Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc ( 1858 - 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.85 KB, 84 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**********



BÙI THỊ HÒA



CHẾ ĐỘ TÔ, THUẾ NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC
(1858 – 1945)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam


Người hướng dẫn khoa học
Th.S CHU THỊ THU THỦY



HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN

Khóa luận với đề tài: “Chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời


Pháp thuộc (1858 - 1945)” em được thực hiện tại Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, dưới sự động viên, khích lệ của các thầy cô, bạn bè và gia đình.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Lịch sử đã
đào tạo và trang bị cho em những kiến thức cơ bản giúp em thực hiện khóa
luận này. Đồng thời, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những
người đã động viên, khuyến khích, tạo mọi điều kiện để em có thể thực hiện
khóa luận thành công.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Th.S Chu Thị Thu Thủy
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong các thầy cô nhận xét và góp ý để bài nghiên cứu của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Hòa










LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những vấn đề tôi trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi, được sự hướng dẫn tận tình của Th.S Chu Thị

Thu Thủy, không trùng với kết quả của các công trình nghiên cứu khác.
Nếu sai sót tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Hòa



















MỤC LỤC

M ĐU Error! Bookmark not defined.

1. LÝ DO CHN Đ TÀI Error! Bookmark not defined.


II. LCH S VN Đ Error! Bookmark not defined.

III. MC ĐÍCH, NHIM V VÀ PHM VI NGHIÊN CU Error! Bookmark not defined.

IV. NGUN T LIU VÀ PHNG PHÁP NGHIÊN CU Error! Bookmark not defined.

V. ĐÓNG GÓP CA KHÓA LUN Error! Bookmark not defined.

VI. B CC CA BÀI KHÓA LUN Error! Bookmark not defined.

NI DUNG Error! Bookmark not defined.

CHNG I: KHÁI QUÁT V CH Đ TÔ THU NÔNG NGHIP VIT NAM THI NGUYN THNG TR (1802 - 1858)
Error! Bookmark not defined.
1.1. Tình hình kinh t nông nghip và xã hi nông thôn Vit Nam di thi Nguyn thng trErro
r! Bookmark not defined.
1.1.1. Tình hình kinh t nông nghip Vit Nam di thi Nguyn thng tr:Error! Bookmark not defined.

1.1.2. Tình hình xã hi nông thôn Vit Nam Error! Bookmark not defined.

1.2. Ch đ thu nông nghip Vit Nam di thi Nguyn thng tr (1802 - 1858)
Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Đa tô thi Nguyn Error! Bookmark not defined.

1.2.2. Thu nông nghip thi Nguyn Error! Bookmark not defined.

CHNG II: CH Đ TÔ THU NÔNG NGHIP VIT NAM THI PHÁP THUC (1858 - 1945)
Error! Bookmark not defined.
2.1. Quá trình xâm lc và thng tr ca Pháp - Nht. Error! Bookmark not defined.


2.1.1. Quá trình thc dân pháp tin hành công cuc xâm lc, bình đnh toàn b lãnh th Vit Nam:
Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Quá trình t chc b máy hai tr ca Pháp - Nht: Error! Bookmark not defined.

2.2. Chính sách thu khóa ca thc dân pháp: Error! Bookmark not defined.

2.3. ?????? Error! Bookmark not defined.

2.3.1. Thu nông nghip ca thc dân pháp: Error! Bookmark not defined.

2.3.2. Đa tô Error! Bookmark not defined.

2.4 Tác đng ca ch đ tô thu đi vi kinh t - xã hi Vit Nam thi pháp thuc
Error! Bookmark not defined.
2.4.1. Tác đng ca ch đ tô thu đi vi nông nghip Vit Nam: Error! Bookmark not defined.

2.4.2. Tác đng ca ch đ tô thu nông nghip đi vi đi sng xã hi Vit Nam
Error! Bookmark not defined.
2.4.3. Phn ng ca nông dân đi vi ch đ tô thu Error! Bookmark not defined.

KT LUN Error! Bookmark not defined.

TÀI LIU THAM KHO Error! Bookmark not defined.



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nét nổi bật nhất trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp

thuộc là một nền nông nghiệp lạc hậu, đời sống người nông dân chìm
trong cảnh đói nghèo. Đó cũng là biểu hiện rõ rệt sự bế tắc của nền sản xuất
Việt Nam thời Pháp thuộc. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều,
nhưng nguyên nhân đặc biệt quan trọng, đó là gánh nặng thuế má, địa tô đè
lên vai họ.
Ngay sau khi đặt được ách thống trị ở Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay
ngay vào bóc lột kinh tế, vơ vét của cải, tài nguyên làm giàu cho chính quốc,
trong đó tô, thuế là một nguồn thu lớn. Cùng với sự bóc lột của thực dân
Pháp, người nông dân còn chịu thêm sự bóc lột của địa chủ thông qua chế độ
địa tô. Ngoài ra cùng với tô, thuế người nông dân còn phải chịu thêm nhiều
khoản phụ thu lạm bổ. Chính gánh nặng tô, thuế là nguyên nhân dẫn đến cuộc
đấu tranh mạnh mẽ của nông dân đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Tiêu biểu như: phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, phong trào
chống đế quốc của nông dân năm 1930 và Xô Viết Nghệ Tĩnh, cũng như cao
trào chống đế quốc của nông dân Việt Nam trong cuộc vận động Cách mạng
tháng Tám năm 1945…
Để hiểu rõ hơn tình cảnh khổ cực của người nông dân dưới thời Pháp
thuộc, việc nghiên cứu “Chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp
thuộc (1858 – 1945)” là rất quan trọng. Làm sáng tỏ vấn đề này sẽ góp phần
làm rõ hơn chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc, đối chiếu
so sánh với thời phong kiến, chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của
chế độ tô, thuế đối với kinh tế nông nghiệp và đời sống nông dân Việt Nam
thời thuộc địa. Qua đó đánh giá một cách khách quan chính sách tô, thuế của
thực dân Pháp, không chỉ có mặt xấu, mặt hạn chế để “lên án” mà còn thấy


được phần “tiến bộ” của nó đối với chế độ tô, thuế thời phong kiến. Đồng thời
làm sáng tỏ vấn đề này chúng ta sẽ góp phần thêm vào việc tìm hiểu động cơ
chống đế quốc của nông dân Việt Nam, làm rõ thêm luận điểm quan trọng về
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng.

