Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Nghiên cứu về Thị trường tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.47 KB, 23 trang )

NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
CHƯƠNG 11: THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I ĐỊNH NGHĨA THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Có thể thấy khái niệm thị trường tiền tệ thực sự là việc sử dụng nhầm tên. Tiền – Tiền tệ không
được trao đổi trên thị trường tiền tệ mà là các chứng khoán. Những chứng khoán giao dịch ở thị
trường này thường có kỳ hạn ngắn và độ thanh khoản cao nên chúng được xem gần như là tiền.
Chứng khoán trên thị trường tiền tệ có 3 đặc điểm chung cơ bản sau :
Thường được bán với giá trị khối lượng lớn
Có độ rủi ro mặc định thấp
Thời gian đáo hạn dưới 1 năm kể từ ngày được phát hành. Hầu hết công cụ tài chính trên thị
trường tiền tệ có thời gian đáo hạn ít hơn 120 ngày.
Hoạt động giao dịch trênthị trường tiền tệ không diễn ra ở bất kỳ một địa điểm cụ thểhoặc một
tòa nhà nào. Thay vào đó, những người giao dịch thường thỏa thuận mua và bán giữa các bên tham
gia thông qua điện thoại và hoàn tất các giao dịch hoàn toàn bằng điện tử. Vì đặc tính này nên thị
trường tiền tệthường có một thị trường thứ cấp sôi động.Nghĩa rằng, sau khi các chứng khoán ban
đầu được bán, nó sẽ dễ dàng tìm được người mua trong tương lai. Một thị trường tiền tệ thứ cấp sôi
động giúp cho các chứng khoán của thị trường tiền tệ là những công cụ rất linh hoạt để đáp ứng các
nhu cầu tài chính ngắn hạn. VD như báo cáo hàng năm của Microsoft viết “Chúng tôi cân nhắc tất
cả các khoản đầu tư có tỷ suất sinh lợi có tính thanh khoản cao với thời gian đáo hạn dưới 3 tháng
kể từ ngày được thanh toán để trở thành khoản tương đương tiền”
Một đặc tính khác của thị trường tiền tệ là đó là thị trường bán buôn. Có nghĩa rằng hầu hết
giao dịch thường rất lớn, trên 1 triệu USD. Khối lượng này ngăn cản hầu hết những cá nhân muốn
tham gia trực tiếp vào thị trường tiền tệ. Thay vào đó, những người môi giới và người tạo lập thị
trường, hoạt động tại các phòng giao dịch của ngân hàng hoặc phòng môi giới lớn, mang khách
hàng lại với nhau. Những nhà đầu tư này sẽ mua hoặc bán 50 hoặc 100 triệu USD chỉ trong vài
giây.
Sự linh hoạt và đổi mới là 2 đặc tính quan trọng của bất kỳ thị trường tài chính, và thị trường
tiền tệ cũng không ngoại lệ. Mặc dù việc bán buôn là đặc tính cơ bản của thị trường tiền tệ, những
chứng khoán mới và những phương pháp giao dịch đã được phát triển để những nhà đầu tư nhỏ có
thể tham giao vào thị trường.
1. Lý do chúng ta cần thị trường tiền tệ?


Thị trường tiền tệ không cần có trong một thế giới bất qui tắc,. Ngành công nghiệp ngân hàng
tồn tại chủ yếu để cung cấp các khoản vay ngắn hạn và nhận tiền gửi ngắn hạn. Ngân hàng có một
lợi thế hiệu quả trong việc thu thập thông tin từ đó có thể loại trừ sự cần thiết của thị trường tiền tệ.
Nhờ vào mối quan hệ với khách hàng, ngân hàng có thể cho vay rẻ hơn các loại thị trường khác.Hơn
thế, các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ không có tính thanh khoản cao và an toàn bằng
tiền gửi trong ngân hàng và quỹ tiết kiệm. Thế nhưng tạithị trường tiền tệvẫn tồn tại?
Page 1
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Ngân hàng tồn tại chủ yếu để trung hòa vấn đề thông tin bất cân xứng giữa người tiết kiệm(tức
ngườicho vay) và người vay(người sử dụng vốn) và ngân hàng có thể kiếm lời từ việc cung cấp dịch
vụ này. Tuy nhiên cần tốn nhiều chi phí cho các qui định và chi phí về hành chính cho ngân hàng
hơn khi giao dịch trênthị trường tiền tệ. Như vậy, khi bất cân xứng thông tin không quá nghiêm
trọng, thị trường tiền tệ có một lợi thế riêng biệt cung cấp vốn ngắn hạn hơn ngân hàng.
2. 1.2. Chi phí thuận lợi của thị trường tiền tệ.
Do phải đặt một phần tiền gửi dưới dạng dự trữ không lãi suất tại Cục dự trữ liên bang, ngân
hàng không thể đầu tư 100% trên mỗi USD tiền gửi. Nghĩa là ngân hàngsẽ trả lãi suất thấp hơn cho
người gửi tiền so với khi đem toàn bộ tiền gửiđi đầu tư.
Để giảm sức cạnh tranhgiữa các ngân hàng,năm 1930, các nhà làm luật đã đưa ra những quy
định vềtỉ lệ lãi suất vì họ cho rằng điều này sẽ làm mạng lưới các ngân hàng vững chắc hơn. Do
không có sự cạnh tranh mạnh mẽ, ngân hàng kiếm được nhiều lợi nhuận hơn từ các chi phí của
khách hàng. Đây là một sựbiện minh rằng một hệ thống ngân hàng khỏe mạnh có thể giúp một nền
kinh tế ổn định.
Nhờ vào qui định về thiết lập trần lãi suất huy động mà lợi nhuận của ngân hàng được đảm bảo.
Đạo luật Glass-Steagall năm 1933 ngăn cấm việc trả lãi trên tài khoản sec (tài khoản thanh toán) và
c giới hạn lãi suất trên tiền gửi. Giới hạn tỉ lệ lãi suất đặc biệt không có ảnh hưởng đến ngân hàng
cho đến cuối những năm 1950. Hình 11.1 cho thấy giới hạn này bắt đầu ảnh hưởng tới ngân hàng
vào cuối những năm 1979 và đầu những nhăm 1980 khi lạm phát đẩy lãi suất ngắn hạn lên trên giới
hạn mà ngân hàng có thể trả theo pháp định. Những người đầu tư rút tiền ra khỏi ngân hàng và đầu
tư vào các tài khoản chứng khoán trên thị trường tiền tệ được cung cấp bởi nhiều công ty môi giới
chứng khoán. Những nhà đầu tư mới này giúpthị trường tiền tệ phát triển nhanh chóng. Trần lãi suất

ngân hàng thương mại được bãi bỏ từ tháng 3 năm 1968, từ đó thị trường tiền tệ bán lẻ được hình
thành.
Hình 11.1 Lãi suất tín phiếu kho bạc 3 tháng và trần lãi suất tiền gửi tiết kiệm ở các NHTM.
Page 2
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
II. MỤC ĐÍCH THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Thông qua các công cụ của thị trường tiền tệ tạo điều kiện cho thị trường thứ cấp phát triển
nhanh chóng, từ đó giúp thị trường tiền tệ trở thành một nơi lý tưởng cho các công ty hoặc tổ chức
tài chính dự trữ thặng dư cho đến khi nào họ cần sử dụng. Tương tự mục đích trên, thị trường tiền tệ
là nguồn cung cấp cho các nguồn vốn có chi phí thấp cho các công ty, chính phủ và các trung gian
tài chính khi cần vốn trong ngắn hạn.
Phần lớn các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ thường không cố gắng kiếm một khoản lời cao.
Thay vào đó, họ xem thị trường tiền tệ như một nơi cất giữ các khoản chi tạm thời hơn là giữ tiền
mặt hay gửi tiền trong ngân hàng với lãi suất thấp. Họ cảm thấy các điều kiện ở thị trường tiền tệ
không thích hợp để đầu tư sinh lợi hoặc họ mong đợi lãi suất gia tăng nên không mua trái phiếu.
Việc nắm giữ tiền mặt thặng dư nhàn rỗi thường tốn nhiều chi phí cho các nhà đầu tư bởi số dư tiền
mặt không tạo ra thêm thu nhập cho nhà đầu tư. Tiền nhàn rỗi đó đại diện cho chi phí cơ hội của
việc không thu được thu nhập lãi suất.
Thị trường tiền tệ cung cấp phương tiện đầu tư cho vốn nhàn rỗi.Các nhà tư vấn đầu tư thường
giữ một số vốn trong thị trường tiền tệ để họ có thể hành động nhanh chóng tận dụng cơ hội đầu tư.
Hầu hết các quỹ đầu tư và các trung gian tài chính nắm giữ chứng khoán thị của trường tiền tệ để
đáp ứng việc đầu tư hoặc gửi tiền.Người bán chứng khoán trên thị trường tiền tệ thấy rằng thị
trường này cung cấp một nguồn vốn tạm thời với chi phí thấp. Bảng 11.1 cho thấy lãi suất có sẵn
trên các công cụ thị trường tiền tệ được bán bởi một loạt các công ty và các tổ chức. Ví dụ, các ngân
hàng có thể phát hành các quỹ liên bang để có được các nguồn vốn đáp ứng thiếu hụt trong việc dự
trữ ngắn hạn. Chính phủ tài trợ một phần lớn các khoản nợ của Mỹ với tín phiếu kho bạc…
Bảng 11.1 Mẫu lãi suất thị trường tiền tệ ngày 8 tháng 4 năm 2010
Công cụ Lãi suất (%)
Lãi suất cơ bản
Quỹ liên bang

Thương phiếu
Chứng chỉ tiền gửi 1 tháng (thị trường thứ
cấp)
Lãi suất đề nghị liên ngân hàng Lon don
Eurodollar
Tín phiếu kho bạc
3.25
0.19
0.23
0.23
0.45
0.30
0.16
Tại sao các công ty và Chính phủ Mỹ đôi khi cần nắm giữ lượng tiền mặt trong tay nhanh
chóng? Lý do là dòng tiền mặt vào và ra hiếm khi tương đồng với nhau. VD, doanh thu thuế của
Chính phủ thường có vào một khoảng thời gian nhất định trong năm nhưng các chi phí thì phát sinh
Page 3
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
quanh năm. Chính phủ có thể vay mượn các khoản vốn ngắn hạn và sẽ hoàn trả các khoản này khi
có các khoản thu thuế. Các doanh nghiệp cũng đối mặt với tình trạng doanh thu và chi phí phát sinh
tại các thời điểm khác nhau. Thị trường tiền tệ cung cấp một cách thức hiệu quả, tốn ít chi phí trong
việc giải quyết các vấn đề trên.
III. AI THAM GIA VÀO THỊ TRƯƠNG TIỀN TỆ
Có 2 dạng người tham gia vào thị trường tiền tệ là người cho vay và người đi vay. Tuy nhiên hầu
hết những người tham gia đều có thể vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Ví dụ, một ngân
hàng lớn sẽ vay trong thị trường tiền tệ bằng cách bán các hợp đồng chứng chỉ tiền gửi thương mại
lớn. Đồng thời, nó sẽ cho vay vốn ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể xác định
những người tham gia chính trên thị trường tiền tệ là Bộ Tài chính Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang, ngân
hàng thương mại, các doanh nghiệp, công ty đầu tư và chứng khoán, các cá nhân .
1. Bộ Tài Chính Mỹ (Bộ Ngân Khố)

Bộ Tài Chính là độc nhất vì nó luôn có nhu cầu vay mượn tiền trong khi không bao giờ dư thừa
để cho vay. Bộ Tài chính Mỹ là chủ thể đi vay lớn nhất trong tất cả chủ thể vay tiền trên toàn thế
giới. Nó phát hành tín phiếu kho bạc (thường được gọi là T-bill) và các chứng khoán khác phổ biến
với người tham gia thị trường tiền tệ khác. Phát hành các chứng khoán ngắn hạn cho phép chính phủ
huy động vốn cho đến khi thu thuế. Kho bạc cũng phát hành tín phiếu để xử lý những vấn đề phát
sinh.
2. Hệ thống dự trữ Liên Bang
Đại lý của Kho bạc trong việc phân phối của các chứng khoán kho bạc là Cục Dự trữ Liên
bang (FED). FED nắm giữ một lượng lớn trái phiếu chính phủ sẽ được bán ra nếu nó tin rằng cần
giảm lượng cung tiền. Tương tự như vậy, FED sẽ mua chứng khoán kho bạc nếu họ tin rằng cung
tiền nên được mở rộng. Chính trách nhiệm này của FED làm cho nó trở thành người tham gia có sức
ảnh hưởng nhất trong thị trường tiền tệ, có thể kiểm soát nền kinh tế thông qua nghiệp vụ thị trường
mở.
3. Ngân Hàng Thương Mại
Ngân hàng thương mại chiếm một tỷ lệ phần trăm chứng khoán chính phủ Mỹ chỉ đứng sau quỹ
lương hưu. Điều này một phần là do các quy định hạn chế các cơ hội đầu tư cho các ngân hàng. Cụ
thể, các ngân hàng đều bị cấm sở hữu chứng khoán rủi ro, như cổ phiếu hoặc trái phiếu doanh
nghiệp. Nhưng được phép sở hữu chứng khoán chính phủ, do rủi ro thấp và thanh khoản cao.
Ngân hàng cũng là nơi chính phát hành chứng chỉ tiền gửi (CDs), chấp nhận thanh toán của ngân
hàng, các quỹ liên bang, và các thỏa thuận mua lại. Ngoài việc sử dụng thị trường chứng khoán tiền
tệ để quản lý thanh khoản, nhiều ngân hàng thương mại còn giao dịch thay mặt khách hàng của họ.
4. Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp mua và bán chứng khoán trên thị trường tiền tệ. Những hoạt động này thường
được giới hạn đối với các tập đoàn lớn do có ảnh hưởng đến lượng lớn dollar. Như đã thảo luận ở
Page 4
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
trên, thị trường tiền tệ được sử dụng rộng rãi để các doanh nghiệp duy trì thặng dư vốn và để huy
động vốn ngắn hạn.
5. Công ty đầu tư và công ty chứng khoán
Các tổ chức tài chính khác tham gia vào thị trường tiền tệ được liệt kê trong Bảng 11.2.

Bảng 11.2: Thành phần tham gia trên thị trường tiền tệ
Thành phần Vai trò
Bộ Tài Chính Mỹ Bán trái phiếu kho bạc để tài trợ cho các khoản nợ quốc
gia
Hệ thống dự trữ Liên Bang Mua và bán trái phiếu kho bạc là nhằm kiểm soát cung
tiền
Ngân Hàng Thương Mại Mua trái phiếu chính phủ; bán chứng chỉ tiền gửi và cho
vay ngắn hạn; cung cấp tài khoản đầu tư cá nhân đầu tư
chứng khoán thị trường tiền tệ
Các doanh nghiệp Mua, bán chứng khoán ngắn hạn khác nhau để kiểm soát
lượng tiền mặt thường xuyên
Các công ty đầu tư Giao dịch với tư cách đại diện cho các tài khoản
Các công ty tài chính Cho vay tiền cá nhân
Các công ty bảo hiểm Duy trì tính thanh khoản cần thiết để đáp ứng nhu cầu
đột xuất
Quỹ hưu trí Duy trì các quỹ thị trường tiền tệ, sẵn sàng đầu tư vào cổ
phiếu và trái phiếu
Cá nhân Mua các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ
Các quỹ tương hỗ thị trường
tiền tệ
Cho phép nhà đầu tư nhỏ tham gia vào thị trường tiền tệ
bằng cách tập hợp các quỹ đầu tư của họ thành chứng
khoán thị trường tiền tệ mệnh giá lớn.
Các công ty đầu tư: Các công ty môi giới đa ngành lớn đang hoạt động trong thị trường tiền
tệ như: Ngân hàng Mỹ, Merrill Lynch, Barclays Capital, Credit Suisse và Goldman Sachs.
Chức năng chính của các đại lý này là để "tạo ra một thị trường" cho chứng khoán trên thị
trường tiền tệ bằng cách duy trì một danh mục tất cả hàng hóa để mua hoặc bán. Các doanh
Page 5
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
nghiệp này rất quan trọng đối với khả năng thanh khoản của thị trường tiền tệ vì chúng đảm

bảo rằng người bán hàng dễ dàng trao đổi chứng khoán của các công ty.
Công ty tài chính: Công ty tài chính huy động vốn trên thị trường tiền tệ sơ cấp bằng cách
bán thương phiếu. Sau đó, người tiêu dùng vay tiền để chi trả vào việc mua các hàng hóa lâu
bền như ô tô, tàu thuyền, hoặc sửa chữa nhà.
Các công ty bảo hiểm:Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn phải duy trì thanh khoản do
những nhu cầu về vốn không thể đoán trước của họ. Ví dụ, khi bốn cơn bão đánh vào Florida
năm 2004, các công ty bảo hiểm phải chi trả hàng tỷ đô la cho lợi ích bảo hiểm. Để đáp ứng
nhu cầu này, các công ty bảo hiểm bán một số chứng khoán trên thị trường tiền tệ của họ để
huy động tiền mặt. Trong năm 2010, ngành công nghiệp bảo hiểm nắm giữ cùng một lượng
chứng khoán kho bạc tương đương với các ngân hàng thương mại (196 tỷ $ so với $ 199 tỷ).
Quỹ hưu trí Quỹ hưu trí đầu tư một phần tiền mặt của họ trong thị trường tiền tệ để có thể
tận dụng cơ hội đầu tư mà họ nhận thấy trên thị trường chứng khoán hoặc trái phiếu. Như các
công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí phải có tính thanh khoản có khả năng đáp ứng nghĩa vụ của
mình. Tuy nhiên, vì nghĩa vụ của họ là gần như có thể dự đoán, do đó nắm giữ quá nhiều các
chứng khoán thuộc thị trường tiền tệ là không cần thiết.
6. Cá nhân
Lãi suất mà các ngân hàng áp dụng cho các khoản tiền gửi trở nên không hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư cá nhân dolạm phát tăng trong cuối những năm 1970. Cùng thời gian này, nhà môi giới
đã bắt đầu thúc đẩy các quỹ tương hỗ của thị trường tiền tệ, nơi nhận được lãi suất cao hơn.
Ngân hàng không thể ngăn cản một lượng lớn tiền mặt chạy đến các quỹ tương hỗ do quy định
giới hạn lãi suất họ có thể trả cho khoản tiền gửi. Để chống lại sự dịch chuyển tiền rakhỏi ngân
hàng, các nhà làm luật đã sửa đổi các quy định. Ngân hàng nhanh chóng tăng lãi suất để nỗ lực lấy
lại những khoản đầu tư cá nhân. Điều này giúp giảm sự chuyển dịch tiền sang các quỹ, nhưng các
quỹ tương hỗ của thị trường tiền tệ vẫn là một lựa chọn để đầu tư cá nhân phổ biến. Lợi thế của các
quỹ tương hỗ là họ cung cấp cho các nhà đầu tư với một lượng tiền mặt tương đối nhỏ để tạo thành
chứng khoán mệnh giá lớn.
IV. CÔNG CỤ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Sư đa dạng của các công cụ thị trường tiền tệ sẵn có để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham
gia thị trường. Chứng khoán này là hoàn hảo cho một nhà đầu tư này; chứng khoán khác có thể là
tốt hơn cho người khác. Trong phần này chúng ta sẽ nhận được một sự hiểu biết lớn hơn về đặc

điểm của chúng khoán thị trường tiền tệ và bằng cách nào những người tham gia thị trường tiền tệ
sử dụng chúng để quản lý tiền của họ.
1. Tín phiếu kho bạc
Bộ Tài chính Mỹ đưa ra một loạt các chứng khoán nợ để tài trợ cho các khoản nợ quốc gia.
Chứng khoán được nắm giữ rộng rãi và có tính thanh khoản cao nhất là tín phiếu kho bạc được bán
với kỳ hạn 28, 91 và 182 ngày. Các tín phiếu có mệnh giá tối thiểu là $ 1,000 cho đến năm 2008, lúc
đó mệnh giá mới là 100 $ được bán ra. FED đã thiết lập một quyền chọn mua trực tiếp giúp các cá
nhân có thể sử dụng để mua trái phiếu kho bạc qua Internetgiúp cho tín phiếu kho bạc được phổ
biến rộng rãi. Thay đổi này bắt đầu lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1998. Chính phủ không thực sự trả
Page 6
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
lãi suất tín phiếu kho bạc. Thay vào đó, chúng được phát hành với giá giảm so với mệnh giá (giá trị
lúc đáo hạn). Trái tức của nhà đầu tư chính là sự gia tăng giá trị của tín phiểu trong thời gian nó
được mua đến thời gian đáo hạn.
TÌNH HUỐNG
Chiết khấu của chứng khoán Kho bạc để trả lãi suất
Các chứng khoán trên thị trường tiền tệ thường không chi trả lãi mà thay vào đó họ sẽ phải
trả ít hơn so với giá trị thực tế của các chứng khoán này khi chúng đáo hạn. Chúng ta gọi đó
là chiết khấu. Đây là điều thường thấy ở các chứng khoán ngắn hạn, bởi vì chúng thường đáo
hạn trước khi tổ chức phát hành có thể kiểm tra và thực hiện lại việc chi trả tiền lãi cho
chúng.
Bảng 11.3 là bảng kết quả đấu giá các loại tín phiếu kho bac và được báo cáo trực tiếp
trên Web site của bộ tài chính. Nếu nhìn vào dòng đầu tiên ta có thể thấy được rằng tín phiếu
kỳ hạn 28 ngày mệnh giá 100$được bán với giá là 99.988722$. Điều này có nghĩa là với
1000$ chúng ta sẽ được chiết khấu thành 999.89$. Bảng trên còn có tỷ lệ % chiết khấu và tỷ
lệ % đầu tư.
Tỷ lệ % chiết khấu được tính như sau:
i
discount
= x

Trong đó: i
discount
: tỷ lệ chiết khấu hàng năm
P: giá mua
F: mệnh giá hoặc giá khi đáo hạn
n: số ngày còn lại đến khi đáo hạn
Chú ý đến một vài điểm đặc trưng của phương trình này. Đầu tiên, thu nhập được tính bằng
cách sử dụng mệnh giá ở mẫu số. Bạn sẽ thực sự phải trả ít hơn mệnh giá, bởi vì bạn bán
chúng như là công cụ chiết khấu, vì vậy giá trị bị đánh giá thấp. Thứ hai, khi tính thu nhập
trở lại thì sử dụng cách tính ngày là 360 ngày/năm (30 x 12). Nó cũng đánh giá thấp thu
nhập trở lại hơn so với việc sử dụng 365 ngày/năm khi tính toán.
Tỷ lệ % đầu tư được tính theo công thức sau:
i
investment
= x
Tỷ lệ % đầu tư đại diện chính xác hơn cho những gì mà người đầu tư nhận được khi
sử dụng số ngày thực tế của năm và đầu tư ban đầu đúng trong tính toán. Một lưu ý rằng khi
sử dụng cách tính tỷ lệ % đầu tư thì Bộ tài chính sử dụng số ngày thực tế của năm tiếp theo.
Page 7
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Có nghĩa rằng nếu năm nhuận thì phải tính 366 ngày/năm.
Số ngày
đáo hạn
Ngày phát
hành
Ngày đáo
hạn
Lãi suất
chiết
khấu

Lãi suất
đầu tư
Giá mua
mỗi $199
28 04/15/201
0
05/13/201
0
0.145 0.147 99.988722
91 04/15/201
0
07/15/201
0
0.155 0.157 99.960819
182 04/15/201
0
10/14/201
0
0.24 0.244 99.878667
28 04/08/201
0
05/06/201
0
0.16 0.162 99.997556
91 04/08/201
0
07/08/201
0
0.175 0.178 99.955764
Bảng 11.3: Kết quả đấu giá các hối phiếu gần đây

Ví dụ 11.1 : Tính tỷ lệ % chiết khấu và tỷ lệ % đầu tư.
Bạn nộp thầu không có sự cạnh tranh vào tháng 4/2010 mua 1 tín phiếu kho bạc mệnh
giá1000$ thời gian đáo hạn 28 ngày, bạn đang mua tín phiếu với giá 999,88722$. Tính tỷ lệ
% chiết khấu và tỷ lệ % đầu tư?
Bài giải
Tỷ lệ % chiết khấu
i
discount
= x = 0.00145 = 0.145%
Tỷ lệ % đầu tư
i
investment
= x = 0.00147 = 0.147%
Những tính toàn trên cho tỷ lệ % chiết khấu và tỷ lệ % đầu tư phù hợp với những báo cáo do
Bộ tài chính chỉ đạo cho Tín phiếu kho bạc đầu tiên ở bảng 11.3
Page 8
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Rủi ro: Tín phiếu kho bạc gần như không có rủi ro bởi vì khi Chính Phủhết tiềnChính phủ có
thể phát hành thêm tiền để mua lại chúng khi đến hạn. Rủi ro do thay đổi bất ngờ trong chỉ số
lạm phát cũng rất thấp vì chúng là những chứng khoán ngắn hạn. Thị trường công cụ tín
phiếu kho bạc phát triển là một thị trường rất sâu rộng và có tính thanh khoản cao. Thị
trường sâu rộng ở đây hiểu là thị trường có nhiều người mua và người bán khác nhau. Thị
trường có tính thanh khoản cao là thị trường mà chứng khoándễ dàng được mua bán một
cách nhanh chóng và chi phí giao dịch rất thấp. Những nhà đầu tư khi hoạt động trên thị
trường sâu rộng và có tính thanh khoản cao sẽ rất ít khi gặp rủi ro khi họ muốn thực hiện bán
các chứng khoán của họ ngay khi họ cần.
Đấu giá Tín phiếu kho bạcMỗi tuần, bộ tài chính sẽ công bố số lượng và những loại Tín
phiếu kho bạcsẽ được bán ra. Bộ Tài Chính chấp nhận sự đặt giá cao nhất. Những sự đặt giá
được chấp nhận sẽ được thưởng với mức lợi tức cao nhất.Những người tham gia đấu thầu sẽ
cạnh tranh theo chiều hướng tăng lên của lợi tức cho đến khi nó đạt được đến giá đề nghị.

Ngoài những sự đặt giá phải cạnh tranh, Bộ tài chính còn chấp nhận những sự đặt giá
không có tính cạnh tranh. Khi sự đặt giá canh tranh được chấp nhận, nhà đầu tư sẽ tuyên
bố số lượng chứng khoán họ muốn mua và giá chứng khoán mà họ có muốn trả. Ngược lại,
đặt giá không có tính cạnh tranh chỉ bao gồm số lượng chứng khoán mà nhà đầu tư muốn
mua thôi. Và họ sẽ được mua với giá giống như những người đấu giá có tính cạnh tranh với
nhau. Điều khác biệt rõ nhất giữa 2 hình thức đó là người đấu giá có tính cạnh tranh thì có
thể đấu giá thắng hoặc thua. Còn người đấu giá không có tính cạnh tranh thì được đảm bảo
lúc nào cũng mua được chứng khoán.
Vào năm 1976, Bộ tài chính đã chuyển đổi toàn bộ những phần chia khả mại của nợ liên
bang thành những chứng khoán ghi sổ, thay thế cho rất nhiều giấy mực. Trong hệ thống ghi
sổ, quyền sở hữu chứng khoán Bộ tài chínhchỉ được ghi nhận trong máy tính của Liên bang.
Việc ghi nhận điện tử như vậy đã thay thế cho những chứng khoán giấy, và làm giảm chi phí
phát hành chứng khoán Bộ tài chínhcũng như chi phí trong việc chuyển giao quyền sở hữu
khi nó được mua bán trên thị trường thứ cấp.
Việc đấu giá chứng khoán của Bộ tài chínhcó tính cạnh tranh và công bằng cao. Để đảm tính
cạnh tranh tốt, không một dealer nào được phép mua hơn 35% số lượng chứng khoán được
phát hành. Và chỉ có khoảng 40 dealer quan trọng được tham gia vào buổi đấu giá.
Lãi suất của Tín phiếu kho bạc: Tín phiếu kho bạcđược xem như là không có rủi ro. Do đó
lãi suất của nó cũng thuộc dạng thấp nhất trong nền kinh tế. Những nhà đầu tư nhận thấy
rằng trong vài năm, lợi nhuận thu được từ Tín phiếu không đủ để bù đắp sự thay đổi trong
sức muado lạm phát. Biểu đồ 11.2 diễn biến lãi suất của Tín phiếu Bộ tài chính và tỷ lệ lạm
phát từ năm 1973-2006. Rõ ràng rằng, Tín phiếu Bộ tài chính không phải là một kênh để đầu
tư nhưng nó là một kênh dự trữ nguồn vốn dư thừa vì nó hiếm khi nào theo kịp tỷ lệ lạm
phát.
Page 9
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Biểu đồ 11.2 Tỉ giá hối đoái Tín phiếu kho bạc và tỉ lệ lạm phát từ tháng 1 năm 1973 đến tháng
1 năm 2010
TÌNH HUỐNG: Cuộc đấu giá Tín phiếu Bộ tài chính
Vào các ngày thứ 5 trong tuần, Bộ tài chính sẽ công bố rằng có bao nhiêu tín phiếu sẽ

được bán với kỳ hạn 28 ngày, 91 ngày và182 ngày. Những người mua phải đặt giá đấu vào
ngày thứ 2 kế tiếp, và quyết định sẽ được đưa ra vào buổi sáng hôm sau. Bộ tài chính chọn
trúng thầu mức giá đấu là cao nhất.
Việc đấu giá chứng khoán của Bộ TC có tính cạnh tranh và công bằng cao. Để đảm tính cạnh
tranh tốt, không một dealer nào được phép mua hơn 35% số lượng chứng khoán được phát
hành. Và chỉ có khoảng 40 dealer quan trọng được tham gia vào buổi đấu giá.Vào năm 1991,
Salomon Smith Barney đã vi phạm quy định trên và vơ vét trên thị trường, làm cho người ta
phải hoài nghi về tính công bằng của cuộc đấu giá. Salomon đã mua 35% số lượng chứng
khoán với chính tên của mình bằng cách ra giá cao. Sau đó, Salomon đã mua thêm chứng
khoán với tên của những khách hàng của ông ta. Và thường là không có sự đồng ý của những
khách hàng này. Tiếp theo, Salomon lại mua lại những chứng khoán từ các khách hàng này.
Kết quả của những giao dịch này, Salomon đã vơ vét trên thị trường và trở thành nhà độc
quyền. Cuộc điều tra về Salomon đã vạch ra rằng trong quá trình đấu giá vào tháng 5 năm
1991, người môi giới này đã cố gắng để kiểm soát 94%, tương đương 11 tỷ USD được phát
hành. Theo sau sự việc này, ông John Gutfreund, chủ tịch của công ty, cùng với những người
điều hành cấp cao và Salomon đã phải từ chức. Từ đó, Bộ tài chính đã phải ban hành ra
những luật mới để đảm bảo tính cạnh tranh của thị trường.
Page 10
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
2. Nguồn vốn liên bang
Nguồn vốn liên bang là những nguồn vốn ngắn hạn được dịch chuyển giữa các định chế tài chính
với nhau, thường là trong khoản thời gian 1 ngày. Thuật ngữ “Nguồn vốn liên bang” rất dễ gây hiểu
nhầm. Nguồn vốn liên bang thực sự không có liên quan gì với chính phủ liên bang. Thuật ngữ đó
bắt nguồn từ việc nguồn vốn đó được nắm giữ bởi Ngân hàng dự trữ liên bang. Thị trường của
nguồn vốn liên bang bắt đầu từ những năm 1920, khi mà xuất hiện các ngân hàng thừa vốn cũng với
các ngân hàng thiếu vốn để cho vay. Lãi suất của việc vay những nguồn vốn này thường ngang với
lãi suất mà cục dự trữ liên bang tính trên các khoản vay chiết khấu.
Mục đích của Nguồn vốn liên bang Cục dự trữ liên bang đã ban hành tỉ lệ dữ trữ bắt buộc
tối thiểu mà các ngân hàng phải duy trì. Các ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ tiền gửi nhất
định tại Cục dự trừ liên bang nhằm hỗ trợ kịp thời cho các ngân hàng khi dự trữ của các ngân

