Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Khảo sát khả năng nhận diện, hiểu biết ý nghĩa và giải nghĩa từ ngữ của học sinh tiểu học (KL03771)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.97 KB, 77 trang )

1

Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoa giáo dục Tiểu học


Nguyễn Thị Nhung


Đề tài: Khả sát khả năng nhận diện, hiểu biết ý
nghĩa và giải nghĩa từ ngữ của học sinh Tiểu học





Người hướng dẫn: Th.s Lê Bá Miên







Hà Nội, Tháng 05 năm 2011
2


LỜI CÁM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu đề tài “khảo sát khả năng nhận diện, hiểu biết


ý nghĩa và giải nghĩa từ ngữ của học sinh Tiểu học”, em đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện của tổ bộ môn Ngôn ngữ, khoa Ngữ văn trường
ĐHSP Hà Nội 2 và đặc biệt là thầy giáo, Th.s Lê Bá Miên cùng các thầy cô, các
bạn sinh viên trong khoa GDTH.
Qua khóa luận này, em xin bày tỏ lời cám ơn chân thành đến thầy giáo,
Th.s Lê Bá Miên – Người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa
luận đúng thời hạn quy định.
Cũng qua đây, em xin gửi tới các thầy cô giáo, các em học sinh trường
Tiểu học Thị Trấn Sóc Sơn – Hà Nội, cùng các thầy cô giáo và các bạn sinh viên
trong khoa GDTH đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này lời cám ơn chân
thành và sâu sắc.
Lần đầu tiên bước vào nghiên cứu khoa học, hơn nữa thời gian nghiên cứu
còn hạn hẹp nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2010.
Sinh viên
Nguyễn Thị Nhung



3



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả và số liệu
trong khóa luận chưa được ai công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2010

Sinh viên
Nguyễn Thị Nhung














4





MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………… 1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………… 3
3. Mục đích yêu cầu……………………………………………………. 5
3.1. Mục đích…………………………………………………………… 5
3.2. Yêu cầu……………………………………………………………. 5

4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………. 6
4.1. Phương pháp điều tra…………………………………………… 6
4.2. Phương pháp thống kê…………………………………………… 6
4.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp……………………………… 6
5. Đối tượng nghiên cứu……………………………… 6
6. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………. 6
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài……………………………. 7
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………… 9
1.2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………. 18
5

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT KHẢ NĂNG NHẬN DIỆN, HIỂU BIẾT
Ý NGHĨA VÀ GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
2.1. Khả năng nhận diện các từ về mặt lý thuyế
t……………………. 21
2.2. Khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh Tiểu học……………………. 31
2.3. Khả năng giải nghĩa từ của học sinh Tiểu học…………………… 44
2.4. Nhận xét về những lỗi sai học sinh hay mắc phải và một số đề xuất
dạy giải nghĩa từ cho học sinh Tiểu học……………………………… 56
PHẦN 3: KẾT LUẬN
……………………………………………… 60
PHỤ LỤC……………………………………………………
62
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………… 72












6


PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Bậc Tiểu học là bậc nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy,
các môn học ở bậc Tiểu học ngoài việc cung cấp tri thức thì cần chú trọng hình
thành cho học sinh các kỹ năng học tập. Cùng với các môn học Toán, Tự nhiên –
Xã hội,…, môn Tiếng Việt chú trọng hình thành, rèn luyện cho học sinh các kỹ
năng sử dụng tiếng việt, phục vụ cho hoạt động học tập và giao tiếp trong cuộc
sống hàng ngày.
Từ vựng – ngữ nghĩa là một bình diện của ngôn ngữ bên cạnh những bình
diện khác như ngữ pháp, ngữ âm, phong cách,… Dạy từ ngữ là một hoạt động
không thể thiếu trong chương trình Tiếng Việt ở phổ thông nói chung và chương
trình Tiếng Việt bậc Tiểu học nói riêng. Mục tiêu đầu tiên của môn Tiếng Việt
trong chương trình mới (Sau năm 2000) là: “Hình thành và phát triển ở học sinh
các kỹ năng sử dụng tiếng việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong
môi trường hoạt động lứa tuổi”. Điều này có nghĩa là chương trình Tiếng Việt
Tiểu học giúp các em mở rộng và phát triển vốn từ, làm cho các em hiểu được
nghĩa của các từ cụ thể, từ đó vận dụng vào giao tiếp và học tập.
Về từ ngữ, các tác giả cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” khẳng
định: “Từ vựng là một trong các bộ phận của hệ thống ngôn ngữ, thiếu từ vựng

thì không có bất cứ ngôn ngữ nào”. Điều này lý giải tại sao việc dạy từ ngữ được
coi là nhiệm vụ quan trọng trong chương trình Tiếng Việt Tiều học, lý giải tại
7