Khóa luận sẽ góp phần làm sáng rõ một phần quan trọng của nông
nghiệp Việt Nam thời cận đại, cung cấp những tư liệu cần thiết phục vụ quá
trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Việt Nam cận đại trong các
trường phổ thông.
“Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Chính phủ” (Mác). Thuế là nguồn thu
chính đảm bảo cho nguồn chi tiêu của mọi Nhà nước, là công cụ tác động sâu
sắc nhất đến kinh tế, xã hội của quốc gia. Những bài học rút ra từ đề tài
nghiên cứu sẽ cung cấp cho các nhà quản lý những cơ sở khoa học để nghiên
cứu vận dụng cải tiến chế độ thuế khóa hiện hành, nhằm mục đích bảo vệ
công bằng trong thu thuế và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn nói trên, tôi chọn đề
tài “Chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 – 1945)”
làm đề tài khóa luận.
2. Lịch sử vấn đề
Cho tới nay, chưa có một công trình nào đi sâu, tập trung nghiên cứu về
“Chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 – 1945)”. Vấn
đề này mới chỉ được đề cập rải rác trong một số công trình nghiên cứu của các
nhà sử học:
Một là, tác phẩm “Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc kỳ năm 1897
đến 1945” của Tiến sỹ Hồ Tuấn Dung đã nghiên cứu một cách có hệ thống
toàn bộ chính sách thuế mà Nhà nước thực dân đã ban hành thực thi trên địa
bàn Bắc kỳ từ năm 1897 đến 1945… Tác phẩm đã làm sáng tỏ một số vấn đề
cụ thể gắn liền với chính sách đó ở Bắc kỳ như: cơ sở ban hành chính sách


thuế; chủ trương, biện pháp, phương thức đánh thuế; cách tổ chức quản lý thu
thuế, cuối cùng là tác dụng của chính sách thuế đến nền kinh tế và đời sống
thuộc địa thúc đẩy nhân dân không ngừng đấu tranh với mọi hình thức từ thấp
đến cao, cho tới ngày cách mạng thành công. Tuy nhiên do nghiên cứu toàn
bộ chính sách thuế Nhà nước thực dân áp dụng ở Bắc kỳ, nên phần nghiên

cứu về thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc mới chỉ đề cập trên những
nét lớn.
Hai là, những công trình nghiên cứu tiêu biểu như: luận văn Thạc sĩ của
Tô Yên Khánh với “Tìm hiểu sự bóc lột của thực dân Pháp đối với nông dân
Việt Nam trước Cách mạng thángTám”, Luận văn tốt nghiệp của Trương
Huấn Thường “Những thủ đoạn bóc lột về nông nghiệp của thực dân Pháp”,
có đề cập đến sự bóc lột về thuế má và địa tô của thực dân Pháp đối với người
nông dân. Do trình bày trong phạm vi rộng, với nhiều nội dung, nên các tác
giả chưa thể đi sâu vào tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc. Tuy
nhiên, qua đó chúng ta cũng tìm thấy nhiều tài liệu tham khảo, những gợi ý
cần thiết cho nội dung của luận văn.
Ba là, những tác phẩm tiêu biểu như: “Phác qua tình hình ruộng đất và
đời sống nông dân trước Cách mạng tháng Tám” của Nguyễn Kiến Giang,
tác phẩm “Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại” của Viện sử học
…có đề cập đến thuế và địa tô dưới thời Pháp thuộc, nhưng chưa đi sâu vào
nghiên cứu tô, thuế nông nghiệp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Bốn là, những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài tiêu
biểu như: Y.Henry với “Kinh tế nông nghiệp Đông Dương”, P.Gourou với
“nông dân đồng bằng Bắc Kỳ”, P.Aumiphin với “Sự hiện diện của tài chính
và kinh tế Pháp ở Đông Dương”,… đã góp phần quan trọng trong việc tìm
hiểu tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc.


Năm là, những bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí: tạp chí Tài
chính, Đông Dương tạp chí, tạp chí Dân chúng, báo Ý dân, báo Đời sống
mới, báo Tin tức… Cũng góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu tô, thuế
nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc.
Nhìn chung, công việc nghiên cứu tô, thuế Việt Nam thời Pháp thuộc đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Điều đó đã tạo thuận lợi cho chúng tôi
tìm thấy nhiều tư liệu, những gợi ý cần thiết cho nội dung khóa luận. Tuy

nhiên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu riêng về tô, thuế nông
nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của khóa luận
Tìm hiểu chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc. Trên
cơ sở đó giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn thủ đoạn bóc lột của thực dân và
phong kiến đối với nông dân thông qua chế độ thuế má, địa tô. Đồng thời thấy
được tác động của tô,thuế đối với kinh tế nông nghiệp và đời sống nông dân
thuộc địa, hiểu rõ động cơ chống đế quốc của nông dân Việt Nam và rút ra
những bài học kinh nghiệm vào việc cải tiến chế độ thuế khóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận
Đề tài khóa luận tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
Khái quát về chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam dưới thời Nguyễn
thống trị để làm nền tảng tìm hiểu và so sánh với chế độ tô, thuế nông nghiệp
Việt Nam thời Pháp thuộc.
Tìm hiểu cụ thể chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc
thông qua đó giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Trình bày quá trình xâm lược và thống trị của Pháp – Nhật
+ Chính sách thuế khóa của thực dân Pháp
+ Chế độ tô, thuế nông nghiệp thời Pháp thuộc


