông tin từ nguồn
sách giáo khoa, các tài liệu hỗ trợ giảng dạy cũng như việc đổi mới phương pháp trong
dạy học nói chung và dạy học phân môn kể chuyện nói riêng chưa đồng bộ nên hiệu
quả giảng dạy và học tập chưa cao.
3. Số liệu thống kê:
Chất lượng học tập phân môn kể chuyện lớp 2 năm học 2010 – 2011 ( thời điểm
đầu năm học, khoảng tháng 10):
Phân tích các tiết dạy mà tôi đã dự môn Kể chuyện lớp 2, trong đó học sinh làm
các bài tập đạt với các mức như:
Trang 2
Lớp TSHS
khảo
sát

Số học sinh thực
hành Kể được từng
đoạn câu chuyện
Tỉ lệ
%
Số học sinh thực
hành Kể lại được
toàn bộ câu chuyện
Tỉ lệ
%
2/1 36 20 55,6 16 44,4
2/2 36 22 61,1 14 38,9
2/3 34 20 58,8 14 41,2
2/4 37 25 67,6 12 32,4
2/5 36 22 61,1 14 38,9
2/6 34 22 64,7 12 35,3
2/7 36 24 66,7 12 33,3
TC 249 155 62,2 94 37,8
Những con số này cũng đã phản ánh phần nào chất lượng học tập cũng như giảng
dạy của giáo viên và học sinh qua phân môn Kể chuyện. Nếu các em được học tốt,
được tạo cơ hội rèn luyện kĩ năng nói và kĩ năng nghe, kĩ năng giao tiếp với bạn qua
từng tiết học , trong từng bài thì cũng phần nào đem lại kết quả khả quan hơn, các em
sẽ tự tin, mạnh dạn hơn và tạo ra niềm vui thích, sự hứng thú cho cả thầy lẫn trò.
III/. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lí luận:
1.1 Dạy kể chuyện ở tiểu học:
Kể chuyện là một thuật ngữ được hiểu theo nhiều nghĩa. Trong phân môn kể
chuyện của môn Tiếng Việt ở tiểu học, kể chuyện được xem là một dạng nói
đặc biệt của độc thoại nhằm truyền đến người nghe những thông báo có
tínhnghệ thuật, những cảm xúc mang tính thẩm mĩ. Sự thành công của việc kể

chuyện do nhiều yếu tố tạo nên: nội dung câu chuyện phải hấp dẫn, có ý nghĩa
nhân văn sâu sắc, phù hợp với tâm lí tiếp nhận của từng lứa tuổi. Tuy nhiên , dù
câu chuyện có hay bao nhiêu nhưng không có nghệ thuật kể chuyện thì việc kể
chuyện cũng không đạt kết quả. Thành công của người kể phụ thuộc vào sự
thâm nhập câu chuyện, hứng thú và sự thể hiện ngữ điệu phù hợp. Ngoài ngữ
điệu, yếu tố phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử chỉ , điệu bộ …. cũng góp phần quan
trọng cho sự thành công của kể chuyện.
Thực tế cho thấy, kể chuyện có sức hấp dẫn kì lạ, đặc biệt là đối với học
sinh lứa tuổi tiểu học. Sức hấp dẫn đó không hề giảm đi dù câu chuyện đã được
các em đọc trước nhiều lần. Bởi lẽ khi kể chuyện, người kể không trình bày
nguyên văn một bản viết hay đọc lại văn bản đó, mà lúc này người kể nhập vào
một thế giới, khác với thế giới thực tại, đó là thế giới của câu chuyện.Trong câu
chuyện ấy, người kể lúc là người dẫn chuyện, lúc là nhân vật này hay nhân vật
khác. Người kể thể hiện tâm trạng của những nhân vật khác nhau, khi vui
sướng, hả hê, lúc lại buồn rầu, lo lắng.
Trang 3
Như vậy, kể chuyện mang tính tổng hợp. Nó sử dụng các hiểu biết về kĩ
năng dùng từ đặt câu, kĩ năng nghe và kĩ năng nói Tiếng Việt, kĩ năng trình bày
trước mọi người. Nói cách khác, đó là khả năng vận dụng những hiểu biết về
ngôn ngữ, lí thuyết sản sinh lời nói và sự hiểu biết về văn học, . . . vào việc kể
chuyện. Trong giờ kể chuyện, hầu như học sinh được phát huy tối đa khả năng
nói và nghe của mình . Do vậy, học sinh được rèn luyện kĩ năng kể chuyện, kĩ
năng giao tiếp bằng lời của mình để diễn đạt lưu loát, ứng xử nhanh nhẹn.
1.2Các thể loại truyệntrong sách Tiếng Việt lớp 2:
Trong cấu trúc sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân
bố như sau:
Thể loại truyện Số
lượng
Tên truyện
Thần thoại