sao việc mở rộng và phát triển vốn từ cho học sinh được chú trọng ngay từ bậc
Tiều học.
Nghĩa của từ rất quan trọng, trong giao tiếp thông thường cả người phát
(nói, viết) và người nhận (nghe, đọc) đều phải nắm được từ, hiểu được nghĩa của
từ thì mơi sử dụng từ một cách chuẩn xác, từ đó giao tiếp mới có hiệu quả. Dạy
từ mà không cho học sinh hiểu từ, nắm được nghĩa của từ thì sẽ là một việc vô bổ
bởi vì như thế học sinh không biết dùng các từ đã cung cấp.
Là những giáo viên Tiểu học trong tương lai, những người sẽ trực tiếp
giảng dạy môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học và dẫn dắt các em học sinh
trong những bước đi học vấn đầu tiên để tạo nền tảng kiến thức vững chắc cho
các bậc học tiếp theo, chúng tôi nhận thấy rằng muốn dạy tốt môn học này thì
phải nắm vững được tiếng mẹ đẻ. Giảng dạy Tiếng Việt không thể có hiệu quả
nếu không có ý thức đầy đủ việc dạy nghĩa, đem đến cho học sinh những hiểu
biết về những sắc thái tinh tế của nghĩa từ, cụm từ, câu và bài. Hơn nữa, để tăng
vốn từ cho học sinh phải cung cấp những từ mới, do vậy công việc đầu tiên của
việc dạy từ là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ. Tầm quan trọng của việc dạy nghĩa
từ cho học sinh đã được thừa nhận từ lâu trong phương pháp dạy Tiếng Việt. Nó
là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa từ
được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật
ngữ, khái niệm thì ở đó có dạy nghĩa từ. Chẳng hạn như các bài tập đọc thường
có mục ghi chú, giải nghĩa các từ ngữ cho học sinh; các bài tập dạy nghĩa cũng
nhằm mục đích này. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện trong phân môn Luyện từ và
câu không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại thường xuyên phải thực hiện không
8

chỉ trong giờ luyện từ và câu mà trong rất nhiều giờ học khác của môn học Tiếng

Việt và các môn học khác.
Với những lí do thiết thực trên đây chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu
đề tài “Khảo sát khả năng nhận diện, hiểu biết ý nghĩa và giải nghĩa từ ngữ của
học sinh Tiểu học” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Việc giải nghĩa từ không chỉ sử dụng chủ yếu trong môn Tiếng Việt, đặc
biệt phân môn Luyện từ và câu mà còn được sử dụng trong các môn học khác
nữa, nó được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước để tâm nghiên cứu. Sau
đây chúng tôi xin điểm qua một vài công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề
này :
Tác giả Đỗ Hữu Châu với cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng việt” đã viết về
từ vựng ở tiếng việt với các loại từ: Từ Thuần việt, từ Hán việt, từ gốc Ấn – Âu,
từ hỗn chủng. Về nghĩa thì cuốn sách này đề cập hiện tượng đa nghĩa, hiện tượng
đồng âm, hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, hiện tượng từ tương tự. Theo tác giả
Đỗ Hữu Châu thì: “Người ta chia hệ thống từ vựng thành những tập hợp từ vựng
có sự đồng nhất ngữ nghĩa xét theo một phương diện nào đấy để phát hiện ra tính
hệ thống và cấu trúc của hệ thống từ vựng về mặt ngữ nghĩa – đó là trường từ
vựng – ngữ nghĩa”. Bên cạnh đó, Đỗ Hữu Châu đã dành riêng chương XVII, đặc
biệt từ trang 273 đến trang 279 để nói về “giải nghĩa từ”. Ông còn cho rằng:
“Dạy từ không chỉ thu hẹp trong việc giải nghĩa từ, mặc dù đó là việc then chốt”.
Tác giả đưa ra 3 cách giải nghĩa biểu niệm đó là giải nghĩa theo cách định nghĩa,
khái niệm. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, trái nghĩa và giải nghĩa
theo cách miêu tả.
9

Tiếp tục tìm hiểu về ngữ nghĩa, nghĩa của từ thì hai tác giả Vũ Đức
Nghiệu và Nguyễn Văn Hiệp với cuốn “Dẫn luận ngôn ngữ học” gồm 18
chương, trong đó nội dung về ngữ nghĩa, nghĩa của từ và nghĩa của câu được đề
cập trong hai chương lớn là chương XV và XVI.
Nhóm tác giả Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga trong cuốn “Phương pháp

dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học” cũng bàn về giải nghĩa từ ở trang 198 đến trang
202 của chủ đề 6: Phương pháp dạy học luyện từ và câu. Khi nói về vấn đề này,
các tác giả cũng khẳng định: “Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật
chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một
tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm
thanh xác định.Đồng thời nhóm tác giả này còn đưa ra 5 biện pháp giải nghĩa từ:
Giải nghĩa bằng trực quan. Giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với từ khác.
Giải nghĩa các từ bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Giải nghĩa bằng cách phân
tích từ thành các thành tố (tiếng) và giải nghĩa từng thành tố này. Giải nghĩa
bằng định nghĩa.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu của một số tác giả mà chúng tôi
vừa kể trên thì có một số đề tài khoa học của khóa trước cũng tìm hiểu về vấn đề
này như đề tài “khả năng hiểu nghĩa và tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa của học
sinh Tiểu học” của Phùng Thị Hạnh. Trong đề tài này Phùng Thị Hạnh đã nghiên
cứu về vấn đề khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh Tiểu học và đưa ra khái niệm
về nghĩa của từ, các thành phần nghĩa của từ (từ trang 7 đến trang 11).Sau đó là
phần Tìm hiểu thực trạng khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh lớp 2, lớp 3 tại
một số trường Tiểu học bằng các bài kiểm tra (phiếu điều tra) nhưng đề tài của
10