+ Tác động của chế độ tô, thuế đối với kinh tế nông nghiệp và xã hội
nông thôn Việt Nam thời Pháp thuộc
Rút ra những bài học kinh nghiệm để nghiên cứu vào việc cải tiến chế
độ thuế khóa hiện hành nhằm mục đích đảm bảo công bằng trong thu thuế và
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
3.3. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Thời gian: khóa luận tập trung nghiên cứu chế độ tô, thuế nông nghiệp
Việt Nam thời Pháp thuộc từ năm 1858 đến 1945

Không gian: Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc (1858- 1945)
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau:
- Một số tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin, văn kiện của
Đảng, Nhà nước về vấn đề tô, thuế nông nghiệp làm cơ sở lý luận, phương
pháp cho việc nghiên cứu các vấn đề tô, thuế nông nghiệp trong khóa luận
- Những bài nghiên cứu khoa học về tô, thuế được đăng trên các tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử để nghiên cứu đề tài.
- Những công trình nghiên cứu luận án Tiến sỹ của Tiến sỹ Hồ Tuấn
Dung, luận văn Thạc sỹ của Tô Yên Khánh, khóa luận tốt nghiệp của Trương
Huấn Thường đã cung cấp nhiều tư liệu tham khảo để nghiên cứu đề tài.
- Sách tham khảo chuyên ngành lịch sử Việt Nam thời cận đại của các
nhà sử học trong nước. Ngoài ra chúng tôi còn khai thác một số công trình
của tác giả nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt. Những tư liệu này chủ yếu
được lưu tại thư viện Quốc Gia, thư viện khoa Sử Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội…




4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chính sử dụng trong khóa luận là phương pháp lịch sử kết
hợp với phương pháp logic.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp trong từng nội dung cụ thể. Thông qua việc trình bày có hệ thống các sự
kiện lịch sử theo từng chủ đề từng chương, tác giả phân tích đánh giá các sự
kiện, từ đó rút ra những nhận định khái quát thành chương và kết luận chung
của khóa luận
5. Đóng góp của khóa luận

Làm rõ chế độ thuế khóa và địa tô nông nghiệp Việt Nam thời Pháp
thuộc, giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về chế độ tô, thuế nông nghiệp
Việt Nam trong thời kỳ xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp.
Góp phần tìm hiểu động cơ chống đế quốc của nông dân Việt Nam, động
cơ chống đế quốc của nông dân chính là sự phản ứng của nông dân đối với
gánh nặng thuế má địa tô, cung cấp một phần tài liệu cần thiết làm rõ luận
điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nói chung và
Việt Nam nói riêng.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo phần nội dung chính của
khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam dưới thời
Nguyễn thống trị (1802 – 1858).
Chương 2: Chế độ tô, thuế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc (1858
– 1945).



NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÔ, THUẾ NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM DƯỚI THỜI NGUYỄN THỐNG TRỊ (1802 - 1858)
1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ XÃ HỘI NÔNG THÔN
VIỆT NAM DƯỚI THỜI NGUYỄN THỐNG TRỊ
1.1.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp Việt Nam dưới thời Nguyễn
thống trị
* Sở hữu ruộng đất
Nửa đầu thế kỷ XIX ở nước ta tồn tại hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở
hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân.
Sở hữu Nhà nước bao gồm hai loại, do Nhà nước trực tiếp quản lý và
ruộng đất công làng xã.

Loại ruộng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý bị thu hẹp rất nhiều so với
thời kỳ trước. Ba hình thức chủ yếu tồn tại nửa đầu thế kỷ XIX là tịch điền,
quan điền quan trại và đồn điền.
Ruộng đất công làng xã đầu thế kỷ XIX cũng bị thu hẹp rất nhiều. Theo
sách Sĩ hoạn tu tri lục của Nguyễn Công Tiệp “Vào đầu thế kỷ XIX tổng diện
tích đất công tư của cả nước là 3.396.584 mẫu, trong đó ruộng công, ruộng
quan, ruộng muối là 580.000 chiếm 17,08%” [36, tr.34]. Tuy nhiên tỷ lệ
ruộng công phân bố không đều ở các địa phương, Phan Huy Chú cho biết tỷ
lệ ruộng công tư ở các địa phương thời Gia Long như sau “Nước ta ở trấn
Sơn Nam Hạ có nhiều ruộng công, đất bãi công … Còn ở các xứ khác thì
hạng ruộng công không mấy” [26, tr.70]. Nhìn chung, tỷ lệ ruộng đất công bị
thu hẹp chứng tỏ loại hình sở hữu này không còn đóng vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế đất nước.
Sở hữu tư nhân đến đầu thế kỷ XIX đã chiếm vị trí bao trùm, theo
Nguyễn Công Tiệp là “2.816.211 mẫu chiếm82,92%” [36, tr.35]. Tuy nhiên


cũng giống như ruộng đất công, ruộng đất tư phân bố không đều. Ở miền Bắc,
trên địa bàn tỉnh Hà Đông, ruộng tư chiếm tỷ lệ 63,54%. Ở vùng Nam Bộ, tỷ
lệ tư điền lên tới 92%.
Ở nửa đầu thế kỷ XIX, các hình thức sở hữu tư nhân lớn, vừa và nhỏ tiếp
tục tồn tại. Sở hữu địa chủ, nhất là địa chủ lớn phát triển mạnh ở Nam Bộ.
Tuy nhiên xét về mặt số lượng ở Nam Bộ địa chủ vừa vẫn chiếm tỷ lệ cao
hơn, đặc biệt là loại địa chủ có từ 5 - 10 mẫu chiếm tỷ lệ phổ biến. Còn ở
miền Bắc loại sở hữu nhỏ dưới 3 mẫu là chủ yếu. Sau khi trở thành thuộc địa
của Pháp quá trình phân hóa diễn ra với cường độ mạnh, tình trạng tập trung
ruộng đất diễn ra với trình độ cao dẫn tới sự thu hẹp của sở hữu nhỏ. Đây là
tiền đề cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa trong nông thôn thời Pháp
thuộc.
* Chính sách phát triển nông nghiệp

