Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực trạng và giải pháp công tác Tư pháp của Phường Châu Phú A

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.45 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân mọi quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân. Đồng thời để xây dựng Nhà nước pháp quyền quản lý xã
hội bằng pháp luật, với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, mối
quan hệ giữa bộ máy Nhà nước và công dân đã thay đổi công dân có đủ các quyền
tự do, dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một trong những quyền cơ bản của công dân được các Hiến pháp và văn bản
Nhà nước ta ghi nhận đó là quyền được khai sinh, khai tử, kết hôn và các quyền
giao dịch dân sự, hành chính…Nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, Nhà nước ta đã ban hành, bổ
sung và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, làm công cụ quản lý
của Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, làm nền tảng để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Tuy nhiên, để pháp luật thật sự là công cụ quản lý của Nhà nước,
vấn đề được đặt ra thường xuyên, liên tục và cấp bách đó là làm sao để mọi người
dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật; có ý thức chấp hành pháp luật,
thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh và triệt để ở mọi lúc, mọi nơi nhằm xây
dựng một nền pháp chế Xã Hội Chủ Nghĩa thực sự.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ của