Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Áp dụng án treo trong xét xử các vụ án hình sự ở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.75 KB, 27 trang )


1

LỜI NÓI ĐẦU
Trong Luật hình sự Việt Nam, án treo là một chế định vô cùng quan trọng,
thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, mang tính giáo dục cao, thể hiện tính
khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, góp phần đấu tranh phòng chống
và trừng trị tội phạm một cách tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội. Áp dụng chế định án treo một cách đúng đắn sẽ góp phần vào
việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính nhân văn, khoan hồng của
pháp luật, trừng trị tội phạm nhưng đồng thời tạo điều kiện cho người phạm tội hòa
nhập cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm trở thành người có ích cho xã
hội. Ngược lại, nếu áp dụng chế định án treo sai, áp dụng một cách tùy tiện, không
có cơ sở pháp luật thì chế định án treo mất đi ý nghĩa của nó, không góp phần vào
đấu tranh phòng chống tội phạm, không khuyến khích và tạo điều kiện cho người
phạm tội hòa nhập vào cuộc sống. Áp dụng án treo sai sẽ làm mất đi ý nghĩa trừng
trị và giáo dục người phạm tội.
Chế định án treo đã được Luật hình sự qui định từ lâu, nhưng trong thực tiễn
áp dụng thì luôn có nhiều điều bất cập. Ở các Tòa án khác nhau và ở mỗi thẩm
phán khác nhau, việc áp dụng án treo còn nhiều khác biệt. Có không ít trường hợp,
do không hiểu cặn kẽ về án treo nên hội đồng xét xử áp dụng không đúng và cho
người hưởng án treo một cách tùy tiện và không ít trường hợp lợi dụng qui định
của pháp luật về án treo để vi phạm pháp luật. Cũng có những trường hợp đáng
cho hưởng án treo nhưng hội đồng xét xử không áp dụng.
Vì vậy, việc hiểu qui định của pháp luật về án treo cho đúng và việc áp dụng
án treo vào thực tiễn xét xử như thế nào cho chính xác luôn là vấn đề thời sự và
cần thiết. Chính lý do trên, tôi chọn đề tài:
“Áp dụng án treo trong xét xử các vụ án hình sự
ở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên – Thực trạng và giải pháp”
làm tiểu luận cuối khóa cho lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính.




2

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁN TREO
1.1 Khái quát chung về án treo
Án treo trong luật hình sự Việt Nam đã có từ rất lâu, qua nhiều lần thảo luận
ở nhiều thời điểm khác nhau, có nhiều ý kiến đề nghị bỏ qui định này vì nó không
khác mấy so với hình thức cải tạo không giam giữ, nhưng cuối cùng qui định về án
treo cũng được giữ lại và ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa
đổi bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt BLHS).
Trong hệ thống pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến nay, chưa có một
định nghĩa cụ thể về án treo. Trong những thời điểm cụ thể, định nghĩa về án treo
được qui định trong những văn bản dưới luật, trong các văn bản hướng dẫn thi
hành. Theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, hướng dẫn xét xử trong việc áp dụng các qui định trong phần
chung của BLHS năm 1985, thì án treo được coi là “một biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện”.
1.1.1 Án treo nhìn từ góc độ pháp luật
Bộ luật hình sự không có định nghĩa cụ thể thế nào là án treo. Tại Điều 60
BLHS qui định về án treo như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt
tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến
năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối
hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục

người đó.

3

3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được
quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử
thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
giám sát và giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử
thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”.
Từ những qui định trên, dưới góc độ pháp luật ta có thể định nghĩa án treo
như sau: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, kèm theo
một thời gian thử thách nhất định, được áp dụng đối với người bị xử phạt hình phạt
không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, nếu xét thấy không cần áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội.
1.1.2 Án treo nhìn từ góc độ văn hóa: án treo là một nét đẹp trong cách ứng
xử. Đó là sự tha thứ, nhưng có điều kiện. Nó thể hiện tính nhân đạo, nhân văn
trong cách cư xử, trừng trị cái ác nhưng cũng biết tha thứ nếu họ thấy được lỗi lầm
và biết ăn năn hối cải. Án treo thể hiện tính bao dung cao quí cả người Việt Nam,
sẵn sàng dang rộng tay dìu dắt người lầm lỗi để hướng họ trở thành người lương
thiện và có ích cho xã hội.
1.1.3 Án treo nhìn từ góc độ kinh tế: Án treo là biện pháp đem lại hiệu quả
kinh tế cao vì nhà nước không phải tốn khoản kinh phí cho việc giam giữ người
phạm tội và người phạm tội được ở ngoài xã hội sẽ có khả năng lao động để tạo ra
của cải vật chất.
1.1.4 Án treo nhìn từ góc độ xã hội: Án treo thể hiện tính tích cực nhiều
hơn tiêu cực. Người phạm tội được cho hưởng án treo, đa số đều có những hành vi

xử sự đúng pháp luật và mang tính đạo đức trong thời gian thử thách, điều đó góp
phần làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Cho người phạm tội hưởng án treo,
nhà nước sẽ không giải quyết một số chính sách xã hội kèm theo như: ai sẽ chăm

4

sóc con chưa thành niên của người phạm tội, giải quyết việc làm khi người phạm
tội chấp hành án xong,
1.2 Quan điểm của Đảng về thi hành pháp luật hình sự
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị
quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Công
cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực
hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với
công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư
pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với công tác tư pháp liên quan đến thi hành án hình
sự, Đảng ta xác định tiếp tục cải cách tư pháp theo các hướng như: Kiện toàn các
tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết
định của Toà án; chấn chỉnh các trại giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân;
Chuẩn bị các điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý tập trung thống
nhất công tác thi hành án; Nghiên cứu việc thành lập cảnh sát tư pháp để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ phiên toà, phục vụ công tác thi hành án, dẫn giải bị can, bị cáo,
quản lý các trại giam…
1.3. Những qui định của pháp luật về án treo
Cho đến giai đoạn hiện nay, hầu như chế định về án treo chỉ được qui định
tại Điều 60 BLHS và ở các văn bản dưới luật cụ thể Nghị quyết số 01/2007/NQ-
HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp
hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt và Nghị định 61/2000/NĐ-CP
ngày 30/10/2000 của Chính phủ qui định về thi hành án treo. Để hiểu rõ hơn những
qui định của pháp luật liên quan đến chế định án treo, chúng ta cùng nhau tìm hiểu
một số nội dung cơ bản của pháp luật về án treo:

5

1.3.1 Bản chất pháp lý của chế định án treo
Từ những qui định của pháp luật về án treo, qua định nghĩa về án treo,
chúng ta có thể hiểu được bản chất pháp lý của án treo. Bản chất này có thể tóm
gọn như sau: án treo là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được
thể hiện trong việc Tòa án miễn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội đã
được tuyên trong bản án với mức hình phạt tù có thời hạn không quá 03 năm và ấn
định thời gian thử thách từ 01 đến 05 năm đối với người phạm tội khi có đầy đủ
căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự qui định.
1.3.2 Những điều kiện để áp dụng án treo
Việc áp dụng án treo và thực tế xét xử phải được Tòa án cân nhắc một cách
kỹ lưỡng, tuân thủ nghiêm chỉnh vào các qui định trong luật hình sự, không được
áp dụng tùy tiện theo cảm tính chủ quan. Muốn áp dụng chế định án treo thì phải
căn cứ vào qui định tại Điều 60 BLHS. Chỉ khi nào có những căn cứ được qui định
tại Điều 60, đồng thời cân nhắc vào từng thời điểm đấu tranh phòng chống tội
phạm, yêu cầu chính trị tại địa phương, mà áp dụng chế định án treo cho chính xác.
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 60 BLHS thì muốn áp dụng án treo phải có
các điều kiện sau:
1.3.2.1 Điều kiện về hình phạt
Người bị kết án chỉ có thể được hưởng án treo nếu người đó bị phạt tù không
quá 03 năm, không phân biệt người đó phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Tuy pháp luật không qui định, nhưng
thực tiễn xét xử ở Tòa án các cấp thì đa số các trường hợp cho hưởng án treo là

những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, số ít còn lại là phạm tội nghiêm trọng.
Luật chỉ giới hạn hình phạt tối đa, không giới hạn hình phạt tối thiểu để áp
dụng án treo. Hình phạt tối đa, qua từng thời kì cũng có qui định khác nhau nhằm
phục vụ công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tránh việc áp dụng án treo
trong những trường hợp không cần thiết. Giới hạn tối đa để được áp dụng án treo,
theo BLHS năm 1999 (có sửa đổi bổ sung năm 2009) là không quá 3 năm tù, giới
hạn theo BLHS năm 1985 là không quá 05 năm tù.

6

1.3.2.2 Điều kiện về nhân thân người phạm tội
Để cho một người được hưởng án treo thì trước hết người đó phải có nhân
thân tốt, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước, thực hiện tốt nghĩa vụ
công dân, không tiền án, không tiền sự, lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng (có thể
nghiêm trọng), gây thiệt hại không lớn, sau khi phạm tội đã ăn năn hối cải, khắc
phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho người bị hại, tự nguyện sửa chữa thiệt hại,
tích cực giúp đỡ cơ quan tiến hành tố tụng điều tra và phát hiện tội phạm.
Không phải bắt buộc đủ tất cả các tình tiết trên thì mới cho được hưởng án
treo. Các tình tiết trên là những tình tiết dự trù chung, tuy nhiên để cho hưởng án
treo thì người phạm tội có càng nhiều tình tiết trên thì càng tốt. Có trường hợp
người phạm tội chỉ cần có hai tình tiết ở trên là có thể cho hưởng án treo, nhưng
cũng có nhiều trường hợp người phạm tội đã hội đủ nhiều tình tiết trên nhưng
không thể cho họ được hưởng án treo. Bởi vì khi xem xét về nhân thân người phạm
tội, Tòa án phải xem xét một cách toàn diện tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân
của người phạm tội, thái độ của người phạm tội sau khi phạm tội, kết hợp với yêu
cầu phòng chống tội phạm, nhiệm vụ chính trị tại địa phương để xem xét có cần
thiết áp dụng hình phạt tù giam hay cho họ hưởng án treo.
1.3.2.3 Điều kiện về các tình tiết giảm nhẹ
Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để cho hưởng án treo gần giống như áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ để xét xử dưới khung hình phạt hoặc chuyển sang tội

danh khác với khung hình phạt nhẹ hơn. Các tình tiết giảm nhẹ là một căn cứ quan
trọng để Tòa án cân nhắc trong quá trình xét xử xem có áp dụng hay không áp
dụng án treo đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội không có tình tiết giảm
nhẹ, hoặc có nhưng không có ý nghĩa đáng kể thì Tòa án không thể cho người
phạm tội được hưởng án treo. Các tình tiết giảm nhẹ để xem xét áp dụng án treo có
thể là các tình tiết được qui định tại khoản 1 hoặc cũng có thể là các tình tiết được
qui định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.



7

1.3.2.4 Về mặt ảnh hưởng của người phạm tội đối với xã hội
Tùy trường hợp, Hội đồng xét xử áp dụng tiểu mục 6.1 mục 6 tại Nghị quyết
số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản
án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt (sau đây viết tắt
Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007): xét thấy nếu không bắt người
phạm tội đi chấp hành hình phạt tù thì người đó không gây nguy hiểm cho xã hội
cũng như ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đó có thể là
trường hợp người phạm tội ít nghiêm trọng, lỗi vô ý, ăn năn hối cải
1.3.3 Thời gian thử thách của án treo
1.3.3.1 Khái quát chung về thời gian thử thách
Án treo khác với các loại hình phạt khác là Tòa án ấn định một thời gian thử
thách đối với người bị kết án, đó là qui định có tính bắt buộc nhằm ràng buộc
người bị kết án phải tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh bản án, tự răn đe mình.
Thời gian thử thách của án treo là một khoảng thời gian mà Tòa án ấn định để thử
thách người bị kết án được hưởng án treo, nếu hết thời gian đó mà người bị kết án
không phạm tội mới, thì hình phạt tù mà Tòa án đã tuyên đối với người bị kết án sẽ
không phải thi hành. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách mà người bị kết án

lại phạm tội mới, thì ngoài việc chấp hành hình phạt đối với tội phạm mới, người
bị kết án còn phải chấp hành hình phạt mà tòa án đã tuyên nhưng cho họ hưởng án
treo
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị Tòa án xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản
nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Nếu trong hạn 12 tháng
kể từ ngày tuyên án mà A không phạm tội mới thì A không phải chấp hành hình
phạt 06 tháng tù đã tuyên. Nếu A phạm tội mới trong thời gian 12 tháng thử thách
từ ngày tuyên án, thì Tòa án xử tội phạm mới sẽ buộc A chấp hành hình phạt tội
phạm mới đồng thời phải chấp hành hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án trước đó đã
tuyên.

8

Theo qui định tại khoản 1 Điều 60 BLHS và tại tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị
quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 thì thời gian thử thách đối với người
được hưởng án treo từ một năm đến năm năm. Điều đó có nghĩa là thời gian thử
thách không được dưới một năm và không quá năm năm.
1.3.3.2 Cách tính thời gian thử thách
Cách tính thời gian thử thách, BLHS không có qui định, mà được thể hiện
trong văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Cụ thể được qui định tại
tiểu mục 6.5 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 qui định:
“Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án
treo”
Hướng dẫn này là hướng dẫn đang có hiệu lực và đang được áp dụng vào
thực tế xét xử ở Tòa án các cấp hiện nay. Hướng dẫn trên có nghĩa là: nếu Tòa án
cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo, thì thời gian thử thách được
tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm; nếu Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án
treo nhưng cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày
tuyên án phúc thẩm.
1.3.3.3 Những điều kiện người bị kết án phải tuân thủ trong thời gian thử

thách
Những điều kiện này là những đòi hỏi có tính chất bắt buộc về mặt pháp lý
mà người được hưởng án treo phải chấp hành trong thời gian thử thách. Chỉ khi
nào người được hưởng án treo đã thực hiện đầy đủ những đòi hỏi này, thì người
được hưởng án treo mới được Tòa án miễn chấp hành hình phạt tù và được qui
định cụ thể tại khoản 2 và 3 Điều 60 BLHS như: Phải chịu sự giám sát giáo dục
của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi
người đó thường trú. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung
là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
được quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.



9

1.3.4 Quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo
Quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo không được qui định trong
Bộ luật hình sự 1985 và 1999, nhưng lại được qui định trong Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 và Nghị định 61/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 của Chính phủ qui định về thi hành án treo. Cụ thể như sau: Chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước; Ghi chép đầy đủ các nội dung quy định
trong sổ theo dõi người được hưởng án treo và nộp lại cho người trực tiếp giám sát,
giáo dục khi hết thời gian thử thách; Người được hưởng án treo được rút ngắn thời
gian thử thách khi có đủ các điều kiện pháp luật qui định
1.3.5 Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo
phạm tội mới trong thời gian thử thách
Theo qui định tại khoản 5 Điều 60 BLHS, nếu người được hưởng án treo mà
phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành
hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo qui dịnh
tại Điều 51 BLHS. Qui định này có khác so với qui định trước đây của BLHS

1985: người phạm tội mới chỉ bị tổng hợp hình phạt khi phạm tội mới do lỗi vô ý
và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do lỗi cố ý. BLHS 1999 (có sửa đổi, bổ sung năm
2009) qui định chỉ cần người được hưởng án treo mà phạm tội mới thì Tòa án sẽ
tổng hợp hình phạt theo qui định Điều 51 BLHS mà không cần phân biệt lỗi vô ý
hay cố ý, không phân biệt bị phạt tù hay không hình phạt tù. Qui định này có tính
nghiêm khắc hơn so với BLHS 1985, sẽ có tác dụng hơn trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm hiện nay.








10

CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
2.1 Đặc điểm kinh tế- xã hội của Thành phố Long Xuyên
Thành phố Long Xuyên là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của tỉnh An
Giang, có vị trí địa lý - kinh tế đặc biệt quan trọng đối với tỉnh An Giang và các
tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mặt khác Long Xuyên là đô thị nằm trên
trục hành lang kinh tế đô thị quốc gia và quốc tế, là đầu mối giao thương hàng hóa
trong tỉnh và khu vực, có nhiều nhà máy chế biến xuất khẩu với nhiều mặt hàng
như: gạo, cá, hàng may mặc, vật liệu xây dựng, rau quả đóng hộp…; có đường
quốc lộ và đường sông thông suốt đến các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long và nước bạn Campuchia.
Với lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, cùng với truyền thống đoàn

kết, cần cù, năng động, sáng tạo, những năm qua Đảng bộ và nhân dân Long
Xuyên đã đoàn kết nhất trí, phát huy nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ của các ngành, các
cấp, tập trung mọi nguồn lực để xây dựng, phát triển Thành phố xứng đáng với vai
trò và vị trí là trung tâm kinh tế - chính trị của tỉnh An Giang và đạt được những
kết quả đáng kể.
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang nói chung và ở
Thành phố Long Xuyên chưa đồng đều, đời sống bộ phận không nhỏ dân cư vẫn
còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, nhất là ở những vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào Khơme, trình độ dân trí còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp chiếm tỷ lệ
cao, những tác động xấu của nền kinh tế thị trường đến người dân như tâm lý tham
lam, hám lợi, nhu cầu vật chất ngày càng cao, muốn có nhiều tiền tiêu xài nhưng
lười lao động hoặc nghề nghiệp không ổn định, muốn làm giàu bằng mọi cách kể
cả bằng các việc làm phi pháp trong bộ phận dân cư. Đây chính là nhân tố thúc đẩy
bộ phận dân cư tham gia vào con đường phạm tội làm cho tình hình vi phạm pháp
luật, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội gia tăng.