Ở thế kỷ XIX, dưới thời Nguyễn Việt Nam cơ bản vẫn là nước nông
nghiệp. Nông nghiệp là nguồn sống chủ yếu của hơn 90% dân số và là nguồn
thu nhập chính của Nhà nước và hệ thống quan lại. Vì vậy, các vua nhà
Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đều rất qua tâm đến nông nghiệp.
Chính sách khai hoang được các vua nhà Nguyễn rất chú ý, đặc biệt là
Minh Mệnh. Ngay sau khi lên nắm chính quyền Gia Long đã ra lệnh cho các
dinh ở Gia Định chia cấp ruộng hoang cho dân nghèo khai khẩn, cày cấy. Từ
thời Minh Mệnh, để khuyến khích việc khẩn hoang Nhà nước mạnh dạn ban
hành các quy định thưởng phạt thích đáng đối với các quan lại các cấp trong
việc tổ chức nhân dân khai phá ruộng hoang. Chủ trương trên được tiếp nối
dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức. Trong khoảng thời gian 1802 - 1858, nhà
Nguyễn đã ban hành 46 quyết định khai hoang áp dụng chủ yếu cho đồng
bằng Nam Bộ. Lực lượng khai hoang đươc huy động gồm cả binh lính, tù
phạm và nhân dân.


Do chủ trương chung của Nhà nước nhằm ngăn chặn quá trình tư hữu
hóa ruộng đất công bắt đầu từ việc ban cấp ruộng đất vốn có tiền lệ trong lịch
sử Việt Nam. Nhà Nguyễn đã bỏ các hình thức ban cấp ruộng đất và chỉ duy
trì mức độ hạn chế hình thức ban cấp ruộng thờ (tự điền).
Đối với ruộng đất công làng xã, nhà Nguyễn tỏ rõ thái độ trong việc duy
trì, bảo vệ và mở rộng ruộng đất công làng xã. Nhà Nguyễn, thi hành nhiều
biện pháp tăng cường quỹ đất công. Từ Gia Long đến Tự Đức, nhà Nguyễn đã
ban hành 24 quyết định mở rộng quỹ đất công điền (Gia Long 2, Minh Mạng
18, Thiệu Trị 2, Tự Đức 2) lấy từ ruộng đất do Nhà nước quản lý, từ kết quả
khai hoang, từ ruộng tư nhân.
Đồng thời với biện pháp trên, nhà Nguyễn đã ban hành chính sách quân
điền vào năm 1804, tức chỉ sau hai năm sau khi Gia Long lên ngôi. Việc ban
hành chính sách quân điền là biện pháp nhằm duy trì ruộng đất công làng xã.
Theo đó, tất cả mọi người được chia ruộng đất cộng làng xã, trừ quý tộc

vương tôn được cấp 18 phần, quan lại nhất phẩm 15 phần, cứ tuần tự hạ mức
cho đến người ngèo được 3 phần. Đến năm 1840, Minh Mạng sửa lại phép
chia ruộng cho tất cả mọi người được hưởng phần như nhau, riêng lão nhiêu,
tàn tật được
½
phần.
Nhìn chung, chính sách quân điền dưới thời Nguyễn chỉ có tác dụng ở
một số vùng, một số địa phương nhất định. Tuy nhiên, qua đây chúng ta thấy
được việc duy trì và bảo vệ, mở rộng ruộng đất công đã bộc lộ rõ thái độ chủ
quan của nhà Nguyễn. Thái độ này vẫn chưa vượt qua tư tưởng phục hồi lại
chế độ sở hữu công cộng, một hình thức sở hữu đến lúc này đã trở lên lỗi thời
và đang cản trở quá trình phát triển của lịch sử.
* Tình hình nông nghiệp
Một phương thức quen thuộc nhằm mở rộng ruộng đất của nhà Nguyễn
là lập đồn điền khẩn hoang khuyến khích nhân dân khai hoang.


Đồn điền được thiết lập nhiều nơi nhất là ở Nam Kỳ. Đợt xây dựng đồn
điền quy mô lớn nhất do Nguyễn Tri phương tổ chức trong các năm 1853-
1854 kết quả lập được 21 cơ với 124 ấp phân bố ở cả 6 tỉnh. Tuy nhiên ruộng
đất khai phá không được nhiều.
Năm 1828, theo đề xuất của Nguyễn Công Trứ hình thức khai hoang mới
ra đời: hình thức doanh điền. Nguyễn Công Trứ đã tổ chức nhiều đợt khai
hoang lập làng lớn trong đó kết quả lớn nhất lập được hai huyện mới Kim Sơn
(Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình).
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất, có tới
hàng chục vạn mẫu ruộng bị bỏ hoang “Cho đến cuối những năm 30 diện tích
hoang hóa đã lên tới 1.314.927 mẫu” [35, tr.448] nhân dân phiêu tán ngày
càng đông. Sở dĩ như vậy vì phần lớn đất đai khai khẩn được chủ yếu lọt vào
tay kẻ dẫn người đi khai khẩn, còn những người trực tiếp đổ mồ hôi sôi nước