Phùng Thị Hạnh tập trung đi sâu vào nghiên cứu về hiện tương đồng nghĩa, trái
nghĩa và khả năng tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa của học sinh Tiểu học.
Trong những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy hầu hết các
công trình nghiên cứu này đều đã nghiên cứu trực tiếp về nghĩa của từ, và một số
khía cạnh của giải nghĩa từ. Xét về cơ bản thì chưa có công trình nào nghiên cứu
khả năng nhận diện, hiểu nghĩa và giải nghĩa từ của học sinh Tiểu học. Vì vậy
chúng tôi có thể khẳng định rằng đề tài nghiên cứu của chúng tôi là một đề tài
mới mẻ và cần thiết.
3. Mục đích và yêu cầu
3.1. Mục đích :

Đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm 3 mục đích cơ bản sau :
Thứ nhất: Muốn tìm hiểu được khả năng giải nghĩa từ của học sinh Tiểu học
trước hết phải tìm hiểu khả năng nhận diện, hiểu nghĩa của từ của học sinh Tiểu học.
Thứ hai: Tìm hiểu khả năng giải nghĩa từ của học sinh Tiểu học.
Thứ ba: Trên cơ sở thực tế về khả năng nhận diện, hiểu nghĩa và giải nghĩa
từ của học sinh Tiểu học lớp 4, 5 chúng tôi đề ra những phương pháp cụ thể
nhằm giúp học sinh nhận diện, hiểu nghĩa và biết cách giải nghĩa từ một cách tốt
hơn.
3.2. Yêu cầu :
Để thực hiện được những mục đích trên và đặc biệt giúp khóa luận này có
hiệu quả, người viết phải đảm bảo tốt những yêu cầu sau:
- Nắm được khái niệm nghĩa của từ, các loại nghĩa.
- Biết được các cách giải nghĩa từ ở Tiểu học.
11

- Một số dạng bài tập giải nghĩa từ phổ biến, hay gặp trong chương trình
Tiếng Việt Tiểu học sau năm 2000.
- Tiến hành điều tra, thống kê, mô tả khả năng nhận diện, hiểu nghĩa và giải
nghĩa từ của học sinh lớp 4, 5 tại trường Tiểu học Thị Trấn Sóc Sơn .
- Đề xuất được một số phương pháp cụ thể giúp học sinh nhận diện, hiểu
nghĩa và giải nghĩa từ tốt hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp
sau :
4.1. Phương pháp điều tra
Điều tra khả năng tìm hiểu nghĩa và giải nghĩa từ của học sinh dưới dạng
bài kiểm tra ( phiếu điều tra ).
4.2. Phương pháp thống kê
Tập hợp, thống kê kết quả điều tra.
4.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp :

Phân tích tổng hợp những tài liệu khoa học cần thiết để làm cơ sở lý
thuyết cho đề tài.
Từ số liệu thống kê, tiến hành phân tích số liệu và đưa ra những nhận
định, đánh giá và kết luận. Phân tích các tài liệu khoa học rồi hợp lại thành cơ sở
lý luận của đề tài.
5. Đối tượng nghiên cứu
Khả năng nhận diện, hiểu biết ý nghĩa và giải nghĩa từ ngữ của học sinh
lớp 4, lớp 5 ở trường Tiểu học Thị Trấn Sóc Sơn.
6. Phạm vi nghiên cứu
12

Đề tài này chỉ nghiên cứu khả năng hiểu nghĩa và giải nghĩa từ của học sinh
Tiểu học lớp 4, lớp 5 ở một trường Tiểu học.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần tìm hiểu thực trạng khả năng nhận diện, hiểu nghĩa và giải
nghĩa từ của học sinh Tiểu học và đề xuất một số giải pháp hình thành khả năng
trên cho học sinh Tiểu học ( lớp 4, lớp 5 ). Theo các biện pháp này học sinh sẽ có
khả năng nhận diện, hiểu nghĩa và giải nghĩa từ để có thể biết cách giải nghĩa từ
và làm được nhiều dạng bài tập giải nghĩa từ khác nhau, làm cho vốn từ của các
em trở nên phong phú và linh hoạt hơn, giúp cho việc học tập môn Tiếng Việt
cũng như các môn học khác và giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày thuận lợi
hơn.