Truyền thuyết
2
+ Sơn Tinh, thủy Tinh
+ Chuyện quả bầu
Cổ tích và cổ tích mới 5
+ Sự tích cây vú sữa
+ Hai anh em
+ Bà cháu
+ Tìm ngọc
+ Ông Mạng thắng Thần Gió
Ngụ ngôn 6
 Có công mài sắt có ngày nên kim
 Chuyện bốn mùa
 Một trí khôn hơn trăm trí khôn
 Kho báu
 Câu chuyện bó đũa
 Quả tim khỉ
Danh nhân lịch sử 3
 Ai ngoan sẽ được thưởng
 Chiếc rễ đa tròn
 Bóp nát quả cam
Sinh hoạt 10  Phần thưởng
 Bím tóc đuôi sam
 Chiếc bút mực
 Mẫu giáy vụn
 Người mẹ hiền
Trang 4
 Người thấy cũ
 Người làm đồ chơi
 Bông hoa niềm vui

 Sáng kiến của bé Hà
 Con chó nhà hàng xóm
 Những quả đào
Đồng thoại 3
 Bạn của Nai Nhỏ
 Chim Sơn Ca và Bông Cúc Trắng
 Bác sĩ Sói
 Tôm Càng và Cá Con
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
2.1 Những hình thức kể chuyện ở lớp 2:
Có 3 hình thức rèn luyện kĩ năng kể chuyện trong tiết kể chuyện. Đó là:
- Kể theo tranh: Các tranh minh hoạ giúp học sinh nhớ lại nội dung bài tập đọc
đã học, làm chỗ dựa để các em kể chuyện. Đôi khi các tranh này được đảo lộn thứ tự
so với nội dung câu chuyện đã học. Trong trường hợp này, trước hết học sinh cần sắp
xếp lại thứ tự các tranh cho đúng rồi mới kể. Đó cũng là biện pháp giúp học sinh nhớ
lại câu chuyện trước khi kể.
- Kể theo dàn ý cho sẵn: Trong tiết kể chuyện sau bài tập đọc, sách giáo khoa có
thể cung cấp cho học sinh dàn ý dưới dạng những câu hỏi hay những tên đoạn để làm
chỗ dựa cho học sinh kể lại câu chuyện đã học. Đây là một hình thức rèn luyện trí nhớ,
có yêu cầu cao hơn hình thức giúp đỡ bằng tranh minh hoạ.
- Phân vai, diễn lại một đoạn hoặc cả câu chuyện: Học sinh tiểu học rất thích
đóng kịch, dù đó không phải là những vở kịch có xung đột kịch, có diễn biến phức tạp.
Sách giáo khoa sử dụng hình thức này để rèn kĩ năng nói, kĩ năng kể cho học sinh,
Đồng thời giúp các em hiểu sâu hơn tính cách, tình cảm của nhân vật trong câu
chuyện đã học.
2.2 Các biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện:
Như đã nói ở trên, kể chuyện là một dạng nói nghệ thuật. Nhưng muốn rèn kĩ
năng kể chuyện, trước hết phải rèn cho học sinh nói năng rõ ràng, chính xác, lưu loát.
Cũng như phân môn Tập làm văn, phân môn Tập đọc, kĩ năng kể chuyện chỉ có thể rèn
luyện tốt trên cơ sở học sinh nói đúng. Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh được tiến