mắt khẩn hoang lại trở thành tá điền với mức lao động nặng nề. Đồng thời họ
không thiết tha với hoàn cảnh mới, nhiều khi còn rất căm phẫn và thường bỏ
trốn đi tha phương cầu thực.
Vấn đề thủy lợi lúc đầu được nhà Nguyễn chăm lo. Gia Long đã 11 lần
cấp kinh phí, thời Minh Mệnh cũng có 14 lần cấp kinh phí để chăm lo thủy
lợi. Nha đê chính cũng được lập ra để chăm lo đê điều ở Bắc Bộ, rồi sau đó
triều đình lại bỏ Nha đê chính đi giao việc cho cơ quan sở tại. Như vậy ,nhà
Nguyễn có quan tâm đến vấn đề đê điều tuy nhiên lụt nội vẫn luôn sảy ra, từ
năm 1802 - 1858 cả nước chịu 38 lần mưa bão, lụt lội, trong đó có 16 lần vỡ
đê. Thêm vào đó, hạn hán luôn xảy ra, nhất là ở Bắc và Trung Bộ mùa màng
bị sâu bọ phá hoại thường xuyên làm năng suất thấp kém, nông nghiệp lâm
vào tình trạng xơ xác tiêu điều.
Nhìn chung, nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn vẫn không vượt ra khỏi
phương thức sản xuất cổ truyền. Ruộng đất chủ yêu tập trung trong tay bọn


quan lại, địa chủ nông dân không có ruộng cày cấy. Mặc dù , triều Nguyễn có
nhiều biện pháp khác nhau từ khuyến khích, khen thưởng đến đồn điền, doanh
điền để mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp nhưng nhà Nguyễn vẫn
không giải quyết được vấn đề ruộng đất hoang hóa ngày càng nhiều. Trong
lúc đó, thiên tai hạn hán thường xuyên xảy ra làm cho đời sống nhân dân vô
cùng cực khổ.
1.1.2. Tình hình xã hội nông thôn Việt Nam
Sự phức tạp của cơ cấu làng xã cùng với hậu quả của các chính sách
chính trị, kinh tế xã hội thời Nguyễn là mảnh đất tốt tạo điều kiện thuận lợi
cho bọn hương hào tổng lý bành trướng thế lực, lũng đoạn thao túng đời sống
nông thôn.
Ngay ở thế kỷ XVII, XVIII nạn cường hào đã trở nên nghiêm trọng
nhưng đến thế kỷ XIX thì càng nghiêm trọng hơn. Giai cấp địa chủ, kẻ có thế
lực ở địa phương, đã biến làng xã thành “pháo đài kiên cố” hạn chế khả năng

kiểm soát của Nhà nước. Làng xã vì thế thực sự trở thành bầu trời riêng của
bọn hương hào tổng lý.
Dưới thời Nguyễn, bọn quan lại, cường hào địa chủ ra sức hạch sách bóc
lột nhân dân. Trong hoàn cảnh đó, đời sống của người nông dân trong các xã
thôn vô cùng cơ cực. Dưới triều Nguyễn, tổ chức xã thôn đã hoàn toàn trở
thành một công cụ của bọn cường hào địa chủ nông thôn. Nó trói buộc người
nông dân trong những quan hệ địa phương hẹp hòi, cơ hội cho sự bóc lột của
Nhà nước phong kiến và cản trở sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Ruộng đất phần nhiều tập trung trong bọn quan lại, địa chủ. Nông dân
không có ruộng để cày cấy. Họ phải chịu gánh nặng thuế má sưu dịch nặng
nề. Nhận xét về tô, thuế thời Gia Long một giáo sỹ người Pháp Ghêra đã nhận
xét “Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và sự lộng
hành làm cho người ta rên siết hơn thời Tây Sơn, thuế khóa và lao dịch tăng


gấp 3 lần” [35, tr.455]. Đặc biệt là chế độ sưu dịch, một thứ thuế vô cùng
nặng nề. Theo quy định mỗi năm dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch. Tuy
nhiên trong thực tế nhân dân phải làm khá nặng trong những năm nhà Nguyễn
xây dựng kinh thành, cung điện dinh thự. Các vua nhà Nguyễn nổi tiếng là
sống xa xỉ hay xây dựng cung điện, và lăng tẩm. Lúc sinh thời, Gia Long,
Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức đều xây dựng lăng tẩm rất nguy nga đồ sộ và
ra lệnh dỡ cung điện của vua Lê còn sót lại ở Hà Nội lấy nguyên liệu trở về
Huế xây dựng dinh thự. Trong cuộc tuần du vào Bắc Kỳ của Thiệu Trị năm
1842 nhân dân dọc đường phải xây dựng 44 hành cung cho vua nghỉ.
Cái khổ của người dân phải đi đào sông được ghi lại rất rõ nét trong ác
bài hát giặm của nhân dân Nghệ An trích như sau:
“Bắt dân xã đào kênh
…….Đo đất đếm người
Một xuất đinh hai thước
Bắt đào cho được

Hạn trọng 20 ngày
Cai phó tổng, cai thầy
Khất xin đào một tháng
Dân tình ngao ngán
….Vợ con thêm nheo nhóc
Chồng lại phải phu phen
Muốn vạch cả trời lên
Kêu gào cho hả dạ…” [35, tr.456]
Không những thế nông dân còn phải chịu mọi tai họa của thiên nhiên,
mất mùa thường xuyên xảy ra đe dọa cuộc sống của dân nghèo. Sau mỗi lần
vỡ đê lụt lội, mùa màng hư hại nhân dân lại bỏ làng đi phiêu tán. Năm 1883,
theo lời tâu của Nguyễn Công Trứ, dân đói từ các tỉnh đến kiếm ăn ở Hải