13

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Nghĩa của từ
1.1.1.1. Khái niệm nghĩa của từ
Để trả lời câu hỏi “nghĩa của từ là gì ?”, trước hết phải trở lại với bản chất
tín hiệu của từ. Từ là tín hiệu, nó phải “nói lên”, phải đại diện cho, phải được
người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó. Từ có thể được phân loại theo nhiều
cách : phân loại dựa vào ý nghĩa khái quát và hoạt động ngữ pháp của từ - ta có
các lớp từ theo từ loại; phân loại dựa vào nghĩa - ta có các lớp từ theo chủ đề,
tiểu chủ đề; phân loại theo các lớp nghĩa - ta có các lớp từ như đồng nghĩa, trái
nghĩa ; phân loại theo nguồn gốc - ta có từ thuần Việt, từ Hán Việt; phân loại
theo phạm vi sử dụng - ta được từ địa phương, từ toàn dân. Mỗi khi học nghĩa
của một từ, chúng ta đều học bằng cách liên hệ với những cái mà từ đó chỉ ra
(trước hết là sự vật, hiện tượng, hành động hoặc thuộc tính… mà từ đó làm tên
gọi cho nó). Mặt khác nghĩa của từ cũng được học thông qua hoặc liên quan tới
vô vàn tình huống giao tiếp ngôn ngữ mà từ đó sử dụng. Nghĩa của từ chính là
nội dung tư tưởng gợi ra ở trong từ.
Trong một đơn vị từ vựng người ta phân chia thành hai lớp nghĩa: Lớp
nghĩa bên ngoài (nghĩa liên hội) và lớp nghĩa bên trong (nghĩa cấu trúc, nghĩa
ngữ pháp).
Lớp nghĩa bên ngoài được hình thành trong mối quan hệ với xã hội, lịch
sử, dân tộc. thời đại và cá nhân người sử dụng ngôn ngữ. Cụ thể mỗi từ khi đưa
vào sử dụng thì trong quá trình sử dụng ấy đã hình thành một lớp nghĩa bao

quanh mỗi từ. Nhờ có lớp nghĩa này mà từ mới thực sự trở thành cụ thể sinh
14

động của một thực tiễn nhất định. Mỗi dân tộc hầu như có một ngôn ngữ , tính
chất cư trú trên những vị trí địa lí khác nhau, phong tục tập quán khác nhau…Tất
cả những cái khác nhau ấy tạo nên ý nghĩa bên ngoài của từ khác nhau. Ý nghĩa
bên ngoài ấy lại có thể thay đổi theo từng thời đại và cũng có thể được mỗi cá
nhân sử dụng với những ý nghĩa khác nhau do vốn sống, vốn ngôn ngữ khác
nhau.
Nghĩa bên trong : Đây là lớp nghĩa đối lập với lớp nghĩa bên ngoài, lớp
nghĩa này có tính bền vững, ít thay đổi, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Lớp nghĩa bên trong gồm 2 loại, đó là nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp.
Ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của từng từ, không lặp lại ở các từ khác.
Nghĩa từ vựng bao gồm nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu vật, nghĩa biểu thái.
Nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho nhiều từ cùng loại và liên quan đến
chức năng cấu tạo câu. Nghĩa này có thể quy về các phạm trù như : giống, số,
cách, ngôi, thời, thể, thức hay các phạm trù : Danh, động, tính, số từ…
Nghĩa ngữ pháp tạo thành khuôn từ loại, còn nghĩa từ vựng là lõi nằm
trong khuôn từ loại đó. Như vậy, muốn hiểu được nghĩa của từ ta phải đối chiếu
từ với các hoạt động giao tiếp, với các chức năng tín hiệu học của từ, phải nắm
được ý nghĩa riêng của từ đó là nghĩa từ vựng và ý nghĩa chung của từ đó là
nghĩa ngữ pháp. Trong phần nghiên cứu này ta chỉ đi tìm hiểu ý nghĩa riêng của
từ. Vì vậy trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến phần nghĩa từ vựng.
1.1.1.2. Các thành phần nghĩa của từ
a. Nghĩa biểu vật:
15

Ý nghĩa biểu vật bắt nguồn từ chức năng biểu vật của từ. Nghĩa biểu vật là
nghĩa gọi tên các loại sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất hoạt động… theo
lối tổng hợp tính, nghĩa là gọi tên không có lý do.

Khi nghiên cứu nghĩa biểu vật của từ phải đặt từ trong mối liên hệ với
thực tế khách quan. Bởi vì đó là những “mẩu” , những “mảnh” , những “đoạn
cắt” của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế khách quan, giữa từ với
thực tế khách quan ít có sự tương ứng 1 – 1, cùng một sự vật nhưng có rất nhiều
tên gọi hoặc cùng một từ nhưng chỉ nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Các từ trong Tiếng Việt có từ có ý nghĩa biểu vật rộng, có từ có ý nghĩa
biểu vật hẹp. Những từ có ý nghĩa biểu vật rộng là những từ có ý nghĩa khái quát
và có thể gọi tên được nhiều sự vật, hiện tượng đó là những từ đơn âm tiết, từ
ghép (nhà cửa, ruộng nương ) , láy cá thể (máy móc, chim chóc, tiệc tùng…).
Những từ mang ý nghĩa biểu vật hẹp là những từ chỉ gọi tên được một hay một
số ít các sự vật, hiện tượng, đó là các từ ghép phân nghĩa (xe đạp, xe máy…), láy
sắc thái hóa (xanh xao, vàng vọt ).
b. Nghĩa biểu niệm :
Nghĩa biểu niệm là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm). Cái ý đó
người ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của
biểu vật và trong ý thức con người).
Nghĩa biểu niệm bắt nguồn từ chức năng biểu niệm của từ. Nghĩa biểu
niệm là nghĩa biểu thị khái niệm về sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan.
Mỗi sự vật, hiện tượng được nhận thức bằng tư duy thông qua những dấu hiệu
của nó và được phản ánh bằng ngôn ngữ thành các ý nghĩa biểu vật (được gọi
tên), từ nghĩa biểu vật sẽ có một nghĩa biểu niệm tương ứng. Khi nghiên cứu
16