11

2.2 Kết quả áp dụng án treo thời gian qua
2.2.1 Tình hình chung
Theo số liệu báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2012 của Ngành tòa án
nói chung và tỉnh An Giang cũng như tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên
đã nêu cụ thể về kết quả đã đạt được trong công tác của Ngành, cũng như về công
tác xét xử án hình sự, trong đó có việc cho hưởng án treo. Ở đây, tác giả muốn đề
cập đến số liệu án treo như sau:
Tính từ ngày 01/10/2011 đến ngày 30/9/2012, số bị cáo bị phạt tù cho hưởng
án treo thể hiện:
- Toàn ngành Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự quân khu, khu vực đã xét
xử sơ thẩm tổng số 67.369 vụ với 122.960 bị cáo, trong đó xử phạt tù cho hưởng

án treo 25.458 bị cáo (tỷ lệ 20,7%)
Trong 25.458 bị cáo được cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì có 488 bị cáo
có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (tỷ lệ 1,91%)
- Tòa án nhân dân tỉnh An Giang trong năm 2012 xét xử sơ thẩm 92 vụ với
101 bị cáo, trong đó có 03 vụ xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo với 03 bị cáo;
xét xử phúc thẩm 159 vụ với 161 bị cáo, trong đó có 8 vụ xử phạt tù cho hưởng án
treo với 08 bị cáo.
- Tòa án nhân dân Tp.Long Xuyên trong năm 2012 xét xử sơ thẩm 107 vụ
với 181 bị cáo, trong đó xử phạt tù cho hưởng án treo 15 vụ với 24 bị cáo, đã
không có kháng cáo, kháng nghị các trường hợp cho hưởng án treo.
Nhìn chung, trong năm qua việc cho hưởng án treo đều được các Hội đồng
xét xử xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, áp dụng đúng pháp luật. Tỷ lệ án treo không
đúng bị hủy, sửa giảm gần 50% so với năm 2011 và chỉ chiếm tỷ lệ 0,25% trên
tổng số các bị cáo được Tòa án cho hưởng án treo.
2.2.2 Những trường hợp cho hưởng án treo không đúng và nguyên nhân
sai trong thời gian qua
Tuy thời gian gần đây, lượng án hình sự được xét xử áp dụng án treo có
giảm đáng kể và ít bị kháng cáo, kháng nghị nhưng thực tế vẫn còn tồn tại những

12

trường hợp cho hưởng án treo không đúng qui định pháp luật hoặc không chính
xác. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng xét xử khi
đánh giá kết quả công tác xét xử hàng năm của ngành Tòa án. Có thể dẫn chứng
một số trường hợpcho hưởng án treo không đúng và chỉ ra nguyên nhân sai sau
đây:
2.2.2.1 Đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, dẫn đến quyết định cho bị cáo được hưởng án treo không đúng
Để rút kinh nghiệm trong trường hợp này, chúng ta xem lại nội dung vụ án
đã xảy ra năm 2011: bị cáo Hoàng Văn Thảo, Hoàng Duy Hợp, Đỗ Văn Tú cùng

các cổ động viên khác đã lợi dụng việc cổ vũ bóng để vi phạm pháp luật. Trong đó,
Thảo và Hợp giữ vai trò chính, thực hiện tội phạm rất tích cực, chuẩn bị sẵn pháo
và phát cho các cổ động viên, hò hét, chửi bới, kính động các cổ động viên gây rối
trật tự công cộng, ném gạch đá, vỏ chai, khiêu khích, đập phá tài sản của người đi
đường; cản trở người thi hành công vụ, đập phá xe của Cảnh sát, đèn tín hiệu giao
thông, vòi bơm xăng…Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại lên trên 29 triệu đồng. Như
vậy, các bị cáo đã phạm nhiều tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại khoản
02 Điều 245 BLHS, hành vi phạm tội diễn ra trong thời gian dài, tại nhiều địa điểm
khác nhau, gây thiệt hại tài sản của công dân, xâm phạm nghiêm trọng đến an toàn
công cộng, trật tự công cộng. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 02 Điều 245 và
khoản 01 Điều 143 BLHS để xử phạt Hoàng văn Thảo, Hoàng Duy Hợp – mỗi bị
cáo 18 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, 12 tháng tù về tội “Hủy hoại tài
sản”. Tổng hợp hình phạt 02 tội là 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Đỗ Văn
Tú bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án
treo theo khoản 02 Điều 245 BLHS.
Việc xét xử các bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt quy định đã là nhẹ, đồng thời lại cho các bị cáo hưởng án treo là không đánh
giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, là gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm.


13

2.2.2.2 Chưa xác định đúng nhân thân của bị cáo
Có thể điển hình vụ án được xét xử vào tháng 7 năm 2012 như sau: Võ
Hoàng Tiếng có hành vi đánh nhau đã bị Cơ quan Công an ra Quyết định xử phạt
hành chính. Một tháng sau, Tiếng lại có hành vi vi phạm tội “Cố ý gây thương
tích” và bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 01 năm 06 tháng tù. Tuy vậy, Tòa án cả hai
cấp đều không xác minh về lời khai của bị cáo là đã có tiền sự. Từ đó, Tòa án cấp
phúc thẩm đã cho hưởng án treo (vì không có tiền án, tiền sự) như vậy là không

đúng quy định của pháp luật.
2.2.2.3 Đủ điều kiện cho hưởng án treo nhưng không cho treo
Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung vụ án đã được đưa ra xét xử cuối năm
2012: Phạm Văn Tuyến có giấy phép lái xe ô tô, nhưng đã điều khiển xe ô tô
không làm chủ được tốc độ khi tránh xe mô tô đi ngược chiều, gây tai nạn chết hai
người. Về phía người bị hại, điều khiển xe mô tô không có bằng lái xe, không làm
chủ để mất lái, bất ngờ lao vào bên phải đầu xe ô tô ở phần đường của xe ô tô. Như
vậy, trong vụ án này có lỗi hỗn hợp, đồng thời bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều
tình tiết giảm nhẹ: Tự thú, thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại và người bị hại có
lỗi. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 02 năm tù nhưng cho hưởng án
treo là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng bị cáo đã gây tai
nạn làm chết 02 người là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để không cho Tuyến
được hưởng án treo là không đúng.
2.2.2.4 Nhận thức chưa đúng về án treo
Coi án treo như là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, do đó vì muốn
cho hưởng treo nên đáng lẽ phải xử mức án cao thì lại xử phạt mức án thấp để tạo
điều kiện cho hưởng án treo. Hoặc, khi không cho hưởng án treo được thì giảm
hình phạt tù một cách thiếu căn cứ.
Chẳng hạn như trường hợp sau: Bị cáo Ma Văn Dương đã có 01 tiền án về
tôi “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nhưng lại tiếp tục phạm tội “Cưỡng
đoạt tài sản” và bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án 36 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo
theo điểm d khoản 2 Điều 135 BLHS. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng

14

cấp kháng nghị, đề nghị không cho Dương hưởng án treo vì nhân thân xấu. Tòa án
cấp phúc thẩm đã không cho Dương hưởng án treo nhưng giảm hình phạt cho bị
cáo từ 36 tháng tù xuống 12 tháng tù.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm không cho Ma Văn Dương hưởng án treo là
đúng, nhưng lại xử phạt Dương 12 tháng tù là mức hình phạt quá thấp so với mức

thấp nhất của khung hình phạt quy định. (Khoản 02 Điều 135 quy định phạt tù từ
03 năm đến 10 năm). Trong khi đó, Dương được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy
định tại điểm b, p khoản 01 và 02 Điều 46; nhưng lại bị áp dụng tình tiết tăng nặng
quy định tại điểm g khoản 01 Điều 48 BLHS. Đối trừ đi thì Dương chỉ còn 01 tình
tiết giảm nhẹ ở khoản 01 Điều 46 BLHS. Việc áp dụng Điều 47 BLHS để xử phạt
Dương dưới khởi điểm của khung hình phạt như vậy là không đúng pháp luật.
2.2.2.5 Cho treo sai theo hướng nặng hơn
Cũng do nhận thức án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù mà đã
có nhiều trường hợp Tòa án “quên mất” việc áp dụng các loại hình phạt khác nhẹ
hơn hình phạt tù được quy định tại Điều 28 BLHS như: Cảnh cáo, phạt tiền (là
hình phạt chính), cải tại không giam giữ, trục xuất.
Trong trường hợp các bị cáo tham gia thực hiện tội phạm với vai trò thứ yếu,
bị rủ rê, lôi kéo, phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ… (Ví dụ:
Trong một vụ án đánh bạc có nhiều bị cáo tham gia, Tòa án đã phân hóa vai trò và
xác định một số bị cáo chủ mưu cầm đầu để xử phạt tù là đúng, số còn lại đều cho
hưởng án treo, như vậy cũng là không đúng. Cần phân hóa cho một số bị cáo bị
phạt tù, có nhân thân tốt, đủ điều kiện được hưởng án treo, một số bị cáo có vai trò
thấp hơn thì phạt cải tạo không giam giữ, cảnh cáo hoặc phạt tiền. Như vậy, vừa
phân hóa được tội phạm vừa áp dụng đúng pháp luật và tỷ lệ án treo sẽ không cao.
2.3 Một số vƣớng mắc trong thực tiễn xét xử án hình sự áp dụng án treo
Nhìn chung Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn
áp dụng qui định Điều 60 BLHS qua Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày
02/10/2007, nhưng trên thực tiễn khi áp dụng trong công tác xét xử án hình sự vẫn
còn gặp vướng mắc chưa được hướng dẫn thống nhất trong cách áp dụng, cụ thể:

15

Theo quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS thì người nào được hưởng án treo
mà phạm tội mới trong thời gian thử thách (không phân biệt tội cố ý hay vô ý) thì
đều bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước rồi tổng hợp với

hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của BLHS.
Việc quy định như vậy cũng tương đối là rõ ràng, song vấn đề đặt ra ở đây là
có phải bất cứ trường hợp nào mà một người đã được hưởng án treo lại phạm tội
trong thời gian thử thách thì tòa án không thể cho họ được hưởng án treo một lần
nữa không? Thực tiễn xét xử hiện nay, chúng ta vẫn thường cho rằng nếu bất kỳ ai
mà phạm tội trong thời gian thử thách thì đều không được hưởng án treo một lần
nữa, theo tác giả nhận thức như vậy cũng chưa phải là đúng, vì có nhiều trường
hợp người phạm tội trong thời gian thử thách nhưng là loại tội do vô ý, chứ không
phải do cố ý, nếu chúng ta cứ cho rằng họ phạm tội trong thời gian thử thách để
làm căn cứ quyết định áp dụng hình phạt tù giam mà không dám cho họ hưởng án
treo một lần nữa là việc vận dụng quá“cứng” và máy móc. Tác giả cho rằng kể cả
họ có phạm tội trong thời gian thử thách nhưng đó là tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng nhưng do vô ý và có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì chúng ta vẫn có thể cho họ
được hưởng án treo một lần nữa và tổng hợp như trường hợp tổng hợp hình phạt
của cải tạo không giam giữ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 là:
“a/ nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là
tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình
phạt chung không được quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba
mươi năm đối với hình phạt tù có thời hạn”.
Thực tế có nhiều trường hợp một người đang được hưởng án treo, sau đó lại
phát hiện trước đó họ có hành vi phạm một tội khác mà hành vi này xảy ra trước
khi có bản án xét xử cho người phạm tội được hưởng án treo. Trong trường hợp
này nếu người đó lại bị xét xử thì có thể xảy ra hai trường hợp có thể người đó bị
áp dụng hình phạt tù hoặc có thể được cho hưởng án treo một lần nữa, thì vấn đề
tổng hợp hình phạt trong trường hợp này được thực hiện như thế nào và đặc biệt là
tổng hợp các bản án xét xử cho người phạm tội được hưởng án treo với nhau. Đây

16

là vấn đề đang có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng: trong

trường hợp một người đã được Tòa án cho hưởng án treo sau đó lại bị xét xử về
hành vi phạm tội xảy ra trước khi có bản án đó và lại được Tòa án cho hưởng án
treo một lần nữa thì Tòa án không được tổng hợp các bản án. Trong trường hợp
này, cả hai bản án xét xử cho người bị kết án được hưởng án treo đều song song
tồn tại và người bị kết án đồng thời phải chấp hành cả hai bản án.
Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần lưu ý tới hướng dẫn của Nghị quyết
số 01/HĐTP ngày 08/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn tại điểm 2 mục IV đó là:
“… Nếu trong thời gian thử thách người được hưởng án treo lại bị phạt tù
về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và được hưởng án treo thì tùy trường hợp,
Tòa án có thể cho hoặc không cho hưởng án treo một lần nữa”
Như vậy nếu Tòa án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết
án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp
hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo. Nếu cho người bị
kết án được hưởng án treo một lần nữa, thì Tòa án tổng hợp hình phạt tù của hai
bản án. Trong trường hợp này cần chú ý là chỉ khi hình phạt chung của cả hai bản
án không vượt quá năm năm tù (đối với Bộ luật hình sự năm 1985, còn đối với
khoản 1 Điều 60 BLHS năm 1999 là ba năm tù) thì mới cho hưởng án treo và thời
gian thử thách chung không được dưới một năm, không được quá năm năm và
không được ít hơn mức hình phạt chung.
Cho tới nay, BLHS 1999 (có sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã được thi hành
hơn mười năm, song vẫn chưa có văn bản hay Nghị quyết nào thay cho hướng dẫn
nêu trên, do vậy theo tác giả cho rằng Nghị quyết 01/HĐTP ngày 08/10/1990 vẫn
được vận dụng trong hoạt động xét xử và như vậy một người được hưởng án treo
nhưng phạm tội trong thời gian thử thách cũng như một người đang chấp hành một
bản án cho hưởng án treo nhưng lại bị xét xử về một hành vi phạm tội trước đó,
vẫn có thể cho họ được hưởng án treo một lần nữa và vẫn tổng hợp theo quy định

17


tại Điều 51 BLHS, với điều kiện mức hình phạt của cả hai bản án không quá ba
năm tù.
Một vấn đề nữa chưa rõ ràng và bất lợi cho người phạm tội đó là: Theo quy
định tại Điều 50, 51 BLHS thì khi người phạm tội được áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ thì nếu họ phạm tội mới, thì nếu hình phạt mới cũng là hình phạt
cải tạo không giam giữ hoặc là hình phạt tù thì khi tổng hợp hình phạt họ đều được
trừ đi thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, sau đó mới quy đổi
thời gian cải tạo không giam giữ mà họ chưa chấp hành theo quy định cứ ba ngày
cải tạo không giam giữ thành một ngày tù để tổng hợp.
Trong khi đó những người được hưởng án treo nhưng phạm tội trong thời
gian thử thách thì lại không được trừ đi thời gian mà họ đã chấp hành bản án cho
họ được hưởng án treo, thậm chí có nhiều trường hợp đã chấp hành xong toàn bộ
thời gian được hưởng án treo, chỉ còn vài ngày là hết thời gian thử thách, song họ
vẫn bị chuyển toàn bộ mức hình phạt án treo của bản án trước thành hình phạt tù
giam để tổng hợp. Theo tác giả đây là những quy định rất bất lợi cho bị cáo có
phần trái với quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự là “thời gian đã chấp hành hình
phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung…”. Do
vậy, để bảo đảm công bằng cũng cần có hướng dẫn thời gian chấp hành hình phạt
án treo mà họ đã chấp hành ở bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình
phạt chung.











18

CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ÁP DỤNG ÁN TREO TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN ĐẾN NĂM 2020
3.1 Phƣơng hƣớng
Theo yêu cầu đổi mới, thời gian qua ngành tư pháp đã có những bước đổi
mới mang tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng hoạt động. Để thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có việc hoàn thiện chính sách, pháp
luật hình sự là một yêu cầu bức thiết nhằm đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị, coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và
thủ tục tố tụng tư pháp; giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm, để từ đó hạn chế việc
cho hưởng án treo không đúng.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lƣợng áp dụng án treo
Để thực hiện được phương hướng trên, cũng như để hoạt động xét xử án
hình sự, trong đó có việc áp dụng án treo ngày càng chính xác hơn, đòi hỏi các cơ
quan tiến hành tố tụng phải đổi mới cả về chất lượng và cơ cấu tổ chức. Ngoài ra,
về mặt lập pháp, cần hoàn chỉnh hơn nữa các qui định về án treo, đặc biệt là cần có
hướng dẫn kịp thời về các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng của Tòa án nhân dân
tối cao.
3.2.1 Hoàn thiện qui phạm pháp luật về án treo
Như đã trình bày tại mục 2.3 tiểu luận này, để khắc phục những bất cập và
vướng mắc như trên tác giả kiến nghị cần sớm sửa đổi BLHS theo hướng:
- Cần quy định bổ sung rõ việc tổng hợp giữa hình phạt cho hưởng án treo
với hình phạt tù giam trong điều 51 BLHS, như quy định về việc tổng hợp và quy
đổi hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt tù giam tại Điều 50 BLHS, cụ
thể: Điểm b Điều 50 quy định “nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam

giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành

19

hình phạt tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành
một ngày tù để tổng hợp hình phạt chung…” Như vậy, theo tác giả tại khoản 2
Điều 51 BLHS cần bổ sung “Trong trường hợp nếu hình phạt của bản án trước là
án treo thì hình phạt án treo của bản án trước được chuyển thành án tù giam để
tổng hợp với hình phạt của bản án mới rồi quyết định hình phạt chung của cả hai
bản án”.
- Cần bổ sung cách tính thời gian thử thách tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình
sự như hướng dẫn tại các điểm a, b, c, d tiểu mục 6.5 mục 6 của Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007.
- Cần bỏ hướng dẫn tại tiểu mục 6.3 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-
HĐTP ngày 02/10/2007 vì hướng dẫn như vậy là bất lợi cho bị cáo, và trái với quy
định của Hiến pháp và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tránh
trường hợp như hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự với người đánh bạc
theo hình thức chơi số đề, mặc dù đã có rất nhiều ý kiến không đồng tình nhưng
vẫn được áp dụng một thời gian dài mới được sửa đổi, gây bất lợi cho rất nhiều
người.
3.2.2 Nâng cao chất lượng hoạt động xét xử
Hiện nay trong các cơ quan tư pháp, chỉ có cán bộ trong ngành Tòa án là
được đào tạo tương đối bài bản. Hoạt động tuyển dụng đã áp dụng hình thức thi
tuyển đầu vào và chỉ áp dụng cho các sinh viên chính qui. Để được bổ nhiệm thẩm
phán, bắt buộc các cán bộ trong ngành Tòa án phải qua lớp đào tạo nghiệp vụ xét
xử do Học viện tư pháp tiến hành. Đây là bước đột phá nhằm nâng cao chất lượng
xét xử, góp phần vào việc xét xử được chính xác, giúp cho việc áp dụng án treo
ngày càng chính xác hơn. Với việc làm trên, hoạt động của ngành Tòa án dần dần
đi vào ổn định và nâng cao chất lượng công tác xét xử . Bên cạnh đó, ngành Tòa án
cần tạo điều kiện cho thẩm phán trao đổi nghiệp vụ xét xử với nhau thông qua các