hành ở một số phân môn, bắt đầu từ việc luyện phát âm đúng chính âm, nói năng rõ
ràng, dùng từ, đặt câu chính xác, đúng quy tắc ngữ pháp, diễn đạt các ý đúng với hoàn
cảnh giao tiếp đến mức độ cao hơn là nói hay, biết sử dụng giọng nói, điệu bộ diễn tả
nhằm hỗ trợ cho việc thể hiện nội dung trong khi nói.
Để nhằm tạo ra ở học sinh năng lực kể chuyện. Giáo viên cần rèn luyện cho học
sinh các kĩ năng cơ bản sau:
2.2.1 Rèn kĩ năng kể chuyện chân thật : :
Trang 5
Dạy kể chuyện là việc hướng dẫn học sinh kể lại được lưu loát câu chuyện bằng
lời kể của chính các em trên cơ sở hiểu rõ nội dung của câu chuyện. Từ đó nâng cao
sự hiểu biết, giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ và phát triển tư duy cho học sinh.
Mọi thủ thuật kể chuyện sẽ chỉ có hiệu quả nếu người kể nắm vững nội dung và đặc
điểm nghệ thuật của truyện, thực sự thâm nhập vào truyện mình kể để tái hiện lại câu
chuyện một cách trung thực, không làm sai lạc ý nghĩa, nội dung của câu chuyện. Vì
vậy việc rèn luyện kĩ năng kể chuyện không thể tách rời với việc thông hiểu nội dung
của chuyện.
Ở lớp 2, chương trình đã tích hợp nội dung đọc hiểu của phân môn Tập đọc và kể
chuyện làm một. Vì vậy, tiết dạy kể chuyện được sắp xếp sau bài dạy tập đọc đầu tuần
để các em nhớ nội dung câu truyện vừa đọc. Hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài trong phân
môn Tập đọc và trong phân môn Kể chuyện đều hướng đến mục đích giúp học sinh
thông hiểu câu chuyện. Khi kể chuyện, người kể không chỉ tái hiện lại đúng diễn biến
của truyện hoàn toàn khách quan mà còn bộc lộ những cảm xúc chân thực và khả năng
sáng tạo của bản thân khi kể câu chuyện. Có thể rèn luyện kĩ năng kể chuyện chân
thực qua một số hình thức tập luyện chủ yếu sau:
+ Kể chuyện bằng lời của mình:
Yêu cầu của biện pháp này là kể không lặp lại nguyên văn từng từ ngữ trong
truyện như đọc. Học sinh có thể dùng từ, đặt câu theo cách khác, diễn đạt rõ thêm một
vài ý qua sự tưởng tưởng của mình.
Ví dụ: Kể lại cuộc gặp gỡ giữa bé Hà và thầy giáo (Truyện Bím tóc đuôi sam)
bằng lời của em.

+ Kể chuyện phân vai:
Phân vai dựng lại câu chuyện là một biện pháp kể chuyện được thực hiện từ lớp
1, nội dung của biện pháp này là phân cho mỗi học sinh mỗi vai để kể lại câu chuyện.
Yêu cầu của vai kể là mỗi em phải nói kịp thời, đúng vai, đúng lời nhân vật mà mình
đóng vai. Đối với học sinh khá, giỏi, yêu cầu các vai phải phối hợp nhịp nhàng, các em
phải thực sự nhập vai, hiểu nhân vật, nói lời nhân vật một cách biểu cảm, biết kết hợp
lời nói với cử chỉ, điệu bộ.
Ví dụ: Dựng lại câu chuyện (Người mẹ hiền) theo vai: người dẫn chuyện, Minh,
Nam, bác bảo vệ, cô giáo.
+ Kể chuyện theo trí tưởng tượng:
Đây là cách kể chuyện đòi hỏi học sinh phải tưởng tượng để kể chuyện. Tuy
nhiên, ở tiểu học chỉ yêu cầu học sinh sáng tạo một phần nào đó của câu chuyện đã có
sẳn sao cho phù hợp với các phần khác của câu chuyện.
Ví dụ: Em mong muốn câu chuyện Sự tích cây vú sữa kết thúc như thế nào? Hãy
kể lại đoạn cuối câu chuyện theo ý đó.
Hoặc: Nói lại ý nghĩa của hai anh em (truyện Hai anh em) khi gặp nhau.
2.2.2 Rèn kĩ năng kể chuyện diễn cảm:
- Kĩ năng thể hiện giọng điệu, ngữ điệu:
Kể chuyện diễn cảm là một yêu cầu của dạy học kể chuyện ở tiểu học nói chung
và ở lớp 2 nói riêng, nhằm diễn tả cảm xúc của người kể về câu chuyện đó. Đó là việc
thể hiện kĩ năng làm chủ giọng điệu, ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng…để
diễn tả đúng nội dung, ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gởi gắm trong truyện. Kể
Trang 6
chuyện diễn cảm phản ánh sự thông hiểu, cảm thụ của người kể đối với câu chuyện.
Giọng điệu, ngữ điệu đóng vai trò quan trọng trong việc kể diễn cảm. Việc xác định
giọng điệu, ngữ điệu trong quá trình kể phụ thuộc vào nội dung tư tưởng, thể loại và
phong cách ngôn ngữ của tác phẩm. Do vậy, giáo viên khi dạy kể chuyện cần có một
số phương pháp dạy phù hợp để giúp học sinh thể hiện đúng.
- Kĩ năng sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ để hỗ trợ cho lời kể:
Kể chuyện thuộc dạng lời nói, khi kể cần sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ để hỗ