nghĩa biểu niệm phải đặt từ trong mối liên hệ với các dấu hiệu của khái niệm.
Như vậy gọi tên theo lối biểu niệm là gọi tên có lý do.
Ví dụ : Sự vật có mặt phẳng, làm bằng nguyên liệu rắn, có chân, dùng để
viết là cái bàn.
Mỗi dấu hiệu được đưa vào nghĩa biểu niệm là một nét nghĩa. Ý nghĩa
biểu niệm là tập hợp một số nét nghĩa.
Ý nghĩa biểu niệm và khái niệm có quan hệ với nhau nhưng không phải

lúc nào cũng trùng nhau, bởi vì cùng một khái niệm nhưng có ý nghĩa biểu niệm
khác nhau, do vậy số lượng tên gọi khác nhau.
Ví dụ :
Ý nghĩa : Dùng nước làm sạch gạo : vo.
Dùng nước làm sạch đầu : gội.
Dùng nước làm sạch mặt : rửa.
Dùng nước làm sạch quần áo: giặt.
Như vậy, cùng một khái niệm có 4 sự vật.
c. Nghĩa biểu thái :
Ngoài hai thành phần nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm, khi xác định
nghĩa của từ người ta còn phân biệt một thành phần nghĩa nữa, đó là nghĩa ngữ
dụng hay còn gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ.
Nghĩa biểu thái (nghĩa ngữ dụng, nghĩa hàm chỉ) bắt nguồn từ chức năng
biểu thái của từ, nó biểu thị thái độ, tình cảm, cách đánh giá của người sử dụng
ngôn ngữ đối với sự vật được gọi tên.
Như vậy, nghiên cứu nghĩa biểu thái, nó đặt từ trong mối quan hệ với
người sử dụng ngôn ngữ, biểu hiện thái độ : Người ta ứng xử như thế nào trước
17

một sự vật được gọi tên; ở các cung bậc tình cảm : vui, buồn, yêu, ghét, lo,
sầu…; ở trong cách đánh giá : Con người đánh giá như thế nào trước một sự vật
hiện tượng trong thực tế khách quan, ví dụ : Đánh giá về lượng nhiều hay ít, về
chất tốt hay xấu, về cường độ nhanh hay chậm, về phương hướng xa hay gần…
Trong hệ thống từ vựng, nghĩa biểu thái của từ cũng biểu hiện không đồng
đều giữa các từ : Những từ có ý nghĩa biểu thái cao nhất là các từ cảm, các trợ từ:
ái, ối, ôi, a, chao ôi, khiếp,…; những từ có ý nghĩa biểu thái thấp hơn là nhóm từ
vừa có ý nghĩa định danh vừa có ý nghĩa biểu thái, đó là những từ ghép, láy sắc
thái hóa và một số từ đơn có ý nghĩa biểu thái, ví dụ : Lom khom, khấp khểnh,
tấp tểnh, đen sì, đỏ lòm,…
Nhóm từ có ý nghĩa sắc thái hóa thấp nhất là nhóm từ có ý nghĩa định

danh thông thường. Muốn tìm hiểu ý nghĩa sắc thái hóa của những từ định danh
thông thường thì phải đặt nó trong mối quan hệ với dãy đồng nghĩa để ta so sánh
từ này với từ kia, xét nó ở mức độ nào. Ví dụ : Dãy đồng nghĩa : Đi, chuồn,
phắn, lặn,…
Như vậy, nghĩa của từ có 3 thành phần nghĩa: Nghĩa biểu vật gọi tên sự
vật bên ngoài (khách quan), cụ thể; nghĩa biểu niệm chỉ ra khái niệm bên trong
(bản chất), trừu tượng; nghĩa biểu thái chỉ ý nghĩa đi kèm thái độ, cảm xúc của
người dùng. Cả ba nghĩa đều quan trọng, không có nghĩa nào quan trọng hơn
nghĩa nào, nó là ba mặt của một vấn đề, có vai trò như nhau và liên hệ với nhau.
1.1.1.3. Quan niệm về nghĩa của từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học
Khi nói về nghĩa của từ các tác giả sách giáo khoa Tiểu học đưa ra các loại
nghĩa trong từ nhiều nghĩa :
18