Dương là 27.000 người. Trận bão năm 1842 làm tỉnh Nghệ An đổ sập 40.753
ngôi nhà, chết 5.240 người. Bên cạnh đó dịch bệnh cũng là một tai họa đối
với người nông dân.
Sự bóc lột của địa chủ phong kiến, cùng với thiên tai hạn hán, lũ lụt làm
cho đời sống người nông dân vô cùng cực khổ. Hiện tượng nông dân lưu tán
phải bỏ làng đi tha phương cầu thực là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn
Việt Nam dưới thời Nguyễn. Đó là một trong những biểu hiện cho thấy sự sa
sút của nền kinh tế nông nghiệp nước ta nửa đầu thế kỷ XIX. Chỉ từ năm 1802
đến 1806, nông dân của 370 thôn, mấy trấn ngoài Bắc xiêu tán đi nơi khác.
Đến năm 1826 lại đến 108 xã thôn thuộc 13 huyện Hải Dương xiêu tán. Đến
thời Tự Đức dân lưu tán càng trở lên phổ biến khắp cả nước “nhiều làng đến
5,6 phần 10 là việc phổ biến” [18, tr.85]
Vấn đề dân lưu tán, dân đói khát là một điểm phổ biến của xã hội nông
dân Việt Nam dưới thời Nguyễn. Chính đời sống khổ cực đã thúc đẩy người
nông dân đứng lên đấu tranh chống lại chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Thời
Gia Long có 73 cuộc, Thời Minh Mệnh 234 cuộc, thời Tự Đức 40 cuộc cuộc

đấu tranh của nhân dân trong đó chủ yếu là nông dân. Khởi nghĩa nông dân
trước hết là sự phản ánh tình hình kinh tế xã hội thời kỳ này là phản ứng của
nhân dân trước chính sách cai trị của Nhà nước. Nhân dân lưu tán, đói khổ,
nổi dậy đấu tranh có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân lớn đó là chế
độ tô, thuế nặng nề.
1.2. CHẾ ĐỘ TÔ, THUẾ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM DƯỚI THỜI
NGUYỄN THỐNG TRỊ
1.2.1. Địa tô thời Nguyễn
Ruộng đất với nghề trồng trọt đơn giản đã trở thành một thứ thực lợi. Từ
lâu đời, ruộng đất đã được người ta coi như một thứ tư liệu đẻ ra sản phẩm
thừa, đẻ ra lợi tức. Vì vậy, ruộng đất thường được đem phát canh thu tô, mức


tô kể từ thời Lý thường là một nửa thu hoạch, nhưng người cày cấy gánh mọi
thứ bất trắc chỉ còn 1/3 (hay 1/4 nếu gánh lấy thuế má).
Dưới thời Nguyễn, ruộng đất phần nhiều tập trung trong tay bọn quan lại
địa chủ. Ruộng đất được đem phát canh thu tô, nông dân tự cày cấy và sau khi
thu hoạch nộp tô dưới dạng hiện vật. Mức tô người lĩnh canh nộp cho địa chủ
thường là 1/2 thu hoạch. Cách thu tô như vậy điển hình cho quan hệ bóc lột
truyền thống của họ Nguyễn từ thế kỷ trước ở xứ Quảng. Hình thức phát canh
cấy rẽ, thu tô là điển hình của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam ở thế kỷ
XIX thậm chí ở thế kỷ XX.
Thời Nguyễn, về cơ bản là địa tô hiện vật, địa tô tiền thời Lê Mạt bị xóa
bỏ. Điều đó trái ngược với xu thế lịch sử, đó là một chính sách lạc hậu, kìm
hãm sự phát triển của kinh tế, duy trì sự nghèo nàn, thủ cựu không tiến triển.
1.2.2. Thuế nông nghiệp thời Nguyễn
1.2.2.1. Thuế ruộng đất
Thời Nguyễn, Nhà nước đánh thuế hầu hết các loại ruộng đất, trừ ruộng
công cộng đất ban thưởng cho gia đình quan lại, đất đình chùa và thờ tự
Về thuế ruộng, năm 1804 Gia Long định thuế lệ sau:

Các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Phú Yên,
Bình Hòa, Diên Khánh, ruộng công và ruộng tư điền mỗi năm nộp
Hạng nhất, 40 thăng thóc và 3 tiền
Hạng nhì, 30 thăng thóc và tiền
Hạng ba, 20 thăng thóc và 3 tiền
Các trấn Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn
Nam thượng và phủ Phụng Thiên, mỗi năm nộp thóc
Công điền:
Hạng nhất, 120 bát đồng quan
Hạng nhì, 84 bát đồng quan


Hạng ba, 50 bát đồng quan
Tư điền:
Hạng nhất, 40 bát đồng quan
Hạng nhì, 30 bát đồng quan
Hạng ba, 20 bát đồng quan
Các phủ Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang
và Cao Bằng mỗi năm nộp thóc
Công điền:
Hạng nhất, 120 bát đồng quan
Hạng nhì, 42 bát đồng quan
Hạng ba, 25 bát đồng quan
Tư điền:
Hạng nhất, 20 bát đồng quan
Hạng nhì, 15 bát đồng quan
Hạng ba, 10 bát đồng quan [2, tr.182]
Vào khoảng năm 1836, vua Minh Mạng định lại thuế ruộng đất và phân
chia cả nước thành 3 khu vực thu thuế
Khu vực I: Gồm các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh Hòa

Khu vực II: Gồm các tỉnh từ Nghệ Tĩnh và Bắc
Khu vực II: Gồm các tỉnh Bình Thuận đến lục tỉnh Nam Kỳ
Thuế ruộng đất được chuẩn định như sau: [2, tr.84]




KHU VỰC I
Đẳng hạng

Công điền mỗi mẫu

Tư điền mỗi mẫu

Hạng nhất

40 thăng thóc tô

40 thăng thóc tô

Hạng nhì

30 thăng thóc tô

30 thăng thóc tô

Hạng ba

20 thăng thóc tô


20 thăng thóc tô


KHU VỰC II
Đẳng hạng

Công điền mỗi mẫu

Tư điền mỗi mẫu

Hạng nhất

80 thăng thóc tô

26 thăng thóc tô

Hạng nhì

56 thăng thóc tô

20 thăng thóc tô

Hạng ba

20 thăng thóc tô

13 thăng thóc tô


KHU VỰC III

Đẳng hạng

Công điền mỗi mẫu

Tư điền mỗi mẫu

Hạng nhất

26 thăng thóc tô

26 thăng thóc tô

Hạng nhì

23 thăng thóc tô

23 thăng thóc tô

[2, tr.84]
Còn về thuế đất có 12 hạng cao khác nhau tùy trồng trọt thứ gì đóng từ
14 quan 2 tiền một mẫu là cao nhất, 3 tiền là thấp nhất.
Biểu thuế quy định bởi Minh Mạng không thay đổi gì mấy trong mấy
năm thời Nguyễn. Năm 1875, vua Tự Đức nhận định rằng nhà vua cho áp
dụng một thức lệ đứng nhất cho toàn cả lãnh thổ, bất kỳ ruộng công hay tư
mỗi mẫu nộp:
Nhất đẳng nộp 40 thăng lúa.
Nhị đẳng nộp 30 thăng.


Tam đẳng nộp 20 thăng lúa.

Thuế ruộng đất phải nộp bằng hiện vật, nhưng chính phủ cũng cho phép
nộp tiền thay thóc vào những trường hợp như vận chuyển khó khăn và lâu,
hay mất mùa không đủ thóc:
Ruộng hạng nhất đóng 7 quan 3 tiền một mẫu
Ruộng hạng nhì đóng 5 quan 6 tiền một mẫu
Ruộng hạng ba đóng 3 quan 6 tiền một mẫu [2, tr.85]
Như vậy, thuế ruộng triều Nguyễn không đồng nhất, tùy theo các vùng
khác nhau và nhẹ nhất ở Nam Kỳ.
Ở những vùng thừa người, thiếu đất, chính phủ không ngần ngại đánh
thuế nặng các loại ruộng công điền. Nhiều tác giả có thể nói rằng chính phủ
đã có chính sách nâng đỡ giai cấp địa chủ, khi đánh thuế nhẹ ruộng đất tư
“Toàn bộ chính sách thuế của triều Nguyễn đối với ruộng đất công chỉ nhằm
mục đích duy nhất là bóc lột triệt để những nông dân không ruộng đất nhằm
thu được của cái tối đa” [24, tr.48 - 49].
Mỗi lần đóng thuế cũng như mỗi lần phát lương, là một lần nhân dân bị
sách nhiễu, dân đem thóc đến kho mà nạp. Nhà nước trả lương cho quan lại
bằng thóc, năm nào mất mùa Nhà nước có thể bán ra rẻ hơn giá thị trường hay
cho vay mượn không lời.
1.2.2.2. Thuế đinh (thuế thân)
Ngoài các thứ tô, thuế ruộng đát khá nặng nề đối với nông dân nghèo,
thuế đinh cũng là một thứ thuế nặng, đồng thời cũng là một nguồn thu nhập
lớn của nhà nước phong kiến
Dưới thời Nguyễn, thuế này chỉ đánh nội đinh tức là dân sở tại, có ít tài
sản, có khả năng đóng thuế và ngược lại được hưởng một số đặc quyền đặc
lợi như được chia ruộng, được tham gia các chức vụ trong chính quyền làng
xã hay phạm vị ngoài làng xã. Những người ngoại đinh không được hưởng


quyền lợi nói trên được miễn thuế. Nhà nước dựa vào sổ đinh bạ làng xã để
đánh thuế. Trong các sổ đinh bạ, nội đinh được sắp hạng khá tỷ mỉ với những

mức thuế khác nhau. Sổ đinh bạ mỗi năm một lần tiểu tu và 5 năm một lần đại
tu để điều chỉnh đúng với thực tế dân cư trong xã.
Thuế đinh được chia thành nhiều hạng. Ban đầu sổ hạng được miễn thuế
như: con quan, chức sắc, số còn lại phải nộp từ 5 tiền đến 1 quan tiền, 1 quan
4 tiền. Từ năm 1832, loại tráng đinh, con quan, thường dân chia làm 2 loại:
loại có ruộng công và loại không có ruộng công nộp từ 1 đến 2 quan tiền từng
loại, từng khu vực.
Nhà nước không trực tiếp thu mà tùy theo số hộ đinh mà định cho làng
một tổng số, làng thu đem nộp quan, làng thất thu thì xã trưởng bị trừng phạt,
Nhà nước chỉ lo cất giữ vào kho và xuất ra tiêu.
Một số khá người không phải đóng thuế đinh: một số con quan, cai tổng,
người đỗ đạt khi thi cử, người già, người tàn tật. Có kẻ chỉ đóng nửa thôi: lính
lệ, kẻ giữ đình chùa, mồ mả. Người dân đinh phải đóng thuế từ 26 đến 55
tuổi, còn từ 18 đến 19 và từ 56 đến 60 tuổi thì đóng phần nửa số đinh. Hệ số
dân đinh trong làng giảm xuống thì làng đem một số dân lân vào thay thế dù
họ chưa có tài sản.
1.2.2.3. Thuế lao dịch (thuế nhân lực)
Thời Nguyễn, thuế lao dịch không có sự quy định số lượng ngày cụ thể
trong năm, mà huy động số ngày tùy theo yêu cầu công việc. Dân miền núi và
dân ở xa các triền sông và xa các đầu mối giao thông thường không phải đi
làm lao dịch. Pháp luật Nhà nước cấm ngặt quan hệ huy động nhân công cho
việc riêng hoặc trong khi đang có mùa màng mà không được phép của triều
đình. Triều đình quyết định việc huy động nhân công cho việc lớn như đắp đê
điều, đào kênh, rạch.