trợ cho lời kể. Có nhiều yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ cho quá trình kể chuyện của học
sinh như cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt…Các yếu tố này nếu được sử dụng phù hợp, có mức
độ sẽ có hiệu quả tốt cho người nghe.
Tranh ảnh minh hoạ cũng có tác dụng giúp học sinh có những biểu tượng cụ thể
về tình tiết của truyện, vừa làm điểm tựa cho học sinh ghi nhớ diễn biến câu chuyện.
Những tranh này còn tạo hứng thú quan sát, kích thích sự sáng tạo trong lời nói, tăng
sức hấp dẫn cho giờ kể chuyện.
Ví dụ: Sắp xếp lại thứ tự các tranh sau theo đúng nội dung câu chuyện : Bóp nát
quả cam . Dựa vào các tranh đã sắp xếp lại, kể từng đoạn câu chuyện.
Với nội dung kể chuyện theo tranh, học sinh phải quan sát khi thực hiện bài tập.
Bằng cách quan sát cá nhân, học sinh sẽ nhận ra được nhiều chi tiết trong tranh để kể,
góp phần tăng cường vai trò cá thể hoá hoạt động của người học.
2.3 Những điểm cần lưu ý khi dạy kể chuyện lớp 2:
- Tạo điều kiện cho học sinh ở mọi trình độ đều được tham gia một cách tự giác
vào quá trình rèn luyện kĩ năng kể chuyện. Động viên khích lệ học sinh yếu kém cùng
tham gia rèn luyện, để các em có cơ hội đạt được thành công ở nhiều mức độ. Để đạt
được điều này, khâu chuẩn bị cho bài học mới đóng vai trò rất quan trọng. Trong phần
củng cố, dặn dò ở mỗi tiết kể chuyện, giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn, gợi ý
những việc cần làm ở nhà để học sinh biết mà chuẩn bị bài mới cho cụ thể.
- Trên lớp để tạo điều kiện cho 100% học sinh được tham gia, giáo viên nên chú
trọng hình thức thực hành theo nhóm (dựa vào nội dung câu chuyện, số lượng nhân vật
trong truyện để chia nhóm và yêu cầu số lượt kể) trước khi học sinh trình bày trước
lớp. Giáo viên giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập để các em có thể phát huy
tính tích cực, sáng tạo trong quá trình kể chuyện. Tuỳ theo mức độ của từng bài tập mà
chọn học sinh có trình độ tương đương để trình bày nhằm mang lại thành công cho
mỗi học sinh.
- Khuyến khích học sinh kể tự nhiên, hồn nhiên bằng giọng điệu, cảm xúc của
chính mình. Khi nhận xét lời bạn kể, chú trọng theo hướng động viên, khích lệ là
chính. Riêng lời nhận xét của giáo viên cần nêu đúng ưu, khuyết điểm trong lời kể của
học sinh nhưng thật tế nhị sao cho các em không cảm thấy quá nặng nề, mất niềm tin

vào bản thân.
2.4 Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học:
2.4.1 Quản lý việc thực hiện chương trình:
Nhằm đảm bảo việc thực hiện dạy đúng và đủ chương trình, Ban giám hiệu nhà
trường cần chỉ đạo cụ thể những việc sau:
Trang 7
- Hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch dạy môn học theo chuẩn kiến thức và kĩ
năng ngay từ đầu năm học trong buổi họp chuyên môn. Sau đó, kế hoạch được hiệu
trưởng và phó hiệu trưởng góp ý và duyệt cho áp dụng.
- Hàng tháng hiệu phó chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn có trách nhiệm kiểm
tra, đôn đốc và theo dõi để nắm tình hình thực hiện chương trình dạy học của giáo viên
qua việc kiểm tra lịch báo giảng, giáo án, kế hoạch môn học.
- Chỉ đạo thực hiện điều chỉnh nội dung, chương trình cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
- Bên cạnh đó, hiệu trưởng phải đảm bảo về mặt thời gian cho việc thực hiện
đúng và đủ chương trình theo từng giai đoạn học tập của học sinh.
2.4.2 Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp của giáo viên
Gồm các công việc cần tiến hành như sau:
- Hướng dẫn và quy định thống nhất cách soạn giáo án cho giáo viên. gIáo án
phải thể hiện rõ nội dung hoạt động của giáo viên và học sinh. Đồng thời phải có nội
dung phù hợp cho các đối tượng học sinh học tập (có nội dung nâng cao, mở rộng cho
em khá, giỏi, nội dung dễ và cơ bản nhất cho các em trung bình, yếu).
- Trong các buổi họp chuyên môn hàng tháng (2 lần/tháng) hiệu trưởng chỉ đạo,
hướng dẫn tổ khối thảo luận những vấn đề khó khăn trong việc thực hiện soạn bài,
chuẩn bị bài lên lớp trong quá trình giảng dạy nói chung và dạy môn kể chuyển nói
riêng.
- Chỉ đạo rút kinh nghiệm sau giờ dạy trước để soạn bài tiếp theo.
- Kiểm tra việc soạn giáo án và lịch báo giảng của giáo viên để biết việc chuẩn
bị nội dung dạy học theo từng kỳ và đột xuất.
- Đảm bảo đủ các điều kiện vật chất, trang thiết bị dạy học tối thiểu. Có kế hoạch

tu sửa, mua sắm bổ sung nhằm hoàn thiện để phục vụ tốt nhu cầu dạy và học của giáo
viên và học sinh. Thường xuyên kiểm tra việc sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy.
2.4.3 Quản lý việc dự giờ học tập kinh nghiệm:
Ban giám hiệu cần có kế hoạch xây dựng tổ chức chuyên đề phân môn Kể
chuyện nói riêng và các môn học khác nói chung thích hợp với tình hình của trường
mình và dự giờ thăm lớp giáo viên để nắm bắt mức độ giảng dạy , thực hiện các
chuyên đề đó . Sau mỗi chuyên đề cần đánh giá sâu và rút kinh nghiệm một cách triệt
để . Từ đó có kế hoạch bồi dưỡng và rèn luyện tay nghề cho giáo viên trong trường.
Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho giáo viên được dự giờ học tập kinh nghiệm lẫn nhau
thông qua các buổi hội giảng, chuyên đề môn học. Qua đó nhân điển hình gương mẫu
giáo viên có thành tích tốt trong giảng dạy và giáo dục học sinh.
2.4.4 Quản lý việc thực hiện phương pháp dạy học:
Phương pháp dạy học là những phương thức hoạt động phối hợp giữa giáo viên
và học sinh nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Đổi mới phương pháp dạy học là quá trình áp dụng các phương pháp dạy học
hiện đại vào tiết học trên cơ sở phát huy những yếu tố tích cực của phương pháp dạy
học truyền thống nhằm thay đổi cách thức phương pháp dạy học là làm cho học sinh
tích cực, chủ động, sáng tạo, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc.
Trang 8
Vì vậy hiệu trưởng tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho giáo viên thực hiện, phát
huy các phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cho môn học kể chuyện nhằm đẩy
mạnh phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường để phát huy tính tích
cực của học sinh .
2.4.5 Quản lí việc tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập trên lớp:
Dạy học “tích cực” là phải đảm bảo cho người học thực sự là chủ thể của hoạt
động là sản phẩm của chính mình. Về bản chất, dạy học là một hoạt động xã hội có
chủ đích, có kế hoạch và vì thế nó có tính quá trình, tính hệ thống, bao gồm nhiều
nhân tố có quan hệ hữu cơ, tương tác biện chứng. Do vậy người giáo viên dạy học là
hướng dẫn học sinh học tập có hiệu quả.
Trong quá trình quan sát giờ dạy của giáo viên trên lớp, cần xem việc hướng dẫn

học sinh về phương pháp học tập thông qua việc tổ chức hoạt động cho từng nhóm đối
tượng học sinh tham gia. Khai thác và phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh trong việc tìm tòi kiến thức và kĩ năng thể hiện.
2.4.6 Tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh:
Giáo viên tổ chức kiểm tra, đánh giá nhằm biết được kết quả học tập của học sinh
đạt ở mức nào. Vì thế, đối với học sinh giỏi các em sẽ tự tin trong việc thể hiện mình.
Ngược lại, đối với học sinh yếu các em có cảm giác bi quan rằng mình sẽ không thể
làm được. Chính vì vậy chúng không có động lực học tập, không dám thể hiện trước
các bạn. Đối với học sinh này, ta nên áp dụng từng bước đơn giản nhằm giúp học sinh
dể hiểu những nội dung cần thiết để tăng động lực học tập của chúng. Do vậy giáo
viên cần giảm mức độ học tập cho các em yếu. Chẳng hạn, để tạo cảm giác thành công
cho học sinh, giáo viên đưa ra những câu hỏi dễ cho học sinh yếu (Ví dụ: dựa theo
tranh, kể lại từng đoạn câu chuyện Mẫu giấy vụn, hoặc câu chuyện Người thầy cũ có
những nhân vật nào?) và câu hỏi khó cho học sinh khá, giỏi (Ví dụ: kể lại toàn bộ câu
chuyện Người thầy cũ hoặc em mong muốn câu chuyện Sự tích cây vú sữa kết thúc
như thế nào? Hãy kể lại đoạn cuối câu chuyện theo ý đó).
Đánh giá điểm số vẫn chưa đủ để học sinh nhận biết về kết quả thực sự của mình.
Học sinh không biết mình đã là tốt phần nào và cần cải thiện phần nào. Lời nhận xét
của giáo viên cũng góp phần làm rõ kết quả và thúc đẩy động lực học tập của học
sinh. Đây là một công việc quan trọng, mỗi giáo viên dạy lớp cần phải làm hằng ngày
để đánh giá thực chất việc học tập của các em. Giáo viên đánh giá học sinh, học sinh
đánh giá lẫn nhau để cùng giúp nhau tiến bộ.
III/. KẾT QUẢ:
Thông qua quan sát khi dự giờ, thông qua sổ theo dõi, kiểm tra, đánh giá học sinh
của giáo viên, người quản lí phần nào biết được tình hình thực hiện việc đánh giá kết
quả học phân môn kể chuyện của học sinh ở mức độ nào.
Để nắm được hiệu quả giảng dạy, tôi tiến hành dự giờ giáo viên và khảo sát lớp 2
dạy môn kể chuyện (kể chuyện lớp 2). Sau đó gặp gỡ học sinh trao đổi thăm dò ý kiến
của học sinh. Phân tích số phiếu điều tra, kết quả như sau:
1. Em có thường xuyên đọc, xem sách truyện thiếu nhi không?

a. Đọc thường xuyên (60%) b. Ít đọc (40%) c. Không đọc
2. Em có thích học phân môn kể chuyện không?
a. Có (100%) b. Không
Trang 9
3. Các câu chuyện ở sách Tiếng Việt 2, em có thích đọc không?
a. Có (100%) b. Không
4. Em có thích tham gia vào các hoạt động trong giờ kể chuyện ở lớp không?
a. Có (100%) b. Không
5. Em có được thầy (cô) thường xuyên mời kể chuyện trước lớp không
a. Được mời thường xuyên (80%) b. Ít mời (20%) c. Không mời
6. Em có tự tin được thầy (cô) mời kể chuyện trước lớp không?
a. Rất tự tin (60%) b. Ít tự tin (25%) c. Chưa tự tin (15%)
7. Em có cần chuẩn bị bài trước ở nhà mỗi khi học phân môn kể chuyện không?
a. Em luôn chuẩn bị bài trước ở nhà (40%)
b. Em chỉ chuẩn bị đối với những bài em thích(20%)
c. Em chỉ chuẩn bị đối với những bài khó (30%)
d. Em không cần chuẩn bị trước (10%)
8. Khi bạn kể chuyện, em có thích nghe không?
a. Thích nghe (80%) b. Ít chú ý nghe (20%) c. Không thích nghe
Quan sát hoạt động học của học sinh trong suốt quá trình dạy của giáo viên, tôi
thống kê như sau:
Lớp
TSHS
khảo sát
Số học sinh thực hành
kể được từng đoạn câu
chuyện
Tỉ lệ %
Số học sinh thực hành
phân vai dựng lại câu