“Trong tiếng nói, mỗi từ bao giờ cũng có một nghĩa chính được gọi là
nghĩa đen… Mỗi từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa phụ. Nghĩa phụ được hiểu
rộng ra từ nghĩa đen, thường được gọi là nghĩa bóng”.
Như vậy sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học đề cập đến hai thành phần
nghĩa : nghĩa cơ sở hay còn gọi là nghĩa đen (nghĩa chính) và nghĩa phái sinh từ
nghĩa gốc, nó được chi phối bởi các yếu tố xung quanh, còn gọi là nghĩa bóng
(nghĩa phụ).
1.1.2. Một số biện pháp giải nghĩa từ ở Tiểu học
Để dạy nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa
phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh.
Ở Tiểu học, người ta thường nêu một số biện pháp giải nghĩa như sau:
1.1.2.1. Giải nghĩa bằng trực quan :
Giải nghĩa bằng trực quan là biện pháp đưa ra các vật thật, tranh ảnh, sơ
đồ để giải nghĩa từ. Lúc này, vật thật, tranh vẽ, biểu bảng, sơ đồ được dùng để
đại diện cho nghĩa của từ.
Ví dụ : Giáo viên đưa lá tía tô cho học sinh xem và nói: “Đây là lá

tía tô” khi học bài học vần “ia”.
- Khi học bài “Rừng thảo quả” cô giáo cho học sinh xem tranh
(hoặc ảnh chụp) rừng thảo quả.
Tương ứng với biện pháp giải nghĩa từ bằng trực quan có các bài tập dạy
nghĩa từ bằng tranh vẽ. Có thể chia các bài tập dạy nghĩa từ bằng tranh vẽ thành
3 dạng:
- Bài tập yêu cầu tìm sự tương ứng giữa từ cho sẵn với hình vẽ.
- Dạng bài tập dựa vào tranh tìm từ tương ứng.
19

Ví dụ 1 : Tìm những từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật, cây cối) được vẽ
dưới đây. (TV2 - tập 1)
Ví dụ 2 : Các tranh dưới đây vẽ một số hoạt động của người. Hãy tìm từ
chỉ mỗi hoạt động đó (TV2 - tập 1)
- Dạng bài tập gọi tên các vật được vẽ ẩn trong các tranh. Đây là những bài tập
vui với các tranh đố.
1.1.2.2. Giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với từ khác.
Ví dụ: Phân biệt nghĩa của các cụm từ : khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo
tồn thiên nhiên.
(TV5 tập 1)
1.1.2.3. Giải nghĩa các từ bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
Ví dụ : “Siêng năng là chăm chỉ”; “Ngăn nắp là không lộn xộn”. Tương
ứng với cách giải nghĩa này, sách giáo khoa có các bài tập yêu cầu giải nghĩa
bằng đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ 1 : Tìm từ cùng nghĩa với từ dũng cảm trong các từ dưới đây :
Gan dạ, thân thiết, hoà thuận, anh dũng, thông minh, bạo gan, quả cảm,
(TV4 – t2 – tr 73)
Ví dụ 2 : Tìm những từ cùng nghĩa và những từ trái nghĩa với từ dũng cảm.
M : - Từ cùng nghĩa : can đảm - Từ trái nghĩa : hèn nhát
(TV4 – t2 – tr 83)

Yêu cầu của các bài tập này là dùng những từ cùng nghĩa hoặc có nghĩa
trái ngược với nghĩa của từ cần giải nghĩa làm phương tiện để giải nghĩa từ.
Những từ đồng nghĩa được dùng để giải nghĩa phải là những từ gần gũi, quen
thuộc với học sinh. Loại bài tập này khơi gợi được sự liên tưởng tương đồng và
20

khác biệt để kích thích học sinh xác lập được nghĩa của từ, đồng thời cũng giúp
học sinh mở rộng, phát triển vốn từ cũng như góp phần hình thành khái niệm từ
đồng nghĩa, trái nghĩa.
Tuy nhiên cần lưu ý là khác với loại bài tập giải nghĩa từ bằng định nghĩa,
nhiều khi đáp án của bài tập này có nhiều từ (nhiều đáp án).
1.1.2.4. Giải nghĩa bằng cách phân tích từ thành các thành tố (tiếng) và giải
nghĩa từng thành tố này.
Ví dụ : Tổ quốc là từ ghép gốc Hán. Tổ là ông cha ta từ xa xưa, quốc là
nước, đất nước. Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán
Việt. Sách giáo khoa không có những bài tập yêu cầu giải nghĩa theo cách phân
tích từng thành tố nhưng ý thức được việc nắm nghĩa của các tiếng sẽ làm tăng
nhanh chóng vốn từ hơn là nắm nghĩa của từng từ nên trong sách giáo khoa có
rất nhiều bài tập yêu cầu nêu nghĩa của tiếng trong từ và dùng nghĩa của tiếng có
trong từ để làm căn cứ phân loại các từ đó. Chúng ta xếp những bài tập này vào
nhóm bài tập hệ thống hoá vốn từ và sẽ trình bày sau.
1.1.2.5. Giải nghĩa bằng định nghĩa :
Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa phổ biến nhất trong
SGK. Đây là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa (tập hợp các nét
nghĩa) bằng một định nghĩa.
Ví dụ : “Tự trọng là coi trọng và gìn giữ phẩm giá của mình” (Tiếng Việt
4 - tập 1 - tr 49)
Giải nghĩa bằng tập hợp các nét nghĩa là cách dạy nghĩa đầy đủ nhất
nhưng là một yêu cầu khó đối với học sinh tiểu học. Vì vậy, các dạng bài tập giải
21