đợt tập huấn nghiệp vụ, đưa ra những trường hợp áp dụng án treo không chính xác
hoặc sai để trao đổi trong toàn ngành rút kinh nghiệm chung. Đối với những thẩm
phán xét xử có tỷ lệ án bị hủy, sửa cao (ví dụ bị hủy trên 1,16% số án giải quyết)

20

thì kiên quyết không tái bổ nhiệm và phải đưa đi đào tạo lại; nếu thẩm phán nào
đạt yêu cầu thông qua đào tạo lại thì tiến hành thủ tục tái bổ nhiệm lại, không đạt
thì không tái bổ nhiệm.
Đối với từng cá nhân thẩm phán khi xét xử án hình sự cần phải thường
xuyên rèn luyện, học hỏi cập nhật văn bản hướng dẫn mới để áp dụng xét xử đúng
pháp luật, trong đó có việc áp dụng án treo. Cụ thể đòi hỏi ở người thẩm phán cần
phải:
Thứ nhất, nhận thức đúng về án treo.
Trước hết, phải khẳng định “án treo” không phải là một hình phạt. Pháp luật
hình sự của nước ta chưa bao giờ coi “án treo” là một loại hình phạt. Trong các đạo
luật hình sự của nước ta ban hành từ sau Cách mạng tháng tám đến nay đều không
quy định loại hình phạt “án treo”. BLHS gần đây nhất là BLHS năm 1999 quy định
“các hình phạt” tại Điều 28 (Chương V: Hình phạt) gồm có 7 hình phạt chính, 7
hình phạt bổ sung, hoàn toàn không có “án treo”.
“Án treo” chỉ được quy định ở Điều 60 của BLHS trong Chương VIII: Thời
hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, thời hạn chấp hành hình phạt. Và
tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18.10.1990, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đã định nghĩa về án treo như sau: “Án treo là miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện, tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết
giảm nhẹ, Tòa án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt tù
nếu trong thời gian thử thách người đó không phạm tội mới”.
Như vậy, “án treo” chỉ với nghĩa là “miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện” chứ không có khái niệm „tù treo” với tính chất là một loại hình phạt nhẹ hơn
loại hình phạt tù. Đã có Thẩm phán hiểu sai và cho rằng án treo là một loại hình

phạt, cho nên đã sử dụng sai thuật ngữ trong bản án, như “tù giam”, “tù treo”.
Thứ hai, áp dụng đầy đủ quy định của pháp luật và nắm vững những hướng
dẫn về án treo.
* Phân biệt quy định tại Điều 60 với quy định tại Điều 45 và Điều 61 của
BLHS.

21

- Vấn đề cơ bản được quy định tại Điều 45 BLHS là những căn cứ (lý do) để
quyết định hình phạt.
- Điều 60 BLHS quy định về những căn cứ (lý do) để cho hưởng án treo, đó
là “… Căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách…”. Để xác định “không cần phải bắt chấp hành hình phạt
tù” là phải xác định được con người đó đang ở đâu, làm gì, ai quản lý… và nếu
không bắt họ chấp hành hình phạt tù thì không nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời
với việc cho hưởng án treo, Tòa án phải giao người đó cho cơ quan Nhà nước,
chính quyền địa phương … quản lý, giáo dục.
Do vậy, khi đưa ra quyết định, Hội đồng xét xử phải cân nhắc về mức hình
phạt sao cho phù hợp với quy định của pháp luật dựa vào những căn cứ quy định
tại Điều 45 BLHS; sau đó mới xem xét đến các điều kiện cho hưởng án treo và
phải nhấn mạnh đến nhân thân của người bị kết án, nếu không bắt họ đi chấp hành
hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu
trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tức là, hành vi phạm tội của bị cáo đáng phải xử phạt 3 năm tù thì xử phạt
03 năm tù. Đáng phải xử trên 03 năm tù thì phải xử trên 03 năm tù, không nên gò
bó, lệ thuộc vào việc cho hưởng án treo mà đáng lẽ phải xử trên 3 năm tù lại kéo
xuống 3 năm để cho hưởng án treo khi không có cơ sở. Hoặc ngược lại, đáng lẽ chỉ
đáng xử phạt 01 năm hay 18 tháng tù, nhưng vì muốn cho hưởng án treo mà đã
tăng lên 02 năm, 03 năm tù rồi cho hưởng án treo.

- Điều 61 BLHS quy định về những trường hợp được hoãn chấp hình phạt tù
như: “Bị cáo bị bệnh nặng; Bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi; Bị cáo là người lao động duy nhất trong gia đình…”. Tuy vậy, do
không phân biệt với quy định tại Điều 60 BLHS, nên có một số Hội đồng xét xử đã
căn cứ vào những tình tiết này để cho bị cáo được hưởng án treo, như vậy là không
đúng.

22

* Nắm vững 04 điều kiện khi cho hưởng án treo được hướng dẫn tại tiểu
mục 6.1 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007.
* Nắm vững việc ấn định thời gian thử thách được hướng dẫn tại tiểu mục
6.2 và 6.4 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nêu trên và điểm 1 Công văn số
99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân tối cao, đặc biệt chú ý
trường hợp ấn định thời gian thử thách đối với người bị kết án đã bị tạm giam.
Thứ ba, thấy được hậu quả pháp lý của án treo.
- Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 thì: Công
chức bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị
buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Do đó, Tòa án
cũng không nên vì sợ tỷ lệ án áp dụng cho hưởng án treo cao mà lại không mạnh
dạn cho người có đủ điều kiện được hưởng án treo.
- Theo quy định của Điều lệ Đảng thì: Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo
không giam giữ trở lên phải khai trừ ra khỏi Đảng. Và, như tác giả đã đề cập ở
phần trên, trong các loại hình phạt quy định tại Điều 28 BLHS thì không có “án
treo”.
Vì thế, căn cứ vào hai quy định nêu trên thì có thể hiểu là người bị kết án
phạt tù mà được hưởng án treo thì có thể không bị buộc thôi việc và không bị khai
trừ ra khỏi Đảng. Đây cũng là nguyên nhân mà Tòa án ít ra áp dụng hình phạt cải
tạo không giam giữ đối với cán bộ, đảng viên.