Từ thời Minh Mạng, số ngày công đi sưu được dịch là 48 này. Khi đi sưu
người dân được nuôi ăn trong kho của địa phương và được lĩnh một quan tiền,
một phương gạo. Người dân không phải đi làm xa nơi họ cư trú quá 5km.
Như vậy, ngoài việc thực hiện nghĩa vụ đi lính, người dân còn được trả công.

Như vậy, qua việc tìm hiểu thuế nông nghiệp thời Nguyễn, chúng ta rút
ra một số nhận xét sau:
Một là, thuế nông nghiệp thời Nguyễn chủ yếu thu bằng hiện vật: thóc
gạo hoặc bằng sức lao động, chỉ có thuế thân được thu bằng tiền song vẫn giữ
một phần hiện vật. Thuế ruộng đất thời Nguyễn cũng cho phép nộp bằng tiền
song giá trị đồng tiền bấp bênh, lại thay đổi tùy từng vùng, nên người nông
dân chủ yếu nộp bằng thóc gạo. Tình trạng trên phản ánh một nền kinh tế thấp
kém, kinh tế hàng hóa chưa có vị trí quan trọng.
Hai là, giá biểu các loại thuế trên mang tính đồng loạt thuế ruộng đất
được quy định theo đẳng hạng, nhưng sự phân chia đẳng hạng chỉ dựa vào
cách phân chia truyền thống phần lớn vào khoảng cách gần hay xa chân đê
làng, mà không dựa vào năng suất, cũng không có sự phân biệt giữa ruộng
công và ruộng tư như các triều đại phong kiến cũ. Về thuế thân, giá biểu được
định nghĩa theo đầu người, không có sự phân biệt giàu nghèo. Các định giá
biểu thuế còn mang tính thuế cống nạp thời trung cổ mà chưa phát huy được
chức năng điều hòa, kích thích sản xuất của hệ thống thuế mà đối với toàn bộ
nền kinh tế xã hội.
Ba là, trong phương thức thu thuế nông nghiêp, Nhà nước lại gần như
giao hẳn cho đơn vị làng xã, mà không có biện pháp cần thiết để kiểm tra,
phát hiện gian lận của chính quyền làng xã. Do đó nguồn thu nhập tài chính
của Nhà nước, chủ yếu thông qua thuế má, không ổn định, không mở rộng
được, gây nên sự nghèo nàn ngân sách quốc gia và hạn chế khả năng tác động
của Nhà nước đối với sự phát triển của sản xuất và đời sống của nhân dân


Tuy nhiên, trong chính sách thuế má của nhà Nguyễn thấy có một số mặt
có thể coi là tích cực. Sau khi thu thuế, Nhà nước thường trích ra một phần để
lại một phần trong các kho dự trữ của địa phương để có thể kịp thời cứu trợ
cho dân chúng ở đẩy vào những lúc thiên tai. Ngoài ra nếu địa phương nào
mất mùa, Nhà nước sau khi xem xét kỹ càng cho miễn hẳn hoặc cho khất đến

vụ sau. Chính sách rõ ràng, tránh cho Nhà nước khỏi phải đứng trước tình
huống căng thẳng với dân chúng. Về thuế thân, triều Nguyễn chỉ đánh vào nội
đinh, dân ngoại đinh vào thời Nguyễn chiếm 2/3 cư dân ở nông thôn được
miễn hoàn toàn. Còn những người không được phân phối ruộng công cũng
được miễn hoàn toàn thuế thân. Theo sự tính toán của người Pháp khi mới
đến Việt Nam, gánh nặng thuế má tính theo đầu người dưới thời Nguyễn,
bình quân 0đ25 (trong đó thuế thân là 0đ15, tương đương với khoảng 20kg
gạo). Đó là mức thuế khá nhẹ so với thuế má của người dân phải chịu dưới
thời Pháp thuộc. Tình hình thuế má ấy của nhà Nguyễn phản ánh một nền sản
xuất lạc hậu, một nền tài chính quốc gia quá nghèo.
* Tiểu kế chương 1
Qua chế độ tô, thuế thời Nguyễn nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau:
Tô, thuế triều Nguyễn về cơ bản theo nguyên tắc tô, thuế hiện vật. Chính
sách này có tính chất lạc hậu và kéo lùi lịch sử so với con đường phát triển
tiến bộ nói chung. Chính sách ấy vừa là kết quả vừa là điều kiện củng cố cho
đường lối ức thương, bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn, có tác
dụng kìm hãm sự phát triển của kinh tế nông nghiệp “Thuế hiện vật ấy phản
ánh một trạng thái kinh tế kém phát triển và đồng thời bản thân nó cũng góp
phần duy trì trình độ kinh tế lạc hậu” [36, tr.13]. Chính sách tô, thuế triều
Nguyễn còn là chính sách có lợi cho bọn giàu có, trước hết là địa chủ, mặt
khác ra sức bóc lột nông dân, làm cho đời sống của người nông dân vô cùng
cực khổ.


So với triều đại trước tô, thuế nông nghiệp thời Nguyễn tăng thêm rất
nhiều so với thời Quang Trung ‘‘Tô, thuế mà mỗi mẫu ruộng đất công hạng
nhất tăng từ 1,6 đến 4 lần” [31, tr.88].
Do hậu quả của chiến tranh cộng với sự bóc lột ngày càng tăng của vua
quan nhà Nguyễn, địa chủ cường hào, số nông dân phải bỏ ruộng bỏ làng
ngày càng nhiều. Họ không còn đường nào khác ngoài con đường nổi dậy đấu

tranh. Đó chính là biểu hiện của sự khủng hoảng và suy yếu của chế độ phong
kiến Việt Nam, tạo điều kiện cho nước ta trở thành miếng mồi ngon của tư
bản Pháp.

×