hàng đó cạn kiệt. Các ngân hàng có thể vay ngay từ Cục dự trữ liên bang, nhưng việc này
không được khuyến khích. Vì thế, mặc dù lãi suất nguồn vốn liên bang thấp nhưng nó vẫn ít
được sử dụng.
Kỳ hạn của Nguồn vốn liên bang thường là những khoản đầu tư qua đêm. Các ngân hàng
sẽ phân tích nguồn dự trữ của mình trong mỗi ngày để quyết định là sẽ vay thêm hay cho vay
nguồn vốn của mình. Giả sử rằng một ngân hàng có nguồn dự trữ vượt trội là 50 triệu USD,
nó sẽ liên hệ với ngân hàng đối tác của nó để xem ngân hàng đó có cần tăng dự trữ ngày hôm
đó hay không. Ngân hàng thừa vốn sẽ bán nguồn vốn đó cho ngân hàng nào đưa ra lãi suất
tốt nhất. Một khi đạt được thoả thuận, ngân hàng thừa vốn sẽ chỉ thị cho Cụcdự trữ liên bang
ghi giảm tiền trong tài khoản của họ và ghi có vào tài khoản của ngân hàng thiếu vốn. Vào
ngày tiếp theo, nguồn vốn sẽ được chuyển về lại như ban đầu, và cơ chế cứ tiếp diễn như
vậy.Đa số các nguồn vốn vay liên bang không có tài sản đảm bảo. Điển hình là toàn bộ thoả
thuận đều được hình thành dựa trên sự thoả thuận trực tiếp giữa các ngân.
Lãi suất của Nguồn vốn liên bang lãi suất của Nguồn vốn liên bang được quyết định bởi
yếu tố cung cầu. Đây là một thị trường cạnh tranh nên các nhà phân tích phải theo dõi sát các
chỉ báo để thấy được điều gì đang xảy ra với lãi suất ngắn hạn. Lãi suất Nguồn vốn liên bang
được được thông báo trên báo chí là lãi suất có hiệu lực.
Cục dự trữ liên bang không thể điều khiển trực tiếp lãi suất của Nguồn vốn liên bang mà chỉ
có thể gián tiếp điều khiển lãi suất bằng cách điều chỉnh mức độ dự trữ tại các ngân hàng
trong hệ thống. Cục dự trữ liên bang có thể gia tăng số lượng tiền trong hệ thống tài chính
bằng cách mua chứng khoán. Nếu Cục dự trữ liên bang làm giảm nguồn dự trữ bằng cách
bán chứng khoán, thì lãi suất Nguồn vốn liên bang sẽ tăng lên. Mặc dù lãi suất này chỉ ảnh
hưởng đến một số ít các doanh nghiệp và người tiêu dùng, nhưng các nhà phân tích đều xem
nó như một chỉ số quan trọng để xác định hướng mà Cục dự trữ liên bang đang muốn nền
kinh tế hướng tới. Biểu đồ 11.3 so sánh lãi suất Nguồn vốn liên bang với lãi suất Tín phiếu
Bộ tài chính. Dễ nhận thấy được rằng 2 loại lãi suất này luôn gần xấp xỉ với nhau.
Page 11
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Biểu đồ 11.3: Tỉ giá hối đoái Nguồn vốn liên bang và tín phiếu kho bạc tháng 1 năm 1990 đến
tháng 1 năm 2010

3. Thỏa thuận mua lại
Dù hoạt động gần giống với Quỹ dự trữ liên bang, các tổ chức phi ngân hàng có thể thực hiện
hoạt đông thỏa thuận mua lại (Repos). Một công ty có thể bán các chứng khoán kho bạc trong thị
trường Repos nơi mà doanh nghiệp đồng ý mua lại các chứng khoán này vào 1 ngày cụ thể trong
tương lai. Hầu hết các thỏa thuận mua lại có kỳ hạn rất ngắn, phổ biến là từ 3 đến 14 ngày. Tuy
nhiên các thỏa thuận mua lại có kỳ hạn từ 1 đến 3 tháng cũng được giao dịch trên thị trường.
Sử dụng thỏa thuận mua lại:các thỏa thuận mua lại thường được thực hiện bởi những
người giao dịch chứng khoán chính phủ. Họ bán các chứng khoán cho ngân hàng cùng với
cam kết sẽ mua lại các chứng khoán này vào ngày tiếp theo. Điều này khiến các thỏa thuận
mua lại có tính chất của các khoản vay cầm cố ngắn hạn. Những người giao dịch chứng
khoán sử dụng thỏa thuận mua lại để quản lý khả năng thanh khoản của họ và kiếm lợi từ
những thay đổi kỳ vọng của lãi suất.
Cục dự trữ liên bang cũng sử dụng thỏa thuận mua lại trong việc điều hành chính sách tiền
tệ. Để thực hiện các điều chỉnh này, Fed sẽ mua hoặc bán các chứng khoán kho bạc trên thị
trường thỏa thuận mua lại. Kỳ hạn của các thỏa thuận mua lại của Cục dự trữ liên bang
không vượt quá 15 ngày.
Lãi suất của thỏa thuận mua lạiCác thỏa thuận mua lại được đảm bảo bởi các chứng khoán
kho bạc nên chúng là những khoản đầu tư ít rủi ro và có mức lãi suất khá thấp. Tuy vậy rủi ro
mất tiền vẫn có thể xảy ra, mặc dù khả năng này là rất hiếm.
4. Chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu
Page 12
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu là một chứng khoán do ngân hàng phát hành công nhận một
khoản tiền gửi với lãi suất và kỳ hạn xác định. Ngày đáo hạn của chứng chỉ tiền gửi được xác định
cụ thể, chứng chỉ tiền gửi là một chứng khoán có kỳ hạn, khác với tiền gửi thanh toán có thể rút ra
bất cứ lúc nào có nhu cầu. Chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu được có thể được mua bán trên thị
trường cho đến ngày đáo hạn.Chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu cũng được gọi là chứng khoản vô
danh, tức bất cứ người nào nắm giữ chứng khoán vày vào ngày đáo hạn sẽ được hoàn trả số tiền gốc
và lãi.
Kỳ hạn của chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu: Giá trị của chứng chỉ tiền gửi có thể

chiết khấu được từ 100 ngàn USD đến 10 triệu USD. Rất ít chứng chỉtiền gửi có thể chiết
khấu được có giá trị dưới 1 triệu USD. Sở dĩ công cụ này thường có giá trị lớn bởi các nhà
giao dịch đã thiết lập một lô giao dịch chứng chỉ tiền gửi từ 1 triệu USD. Một lôlà giá trị giao
dịch nhỏ nhất có thể giao dịch trên thị trường với mức phí môi giới thông thường, nếu giao
dịch giá trị nhỏ hơn một lô thì phí môi giới sẽ cao hơn.Chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu
được thường có kỳ hạn từ 1 đến 4 tháng. Một số có kỳ hạn 6 tháng, tuy nhiên loại với kỳ hạn
lớn hơn thì rất ít được giao dịch trên thị trường do các nhà giao dịch ít có nhu cầu với kỳ hạn
dài như vậy.
Lịch sử của chứng chỉ tiền gửi:năm 1961 Citibank là ngân hàng đầu tiên phát hành chứng
chỉ tiền gửi có giá trị lớn. Ngân hàng này cung cấp sản phẩm chứng chỉ tiền gửi có giá trị lớn
nhằm ngăn chặn xu hướng sụt giảm trong dài hạn của các khoản tiền gửi tại các ngân hàng.
Các doanh nghiệp thực hiện giảm đến mức tối đa số dư tiền mặt cần thiết cho hoạt động của
của doanh nghiệp và đầu tư phần vốn thặng dư vào các công cụ có tính chất an toàn và sinh
lợi được trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc. Sự hấp dẫn của chứng chỉ tiền gửi nằm
ở chỗ lãi suất của chúng ngang bằng với lãi suất thị trường. Tuy nhiên vẫn có một vấn đề nảy
sinh. Lãi suất mà các ngân hàng có thể chi trả cho chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn trong giới
hạn của quy luật Q (là luật của Cục dự trữ liên bang Mỹ, trước đây quy luật Q quy định mức
lãi suất tối đa của các khoản tiền gửi ở ngân hàng, hiện tại quy luật Q không còn tồn tại). Khi
lãi suất của các khoản chứng khoán thấp, quy luật Q không ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư
lên các chứng khoán này. Tuy nhiên, khi mức lãi suất tăng lên vượt lãi suất trần quy định ở
Quy luật Q, tức nhà đầu tư yêu cầu một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất trần thì các chứng
chỉ tiền gửi có kỳ hạn mất đi sức hút. Để đối phó, các ngân hàng bắt đầu phát hành các chứng
chỉ tiền gửi nước ngoài, nơi không bị áp lãi suất trần bởi quy định Q. Năm 1970, Quốc hội
Mỹ sửa đổi quy luật Q và không áp dụng quy luật này đối với các chứng chỉ tiền gửi có giá
trị trên 100 nghìn USD. Từ năm 1972, các chứng chỉ tiền gửi chiếm gần 40% tổng tiền gửi
của các ngân hàng. Hiện nay chứng chỉ tiền gửi là loại công cụ phổ biến thứ 2 trên thị trường
tiền tệ sau tín phiếu kho bạc.
Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi: Bảng 1.4 cho thấy mức lãi suất của chứng chỉ tiền gửi có
thểchiết khấu so với tín phiếu kho bạc. Mức lãi suất của chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu
được thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Mức lãi suất này thường tương đương với lãi