nghĩa bằng định nghĩa trong sách giáo khoa thường xây dựng dưới dạng cho sẵn
từ và nghĩa của từ, các định nghĩa về từ, yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.
Loại bài tập giải nghĩa bằng định nghĩa có 3 tiểu dạng :
- Dạng 1 : Cho sẵn từ, yêu cầu tìm trong các nghĩa đã cho nghĩa phù hợp với từ.
Ví dụ : Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của từ “tự trọng” ?
a. Tin vào bản thân mình.
b. Quyết định lấy công việc của mình.
c. Coi trọng và gìn giữ phẩm giá của mình.
d. Đánh giá mình quá cao và coi thường người khác.
(Tiếng Việt 4 - tập 1 – tr 49)
- Dạng 2 : Cho từ và nghĩa của từ, yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.
Ví dụ : Tìm từ (ở cột A) phù hợp với lời giải nghĩa (ở cột B):
(TV 4 - t2 - tr 74)
Khi hướng dẫn giải kiểu bài tập này, giáo viên phải làm cho học sinh hiểu
ý nghĩa của từng yếu tố ở hai vế để thấy sự tương ứng cặp đôi. Các em lấy lần
lượt các từ ngữ ghép với một nội dung xem có sự tương ứng, tức là tạo thành câu
đúng nghĩa không. Nếu HS điền, nối đúng, tạo ra sự tương ứng hợp lí giữa nghĩa
và từ là các em đã nắm được nghĩa từ.
- Dạng 3 : Cho sẵn từ, yêu cầu học sinh xác lập nội dung nghĩa tương ứng.
Dạng bài tập này ít xuất hiện trong sách giáo khoa.
Ví dụ 1 : Hãy giải thích nghĩa của từ ngữ chỉ phẩm chất mà em chọn trong
các phẩm chất ở mục 1 (dũng cảm, cao thượng, năng nổ, thích ứng được với mọi
hoàn cảnh, biết quan tâm đến mọi người, khoan dung và dịu dàng).
(Tiếng Việt 5 - tập 2)
22

Ví dụ 2 : Ghép tiếng bảo với nghĩa là giữ, gánh vác, chịu trách nhiệm với
mỗi tiếng sau để tạo thành từ phức và tìm hiểu nghĩa của mỗi từ đó (có thể sử
dụng Từ điển Tiếng Việt): đảm, hiểm, quản, tàng, toàn, tồn, trợ, vệ.

(Tiếng Việt 5 - tập 2)
Ví dụ 3 : Em hiểu các thành ngữ dưới đây như thế nào?
a. Cầu được ước thấy. b. Ước sao được vậy.
c. Ước của trái mùa. d. Đứng núi này trông núi nọ.
(Tiếng Việt 4 - tập 1 – tr 88)
Ví dụ 4 : Mỗi câu tục ngữ sau đây khuyên người ta điều gì?
a. Lửa thử vàng, gian nan thử sức.
b. Nước lã mà vã nên hồ
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.
c. Có vất vả mới thanh nhàn
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho.
(Tiếng Việt 4 - tập 1 - tr 118 - 119)
Đây là dạng bài tập khó đối với học sinh Tiểu học.Để thực hiện loại bài
tập này, HS phải có kĩ năng định nghĩa.
Giải nghĩa bằng định nghĩa sẽ làm cho ngôn ngữ và tư duy của học sinh
trở nên rõ ràng và sâu sắc hơn. Càng bắt đầu dạy cho học sinh định nghĩa từ sớm
bao nhiêu thì các em càng biết tư duy chính xác và nói năng đúng đắn sớm bấy
nhiêu. Khi định nghĩa từ, cần bảo đảm các yêu cầu sau : nghĩa của từ được định
nghĩa cần được rút ra trên những nghĩa đơn giản hơn để tránh sự luẩn quẩn trong
định nghĩa. Các thành tố nghĩa của từ được định nghĩa cần đầy đủ nhưng tổ hợp
các thàn

Giải nghĩa từ là một biện pháp nêu rõ những đặc tính của từ. Trong khi
23

giải nghĩa, cần tách các dấu hiệu mà học sinh sẽ chú ý đến khi làm quen với từ.
Ở Tiểu học, một từ nhiều khi được dạy nghĩa nhiều lần nên lần đầu có thể không
cần khám phá hết nội dung của nó, những lần sau sẽ mở ra tất cả nội dung của
từ.
Việc phân chia thành các biện pháp và các bài tập giải nghĩa như trên chỉ