3.2.3 Cải cách cơ cấu tổ chức
Hiện nay trong các cơ quan tiến hành tố tụng, chỉ có cơ quan điều tra là
được cơ cấu về mặt tổ chức theo hướng mở rộng ra các cơ quan điều tra, mỗi cơ
quan điều tra phụ trách một lĩnh vực chuyên môn cụ thể, còn về cơ cấu tổ chức của
ngành Tòa án và Viện kiểm sát vẫn chưa có gì đổi mới. Vấn đề này cần làm theo
hướng sau:
Đối với ngành Tòa án, cần triển khai và tiến hành thực hiện đề án thành lập
tòa án khu vực theo đúng kế hoạch được Bộ Chính trị thông qua, mỗi Tòa án khu

23

vực sẽ phụ trách vài huyện nhất định. Nếu thành lập được các Tòa án khu vực, sẽ
đảm bảo hoạt động của Tòa án được độc lập, không bị chi phối bởi các cấp hành
chính. Mặt khác, lập Tòa án khu vực sẽ bảo đảm cho công tác xét xử được chuyên
sâu, có điều kiện trao đổi chuyên môn nghiệp vụ giữa những người làm công tác
xét xử với nhau.
Về biên chế, cần tăng cường thêm, đảm bảo sao cho mỗi thẩm phán giải
quyết trung bình 6 vụ/tháng, vì tỉ lệ hiện nay thì mỗi thẩm phán giải quyết trên 10
vụ/tháng. Với tỉ lệ giải quyết như trên thì thẩm phán không đủ thời gian để nghiên
cứu chuyên sâu. Tăng cường biên chế nhằm hạ tỉ lệ giải quyết án, giúp thẩm phán
có thời gian đầu tư nghiên cứu hồ sơ, văn bản pháp luật từ đó góp phần nâng cao
chất lượng giải quyết án nói chung, xét xử án hình sự nói riêng, trong đó có áp
dụng án treo được đúng đắn hơn.
Ngoài ra, đối với Viện kiểm sát, cần có cơ cấu và tổ chức lai theo hướng
thành Viện công tố, tức chỉ đảm nhận về mảng truy tố, bỏ chức năng kiểm sát. Có
như thế, hoạt động của cơ quan truy tố mới được nâng cao, đảm bảo tính chuyên
sâu, truy tố những hành vi với tội danh chính xác, đề nghị áp dụng hình phạt, áp
dụng án treo được chính xác.
3.3. Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp với chính quyền nhà nƣớc ở địa
phƣơng trong công tác quản lý, xác nhận tiến bộ của ngƣời đƣợc hƣởng án

treo
Tuy pháp luật có qui định việc giám sát theo dõi người bị kết án cho hưởng
án treo là thuộc về trách nhiệm của chính quyền địa phương hoặc nơi công tác của
người bị kết án nhưng chưa đầy đủ. Do đó, để thực hiện tốt qui định này, thiết nghĩ
cần có qui định pháp luật cụ thể hơn nữa về quyền lợi và trách nhiệm của người
trực tiếp chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát người bị kết án được hưởng án treo để
họ thấy rõ nghĩa vụ và quyền lợi nhà nước giao cho, từ đó thực hiện công việc
được giao tốt hơn và có hiệu quả hơn. Đồng thời, các lãnh đạo Tòa án nhân dân
các cấp cần có qui chế phối hợp với các chính quyền địa phương trong tỉnh của
mình để dễ dàng liên hệ gửi hồ sơ thi hành án, theo dõi xác nhận sự tiến bộ của

24

người bị kết án được hưởng án treo để xem xét đưa ra Hội đồng xét giảm thời gian
thử thách cho họ. Ngoài ra, hàng năm nên sắp xếp phối hợp với chính quyền địa
phương tổ chức ít nhất một cuộc tập huấn pháp luật nói chung, liên quan đến công
tác thi hành án đối với người bị kết án được hưởng án treo nói riêng cho cán bộ tư
pháp ở các phường xã,… để họ cập nhật văn bản kịp thời cũng như trao đổi, hướng
dẫn tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật để công tác quản
lý, theo dõi, xác nhận sự tiến bộ của người bị kết án được hưởng án treo ngày càng
hiệu quả hơn và chính xác hơn.























25

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Án treo là một chế định thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của
Nhà nước ta. Với phương châm “giáo dục - khoan hồng”, án treo không buộc
người bị kết án cách ly khỏi xã hội. Họ vẫn được làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự
hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường dưới sự
giám sát, theo dõi, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Là hình phạt
mang tính giáo dục cao, án treo khuyến khích người bị kết án tự nguyện lao động,
cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội. Chính ý nghĩa trên, nên việc vận dụng
các qui định pháp luật về án treo trong công tác xét xử án hình sự luôn được các
Tòa án các cấp chú trọng, quan tâm để không xảy ra tình trạng áp dụng án treo
không đúng đắn, mất đi ý nghĩa của nó. Nghiên cứu việc áp dụng án treo trong xét
xử các vụ án hình sự, tìm hiểu những vấn đề lý luận về án treo, nêu ra những
trường hợp vận dụng sai trong xét xử, chỉ ra nguyên nhân có những sai sót đó và
đồng thời nêu lên vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hiện nay những vấn đề lý

luận về án treo, và từ đó đề ra những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng áp dụng án treo trong xét xử án hình sự là rất cần thiết đối với những người
làm công tác xét xử. Vì có như thế, những thẩm phán xét xử án hình sự nói chung
và bản thân nói riêng sẽ có hiểu biết sâu sắc hơn về qui định áp dụng án treo, cũng
như rút ra được những kinh nghiệm trong công tác xét xử thông qua những trường
hợp sai sót cụ thể đã nêu để từ đó tránh rơi vào sai sót đó. Điều đó, góp phần
không nhỏ vào việc người thẩm phán tuyên một bản án đúng đắn và sẽ là một
trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án hình sự, trong đó
có áp dụng án treo của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên trong thời gian tới.





×