suất của các công cụ khác của thị trường tiền tệ bởi rủi ro của chúng là giống nhau. Các ngân
hàng lớn có thể đưa ra một mức lãi suất thấp hơn so với các ngân hàng khác bởi các nhà đầu
tư tin rằng chính phủ không thể để các ngân hàng lớn nhất nước bị phá sản, chính niềm tin
này làm cho các nghĩa vụ nợ của các ngân hàng lớn trở nên ít rủi ro hơn.
Page 13
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Biểu đồ 11.4: Lãi suất của Chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu và tín phiếu kho bạc tháng 1
năm 1990 đến tháng 1 năm 2010
5. Thương phiếu
Thương phiếu là khế ước trả tiền không có bảo đảm được phát hành bởi các doanh nghiệp, mà
thời gian đáo hạn không quá 270 ngày. Vì các chứng khoán này không được bảo đảm nên chúng chỉ
được phát hành bởi những tập đoàn lớn nhất và đượcđánh giá mức độ tín nhiệm cao. Lãi suất mà các
loại thương phiếu của công ty phản ánh mức độ rủi ro của công ty phát hành.
Điều khoản và việc phát hành: Thương phiếu luôn có thời gian đáo hạn gốc ít hơn 270
ngày. Điều này để tránh việc phải đăng ký chứng khoán phát hành với Ủy ban chứng khoán
và thị trường (SEC). (Để được miễn trừ việc đăng ký với SEC, các thương phiếu được phát
hành phải có thời gian đáo hạn gốc ít hơn 270 ngày và được dự định cho các giao dịch hiện
tại.) Thực tế, hầu hết thương phiếu được phát hành dựa trên nguyên tắc chiết khấucó thời
gian đáo hạn trong khoảng từ 20 đến 45 ngày.
Xấp xỉ 60% lượng thương phiếu được bán trực tiếp cho người. Phần dư còn lại được bán bởi
các đại lý trên thị trường thương phiếu. Một thị trường thứ cấp sôi động dành cho thương
phiếu hầu như không tồn tại. Nhà đại lý sẽ mua lại thương phiếu nếu người mua có một nhu
cầu cấp thiết về tiền mặt nhưng điều này hiếm khi xảy ra.
Lịch sử của thương phiếu: Kể từ những năm 1920thương phiếu được sử dụng dưới nhiều
hình thức khác nhau. Vào năm 1969, thị trường thắt chặt tiền tệ khiến cho các ngân hàng
nắm giữ các công ty phải phát hành thương phiếu để tài trợ cho các khoản vay mới. Để giữ
quyền kiểm soát mức cung tiền, Cục Dự trữ liên bang áp đặt các yêu cầu dự trữ đối với các
thương phiếuphát hành bởi ngân hàng vào năm 1970. Yêu cầu dự trữ này đã loại bỏ các lợi
thế lớn cho các ngân hàng trong việc sử dụng thương phiếu.
Việc sử dụng thương phiếu đã tăng lên đáng kể những năm đầu thập kỷ 80 vì việc gia tăng

chi phí vốn vay ngân hàng. Hình 11.5 là đồ thị lãi suất thương phiếu so với lãi suất cơ bản
ngân hàng trong giai đoạn tháng Giêng năm 1990 đến tháng 2 năm 2010. Thương phiếu dần
Page 14
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
trở thành một sự thay thế quan trọng đối với các khoản vay ngân hàng chủ yếu do chi phí của
nó thấp hơn.
Biểu đồ 11.5 Lãi suất thương phiếu so với lãi suất cơ bản từ 1990 – 2010.
Thị trường cho thương phiếu: Các tổ chức phi ngân hàng thường xuyên sử dụng thương
phiếu để tài trợ cho các khoản vay mà họ gia hạn cho khách hàng của họ. Ví dụ, công ty
General Motors Acceptance vay tiền bằng cách phát hành thương phiếu và sử dụng tiền để
cho vay đối với người tiêu dùng. Tương tự, GE Capital và Chrysler Credit sử dụng thương
phiếu để tài trợ cho các khoản vay cho người tiêu dùng. Tổng số công ty phát hành thương
phiếu thay đổi từ 600 đến 800, tùy thuộc vào mức lãi suất. Hầu hết các công ty này sử dụng
một trong khoảng 30 đại lý thương phiếu, những cầu nối giữa giữa người mua với người bán.
Thị trường này thường rất sôi động tại các trung tâm tiền tệ, ngân hàng lớn ở Thành phố New
York. Một số các tổ chức phát hành lớn của thương phiếu lựa chọn thực hiện phân phối
chứng khoán của họ với phương thứcphát hành trực tiếp. Theo phương thức này, các nhà
phát hành bỏ qua các đại lý trung gian và phát hành trực tiếp cho các nhà đầu tư thực sự và
tiết kiệm 0,125% phí môi giới.
Phần lớn các tổ chức phát hành thương phiếu đảm bảobằng một mức tín dụng tại một ngân
hàng. Nghĩa là trong trường hợp tổ chức phát hành không thể trả hết hoặc quay vòng thương
phiếu đáo hạn, các ngân hàng sẽ cho các công ty vay tiền trả cho mục đích này. Mức tín dụng
làm giảm rủi ro cho người mua thương phiếu và do đó cũng kéo giảm lãi suất Ngân hàng
cung cấp mức tín dụng hỗ trợ đồng ý tài trợ vốn trước đối với tổ chức phát hành khi cần để
trả hết các phiếu chưa được chi trả. Ngân hàng sẽ tính phí 0,5% đến 1% cho cam kết này. Tổ
chức phát hành sẽ trả phí này vì họ có thể tiết kiệm được hơn trong việc giảm chi phí lãi suất
do có mức tín dụng. Ngân hàng thương mại là những người mua ban đầu của các thương
phiếu. Ngày nay thị trường đã mở rộng đáng kể bao gồm các công ty bảo hiểm, các doanh
nghiệp phi tài chính, phòng tín thác ngân hang lớn, và các quỹ hưu trí của chính phủ. Các
công ty này bị thu hút bởi rủi ro mặc định tương đối thấp, đáo hạn ngắn, và lợi tức cao mà