là tương đối. Trong thực tế, khi giải nghĩa từ hoặc xây dựng những bài tập giải
nghĩa, người ta thường kết hợp các biện pháp khác nhau : vừa dùng trực quan,
vừa dùng đồng nghĩa, dựa vào ngữ cảnh hoặc sử dụng biện pháp định nghĩa.
Việc lựa chọn các biện pháp giải nghĩa và hình thức bài tập giải nghĩa tuỳ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nó bị quy định bởi nhiệm vụ học tập (từ sẽ
được đưa vào vốn từ tích cực hay tiêu cực), bởi đặc điểm của từ (trừu tượng hay
cụ thể, danh từ hay động từ, tính từ, thuần Việt hay Hán Việt), bởi trình độ của
HS (trước đó đã được chuẩn bị để nắm nghĩa từ như thế nào).
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong chương trình Tiểu học thì ở lớp 4 học sinh bắt đầu học về từ đơn, từ
phức, từ ghép, từ láy. Việc dạy từ ghép và từ láy được tiến hành ở tuần 4 của lớp
4. Đặt trong hệ thống, bài từ ghép và từ láy là bài lí thuyết về từ thứ hai của
chương trình Tiếng Việt mới sau bài từ đơn và từ phức. Từ đơn, từ phức, từ
ghép, từ láy là kết quả của một cách phân loại từ - phân loại theo cấu tạo. Sách
giáo khoa quan niệm “Tiếng cấu tạo nên từ. Từ gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ
gồm hai hay nhiều tiếng gọi là từ phức”. Từ phức được phân loại thành hai kiểu :
từ ghép và từ láy.
Đồng thời ở lớp 2, lớp 3 học sinh được làm quen với việc giải nghĩa từ, đó
là đọc các từ khó được giải thích ở dưới bài tập đọc. Nhưng chỉ ở mức độ đọc
24

cách giải nghĩa đã ghi sẵn. Còn đến lớp 4 thì học sinh đi sâu vào giải nghĩa từ
trong phân môn luyện từ và câu, làm quen với các dạng bài tập về giải nghĩa từ.
Lên đến lớp 5 thì những kiến thức này được vận dụng nhiều và các bài tập về
giải nghĩa từ đưa ra với mức độ khó và phức tạp hơn.
Giải nghĩa từ trong chương trình Tiếng Việt ở cấp Tiểu học hiện đã thể
hiện được vai trò của mình. Tuy thế, thực tiễn dạy học tiếng việt nói chung và
giải nghĩa từ nói riêng còn đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết, nhất là ở tính hiệu quả
tối đa.
Trước hết, xét về mặt nội dung. Theo khảo sát của tác giả Lê Phương Nga

thì hiện nay, khi xây dựng sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học, các nhà biên
soạn đều xác định phạm vi vốn từ tối thiểu về thế giới xung quanh, công việc của
học sinh Vì thế, những từ ngữ được dạy ở bậc Tiểu học gắn liền với thiên
nhiên, đất nước, con người giúp làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của học
sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy các
em biết yêu và ghét.
Xét về mặt kết cấu và phân bố chương trình, trong tổng số 175 tuần học
của chương trình Tiếng Việt tiểu học mới, từ ngữ hiện vẫn chỉ được dạy tích hợp
qua các phân môn của Tiếng Việt mà chưa có giờ riêng. Chương trình 165 tuần
và chương trình 100 tuần học trước đây thì đã có phân môn Từ ngữ, có giờ học
từ ngữ riêng, bắt đầu từ lớp 2. Thời lượng giảng dạy từ ngữ trong tổng số quỹ
thời gian của năm học ở cả hai chương trình cũ và mới là vừa phải. Tuy nhiên,
tổng số thời gian dành riêng cho việc giải nghĩa từ (chỉ xét qua một phân môn
tiêu biểu là Từ ngữ trước đây và Luyện từ và câu hiện nay) vẫn còn quá ít. Bởi
lẽ, nếu "phạm" phải lượng thời gian chuẩn thì các giờ học không đảm bảo, dễ
25

dẫn tới tình trạng chồng chéo; ngược lại, nếu chú trọng đến việc giải nghĩa từ,
lượng thời gian như vậy so với nhu cầu cần thiết dành cho việc này là khá khiêm
tốn. Theo quy định mới trong năm học 2008 - 2009 của Bộ Giáo dục - Đào tạo
đối với bậc tiểu học, thời lượng tối đa các môn học chính khóa không vượt quá
25 tiết/tuần. Như vậy, thời gian, tâm huyết dành cho dạy học giải nghĩa từ trong
các phân môn của Tiếng Việt chắc chắn sẽ càng ít hơn.
Thời gian gần đây, nhiều nhà báo, những người vốn nặng lòng với sự
nghiệp phát triển giáo dục Tiểu học đã có những nhận định gai góc về tình trạng
trồi sụt năng lực ngôn ngữ, năng lực tiếng việt của học sinh. Như trên đã chỉ ra,
lượng thời gian thực học giải nghĩa từ là rất hạn chế. Trong khi đó, giải nghĩa từ
giữ vai trò mở ra cánh cửa tri thức cho học sinh, giúp cho trẻ biết đó là "cái gì"
trước khi tìm hiểu chúng ra sao, cấu trúc, quy luật thế nào. Thực tế cho thấy,
không chỉ trong dạy học các phân môn của Tiếng Việt mà trong bất cứ tiết học,

môn học nào ở Tiểu học, khi xuất hiện những khái niệm, vấn đề mới, người giáo
viên nhất thiết phải sử dụng thao tác giải nghĩa từ. Tuy nhiên, xét trong tương
quan chung, đây là nhiệm vụ, kĩ năng đặc trưng, bắt buộc của dạy học Tiếng
Việt, nhất là đối với các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu.


CHƯƠNG 2 : KHẢO SÁT KHẢ NĂNG NHẬN DIỆN, HIỂU BIẾT Ý
NGHĨA VÀ GIẢI NGHĨA TỪ NGỮ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

2.1. Khả năng nhận diện các từ về mặt lý thuyết

×