chuyện
Tỉ lệ %
2/1
36
36 100 35 97,2
2/2
36
36 100 36 100
2/3
34
34 100 34 100
2/4
37
35 94,6 35 94,6
2/5
36
34 94,4 33 91,7
2/6
34
32 94,1 33 97,1
2/7
36
33 91,7 36 100
TC
249
240 96,4 242 97,2
Bảng: Hiệu quả giảng dạy của giáo viên thông qua các tiết dạy kể chuyện
Từ kết quả trên cho thấy việc hiểu nội dung bài kể chuyện và thực hành kĩ năng
nghe và nói của học sinh được nâng cao, số lượng học sinh tham gia nhiều thông qua
việc giáo viên tạo nhóm, chia nhỏ nội dung và động viên, khuyến khích học sinh hoạt

Trang 10
động. Giáo viên không còn e ngại khi lên tiết dạy kể chuyện cho đồng nghiệp dự giờ
còn học sinh thì rất thích học tiết kể chuyện.
Với những kinh như trên đã trình bày có thể áp dụng rộng rãi vào việc quản lý
hoạt động dạy và học trong nhà trường, với từng lớp học và từng trình độ học sinh cụ
thể để tất cả trẻ em đều học được và ngày càng ham học hơn. Vì thế cần kế thừa và
phát huy hơn nữa trong mỗi giáo viên tinh thần sáng tạo,đổi mới phương pháp dạy học
để chất lượng giáo dục ngày càng đi lên.
IV/. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Là một giáo viên với vai trò là cán bộ quản lí nhà trường trên lĩnh vực chuyên
môn, tôi đã rút kết cho mình những bài học sau:
Thường xuyên giữ mối quan hệ mật thiết giữa Ban giám hiệu nhà trường và giáo
viên để kịp thời nắm bắt tình hình, nhu cầu, nguyện vọng của giáo viêntrong quá trình
thực hiện nhiệm vụ giáo dục và giảng dạy.
Tổ chức nhiều chuyên đề nhất là chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy nhằm nâng thu hút học sinh trong học tập. Động viên khuyến khích giáo
viên áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
Cần nắm vững mục tiêu và nội dung chương trình môn Tiếng Việt tiểu học nói
chung và lớp 2 nói riêng, cụ thể là phân môn kể chuyện. Nắm mức độ chuẩn kiến thức,
kĩ năng cần đạt để chủ động hướng dẫn học sinh theo chuẩn đó.
Lập kế hoạch bài học: Đối với mỗi bài học, trước khi lên lớp, giáo viên phải tiến
hành soạn bài. Trong quá trình soạn bài, điều quan trọng là giáo viên nghiên cứu kĩ
mục đích và yêu cầu cũng như nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong sách
giáo khoa . Tùy theo đặc điểm của từng bài học, tình hình thực tế của từng học sinh
trong lớp và cơ sở vật chất của nhà trường, khả năng của giáo viên mà xây dựng giáo
án với các hoạt động hợp lí và khoa học. Trong giáo cần dự kiến những trường hợp
học sinh gặp khó khăn và các tình huống sư phạm xảy ra trong mỗi hoạt động để có
biện pháp giải quyết phù hợp.
Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, kết hợp với các hình thức dạy học
để tổ chức hoạt động học tập cho học sinh như: trò chơi học tập, hợptác theo nhóm,