thương phiếuđem lại.
Page 15
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Biểu đồ 11.6 Khối lượng thương phiếu được chi trả
Vai trò của Thương Phiếu bảo đảm bằng tài sản trong khủng hoảng tài chính.Thương
phiếu bảo đảm bằng tài sản (ABCP) là một loại đặc biệt của thương phiếu,nó đóng vai trò
lớn trong cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2008. ABCP là một loại chứng khoán ngắn
hạn có kỳ hạn trung bình của nó là 30 ngày với hơn một nửa số chứng khoáng có kỳ hạn
khoảng từ 1-4 ngày. ABCPs khác với những cổ phiếu thông thường ở điểm là nó được bảo
đảm bởi một số gói tài sản khác.
Từ năm 2004-2007, những tài sản này hầu như là những sự cầm cố được chứng khoán hóa.
Phần lớn những đơn vị bảo trợ cho những chương trình ABCP đều có mức đánh giá độ tín
nhiệm từ những công ty tài chính lớn, tuy nhiên, chất lượng của những tài sản tài sản thế
chấp này thường khó mà kiểm soát được. Quy mô của thị trường ABCP gần như gấp đôi kể
từ năm 2004 đến năm 2007. Năm 2007-2008, chất lượng của những món nợ dưới chuẩn từng
làm đảm bảo cho ABCP bị vạch trần gây sự thoái vốn trong ABCPs. Thị trường này không
có bất kỳ bảo hiểm tiền gửi nào để đảm bảo cho các khoản đầu tư này nên các nhà đầu tư cố
gắng bán chúng vào thị trường bão hòa. Vấn đề này lại lan rộng sang thị trường các quỹ
tương hỗ, nơi thành lập ra những người phát hành ABCP đã thực hiện lựa chọn là mở rộng
kỳ hạn với mức lãi suất thấp. Sự rút tiền ra khỏi những quỹ tương hỗ trong thị trường tiền tệ
đe dọa gây ra những lỗ hổng. Vào tháng 9 năm 2008, chính phủ phải thành lập chương trình
bảo đảm để tăng tính thanh khoản cho những ABCP mà họ nắm giữ và ngăn cản sự sụp đổ
của thị trường quỹ tương hỗ.
6. Chấp nhận thanh toán của Ngân hàng:
Chấp nhận thanh toán của ngân hàng là lệnh phải trả một số tiền cụ thể cho người cầm giấy vào
một ngày xác định. Được sử dụng từ thế kỉ 12, tuy nhiên, chúng không phải là một loại chứng khoán
chính trong thị trường tiền tệ cho đến khi khối lượng của thương mại quốc tế bùng nổ vào những
năm 1960. Chúng được sử dụng để tài trợ cho hàng hóa chưa được chuyển từ người bán sang người
mua. Ví dụ, giả sử như Builtwell Construction Company muốn mua một Xe ủi đất từ Komatsu ở
Page 16

NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Nhật Bản. Komatsu không muốn giao Xe ủi đất mà chưa nhận được tiền hàng còn Builtwell cũng
không sẵn lòng gửi tiền sang Nhật Bản trước khi nhận được hàng hóa. Một ngân hàng có thể can
thiệp bằng cách phát hành chấp nhận của ngân hàng nơi mà ngân hàng đóng vai trò là một người
thay thế cho người mua dựa vào uy tín trả nợ của ngân hàng.
Chấp nhận thanh toán của ngân hàng sẽ được thanh toán cho người giữ nó, chúng có thể được
mua bán cho đến khi giấy tờ đáo hạn. Chúng có thể được bán với một mức chiết khấu cơ bản giống
như thương phiếu và tín phiếu kho bạc. Những nhà môi giới trong thị trường sẽ giúpliên hệ cho
những công ty muốn chiết khấu một Giấy chấp nhận của ngân hàng với những công ty mong muốn
đầu tư vào Giấy chấp nhận thanh toán ngân hàng. Rủi ro hệ thống rất thấp do đó tỉ lệ lãi suất của
Chấp nhận ngân hàng cũng thấp.
7. Thị trường Eurodollars
Các hợp đồng trên thế giới đề nghị thanh toán bằng USD chiếm số lượng lớn vì sự ổn định của
đồng USD. Do đó, rất nhiều công ty và chính phủ chọn giữ đồng USD. Trước Chiến tranh thế giới
thứ 2, hầu hết những khoản tiền gửi được gửi ở những ngân hàng ở Trung tâm tiền tệ New York.
Tuy nhiên, hậu quả của Chiến tranh lạnh khiến các nhà đầu tư sợ rằng những khoản tiền gửi trên đất
Mỹ sẽ bị sung công. Một vài NH lớn ở London đã dựa vào cơ hội này để đưa ra đề nghị huy động
những khoản tiền gửi bằng đô la Mỹ trong những ngân hàng ở Anh. Những khoản tiền gửi này được
gọi là Eurodollars.Thị trường Eurodollar tiếp tục phát triển rất nhanh. Lý do cơ bản là những người
gửi tiền nhận được lợi nhuận cao hơn ở những khoản tiền gửi bằng Đô la Mỹ trong thị trường
Eurodollar cao hơn trong thị trường nội địa. Nguyên nhân vì các ngân hàng đa quốc gia không phải
tuân theo các quy định khắt khe của ngân hàng Mỹ. Họ sẵn lòng và có khả năng chấp nhận một sự
chênh lệch thấp giữa tỉ lệ lãi phải trả cho tiền gửi và tỉ lệ lãi kiếm được cho các khoản vay.
Thị trường liên ngân hàng ở London: Vài ngân hàng lớn ở London hoạt động như những
nhà môi giới trong thị trường Eurodollar liên ngân hàng. Những quỹ liên bang được ngân
hàng sử dụng để bù đắp tạm thời cho những khoản thâm hụt trong dự trữ của họ. Eurodollars
là một sự thay thế cho quỹ liên bang. Ngân hàng trên khắp thế giới mua và bán những các
khoản tiền tiền qua đêm trong thị trường. Tỉ lệ lãi suất được trả bởi ngân hàng khi mua quỹ là
lãi suất tiền gửi của thị trường liên ngân hàng London (LIBID). Các khoản tiền cho vay trên
thị trường thì áp dụng theo lãi suất cho vay liên ngân hàng London (LIBOR).Thị trường này

rất cạnh tranh vì nhiều ngân hàng tham gia vào thị trường. Sự chênh lệch giữa mức lãi suất
nhận tiền gửi và lãi suất cho vay hiếm khi vượt quá 0.125%. Tiền gửi Eurodollar là tiền gửi
có kỳ hạn, có nghĩa là họ sẽ ko được rút tiền trong một thời hạn cụ thể. Mặc dù thời hạn phổ
biến là qua đêm, nhưng vẫn có các kỳ hạn khác nhau.
Tỉ lệ lãi suất qua đêm LIBOR và quỹ liên bang thì gần xấp xỉ nhau vì chúng gần như là sự
thay thế hoàn hảo cho nhau. Nếu nhận thấy lãi suất liên bang cao hơn lãi suất qua đêm
LIBOR. Các ngân hàng cần vay tiền sẽ vay Eurodollars qua đêm, như vậy, có khuynh hướng
nâng cao lãi suất; các ngân hàng cho vay tiền thì sẽ cho vay các quỹ liên bang, vì thế có
khuynh hướng giảm lãi suất. Áp lực cung cầu này sẽ gây ra một sự điều chỉnh nhanh chóng
mà sẽ hướng hai loại lãi suất này gần với nhau hơn.Tại một thời điểm, hầu hết những món nợ
ngắn hạn với lãi suất điều chỉnh sẽ bị ràng buộc với lãi suất của tín phiếu kho bạc. Tuy nhiên,
thị trường Eurodollars thì quá rộng và sâu đến nỗi mà nó gần đây trở thành mức lãi suất
Page 17
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
chuẩn để so sánh với những mức lãi suất khác. Ví dụ, thị trường thương phiếu Mỹ hiện tại
công bố lãi suất dựa vào LIBOR hơn là dựa vào tỉ lệ lãi tín phiếu kho bạc.
Thị trường Eurodollar không còn giới hạn ở các ngân hàng London nữa, những người môi
giới sơ cấp trong thị trường duy trì những văn phòng trong các trung tâm tài chính lớn trên
thế giới.
Thị trường Euro và các đồng tiền tệ khác:Hiện nay, thị trường Eurodola là thị trường
chứng khoán ngắn hạn lớn nhất thế giới do sự phổ biến của dollar Mỹ để giao dịchtrên thế
giới. Tuy nhiên, thị trường không chỉ giới hạn với đồng đô la. Có thể có một tài khoản đồng
yên Nhật Bản được nắm giữ bởi một ngân hàng ở London hay New York. Ví dụ tài khoản sẽ
được gọi là một tài khoản Euroyen. Tương tự, bạn cũng có thể có tài khoản Euromark hoặc
Europeso là loại tiền mark và peso tương ứng, và được nắm giữ tại các ngân hàng khác trên
thế giới. Thị trường tài chính sẽ sẵn sàng và sẵn lòng tạo một chứng khoán đặc biệt nếu
người tham gia thị trường có nhu cầu và sẵn sàng trả tiền.
V. SO SÁNH CÁC CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1. Lãi suất
Biểu đồ 11.7 so sánh lãi suất trên rất nhiều các công cụ thị trường tiền tệ. Điểm đáng chú ý nhất

của đồ thị này là việc tất cả các công cụ thị trường tiền tệ có khuynh hướng biến động cùng nhau rất
chặt chẽ theo thời gian vì chúng đều có tính rủi ro rất thấp và thời gian ngắn hạn. Tất cả đều có thị
trường sâu rộng và định giá khá cạnh tranh và chúng thay thế tốt cho nhau. Do đó, nếu một lãi suất
tạm thời chuyển dịch khác với những công cụ khác, các nhân tố cung và cầu thị trường sẽ sớm có sự
điều chỉnh khiến lãi suất trở về xấp xỉ với các công cụ khác.
Biểu đồ 11.7 Tỉ giá hối đoái của chứng khoán thị trường tiền tệ từ năm 1990 đến 2010
2. Tính thanh khoản
Page 18
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Tính thanh khoản của chứng khoán là sự nhanh chóng, dễ dàng và ít chi phí để có thể được
chuyển đổi thành tiền mặt. Thông thường, sự phát triển của thị trường thứ cấp quyết định tính thanh
khoản của nó. Ví dụ, thị trường thứ cấp cho tín phiếu kho bạc được mở rộng và phát triển tốt. Kết
quả là, trái phiếu kho bạc có thể được chuyển đổi thành tiền mặt một cách nhanh chóng và chi phí
thấp. Ngược lại không có thị trường thứ cấp phát triển tốt cho thương phiếu vì phần lớn các chủ sở
hữu của thương phiếu nắm giữ chúng cho đến khi đáo hạn. Người môi giới sẽ tính phí tương đối
caotrong trường hợp một nhà đầu tư nắm giữ thương phiếu cần bán chúng để huy động tiền mặt.
Sự phát triển của thị trường thứ cấp không quá quan trọng đối với các chứng khoán thị trường
tiền tệ như đối với thị trường chứng khoán dài hạndo thị trường chứng khoán ngắn hạn có thời gian
ngắn. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư mong muốn can thiệp vào tính thanh khoản, họ tìm kiếm một
trung gian để cung cấp tính thanh khoản nơi mà nó đã không tồn tại trước đó. Đây là một chức năng
của các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ.
Bảng 11.4 tóm tắt các loại chứng khoán thị trường tiền tệ và sự phát triển của thị trường thứ cấp.
Bảng 11.4: Chứng khoán trên thị trường tiền tệ và các thị trường của chúng
Các loại chứng
khoán trên thị
trường tiền tệ
Người phát hành Người mua Kỳ hạn thông
thường
Thị
trường

thứ cấp
Trái phiếu Kho bạc Chính phủ Mỹ Người tiêu dùng và
công ty
4,13 và 26 tuần Rất tốt
Nguồn vốn liên bang Các ngân hàng Các ngân hàng 1 đến 7 ngày Không có
Thỏa thuận mua lại Các doanh nghiệp và
ngân hàng
Các doanh nghiệp
và ngân hàng
1 đến 15 ngày Tốt
Chứng chỉ tiền gửi Tiềncủa ngân hàng
trung ương
Doanh nghiệp 14 đến 120
ngày
Tốt
Thương phiếu Công ty tài chính và
doanh nghiệp
Doanh nghiệp 1 đến 270 ngày Kém
Hối phiếu có sự chấp
nhận chi trả của ngân
hàng
Các ngân hàng Doanh nghiệp 30 đến 180
ngày
Tốt
Các khoản tiền gửi
Eurodola
Ngân hàng ngoài
nước Mỹ nhận các
khoản tiền gửi bằng
đôla Mỹ

Các doanh nghiệp,
chính phủ và ngân
hàng
1 ngày đến 1
năm
Kém
3. Chứng khoán của thị trường tiền tệ được định giá như thế nào
Page 19
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Giả sử bạn làm việc cho Merrill Lynch và công việc của bạn là đưa ra giá chào mua của tín
phiếu kho bạc trong tuần. Làm thế nào bạn sẽ chọn được giá để bạn đưa ra?
Bước đầu tiên là xác định lợi tức mà bạn yêu cầu. Giả sử chọn mức lãi suất 2%, đang chào mua
những chứng khoán có thời gian đáo hạn một năm. Tín phiếu của chúng ta sẽ được trả $1,000 khi
đến hạn, vì vậy để tính toán sẽ trả bao nhiêu hôm nay chúng ta tìm hiện giá của $1,000 theo công
thức:
 TIN TỨC TÀI CHÍNH
Lãi suất thị trên thị trường tiền tệ
Nhật báo Wall Street Journal đã xuất bản các mức lãi suất của các công cụ tài chính khác nhau
trọng mục “Giá tiền”. Bốn mức lãi suất được đề cập đến nhiều nhất bao gồm:
Lãi suất cơ bản: là cơ sở để các ngân hàng quy định lãi suất kinh doanh, là một chỉ số của chi
phí đi vay từ các ngân hàng
Lãi suất liên ngân hàng: lãi suất đối với các khoản vay qua đêm trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng, đây là một chỉ số nhạy cảm thể hiện chi phí đi vay từ các ngân hàng khác và quan
điểm của chính sách tiền tệ
Lãi suất trái phiếu kho bạc: lãi suất của trái phiếu kho bạc Mỹ.
Lãi suất của các công ty cho vay thế chấp mua nhà liên bang: là một chỉ số thể hiện chi phí
tài trợ cho việc mua nhà ở .
Trong ví dụ trên, với giá trị tương lai là $1000, lãi suất là 0.02, và thời hạn nắm giữ đến khi đáo
hạn là 1 thì hiện giá cần tìm là
Lưu ý nếu giá của chứng khoán khi lãi suất tăng: Vì mẫu số lúc này lớn hơn nên hiện giá của

chứng khoán sẽ giảm. Ví dụ, nếu lãi suất tăng lên đến 3%, giá trị của chứng khoán sẽ rớt xuống còn
$970.87.
Phương pháp chiết khấu các giá trị tương lai về hiện tại được sử dụng để định giá phần lớn các
chứng khoán trên thị trường tiền tệ.
VI. KẾT LUẬN
Chứng khoán trên thị trường tiền tệ là các công cụ ngắn hạn với kỳ hạn ngắn hơn 1 năm.
Những chứng khoán này bao gồm trái phiếu kho bạc, thương phiếu, nguồn vốn liên bang, thị
trường tiền tệ liên ngân hàng, thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu được ngân
hàng chấp thuận và đồng Eurodola.
Chứng khoán trên thị trường tiền tệ được dùng để tích trữ vốn tới khi cần đến. Lợi nhuận
kiếm được trên những khoản đầu tư này thường không cao do có rủi ro thấp và tính thanh
khoản cao.
Người tham gia trên thị trường tiền tệ thực hiện mua và bán các loại chứng khoán. Kho bạc
Mỹ, ngân hàng thương mại, doanh nghiệp và cá nhân đều được hưởng lợi bằng cách nắm giữ
các khoản đầu tư ngắn hạn với rủi ro thấp.
Page 20
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Lãi suất của tất cả các chứng khoán trên thị trường tiền tệ có xu hướng xấp xỉ nhau. Lãi của
trái phiếu kho bạc thường thấp nhất do chúng được mặc địn là không rủi ro, kế đến là hối
phiếu có sự chấp nhận chi trả của ngân hàng và giấy chứng nhận tiền gửi vì chúng được đảm
bảo bởi khả năng thanh toán của các ngân hàng chấp nhận.
Page 21
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Page 22
NHÓM 8- CAO HỌC K23- ĐÊM 5 GV: PGS TS BÙI KIM YẾN
Page 23

×