dạy học nêu vấn đề,…. Sao cho phù hợp với chủ điểm và nội dung của bài dạy nhằm
đạt hiệu quả cao nhất cho tiết dạy.
Nắm được trình độ học sinh và phân loại theo mức độ nhận thức , sự hứng thú
học tập để có những tác động phù hợp trong tổ chức hoạt động cho từng đối tượng
nhằm kích thích sự ham học hỏi ở các em. Đồng thời phải luôn luôn quan tâm đến tất
cả học sinh đặc biệt là những em học sinh cá biệt, có hoàn cảnh khó khăn, những em
bị khuyết tật. Theo dõi để nắm bắt sự tiến bộ của các em để kịp thời động viên giúp đỡ
bởi những em này thường nhút nhát, thụ động, thường không giơ tay phát biểu trong
giờ học để học sinh tự tin thể hiện mình trước lớp, không để học sinh yếu đứng bên lề
mỗi tiết học .
VI/. KẾT LUẬN:
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích thực trạng quản lí hoạt động dạy và học phân
môn kể chuyện lớp 2, tôi rút ra một số kết luận như sau:
Phân môn Kể chuyện lớp 2 đã giúp trang bị cho học sinh kĩ năng nghe và nói;
giúp cũng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và tư
Trang 11
duy logic, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực cuộc sống thông qua nội dung câu
chuyện; đồng thời bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trau dồi hứng thú đọc và kể chuyện,
đem lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt động học tập. Đó cũng là hành trang cho học sinh
học tiếp ở các lớp 3,4,5, Một giờ dạy có thành công hay không là ở chỗ những mục
tiêu học tập có đạt được hay không. Để đạt được mục tiêu học tập, việc xác định mục
tiêu dạy học ở mỗi bài phải chính xác, rõ ràng, cụ thể. Điều này tùy thuộc vào trình độ
tri thức, vào tầm hiểu biết của mỗi người giáo viên. Vì vậy, việc tự rèn luyện, tự bồi
dưỡng cho mình những kiến thức khoa học cơ bản và nghiệp vụ chuyên môn là việc
làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, giáo viên phải luôn
tạo ra sự hứng thú, sự ham học, tìm tòi cho mỗi học sinh trong giờ học thông qua việc
làm thường xuyên tạo ra tình huống giao tiếp, nhu cầu giao tiếp với bạn bè, với thầy cô
để trao đổi, tranh luận, chia sẽ thông tin của bài học. Phương pháp học dù có tác động
nhưng không phải là yếu tố quuyết định; khi học sinh có ý thức học, sẽ có thể chọn và
vận dụng các phương pháp học để việc học tập trở nên chủ động hơn, thành công hơn.

Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần quan tâm đến các đối tượng học sinh
( đặc biệt là học sinh yếu, học sinh có nhiều khó khăn trong học tập) sao cho mỗi em
điều đạt được kết quả nhất định, nhằm đem lại hiệu quả thiết thực, sự tiến bộ sau mỗi
tiết học với từng học sinh. Lao động của người thầy là lao động của người làm công
tác khoa học, nghệ thuật – lao động sáng tạo nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị. Mỗi học
sinh thành đạt nên người, mỗi nhân tài của đất nước hôm nay và mai sau, trong đó đều
có công sức đóng góp của bao nhiêu thế hệ thầy cô giáo chân chính. Hy vọng chất
lượng dạy và học ở phân môn Kể chuyện thực sự ngày một nâng cao.
VII/. TÀI LIỆU KHAM KHẢO:
1). Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học của Nguyễn Thị
Xuân Yến – Trường Đại Sư Phạm Huế 12/2004.
2). Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 của nhà xuất bản giáo
dục, xuất bản năm 2003.
3). Làm chủ phương pháp giảng dạy
Tác giả: Madeline Hunter – Robin Hunter.
Nhóm dịch: Nguyễn Đào Quý Châu.
Nhà xuất bản: Đại học quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
Xuất bản năm 4/2005.
4). Giáo trình bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học, học phần IV, nghiệp vụ
quản lí trường tiểu học của thạc sĩ Mai Quang Tâm, nhà xuất bản Hà Nội,
xuất bản năm 2006.
5). Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên Tiểu học chu kì III
( 2003-2007 ) của nhà xuất bản giáo dục, xuất bản năm : 4/2005.
NGƯỜI THỰC HIỆN
TRƯƠNG THANH TUẤN
Trang 12

×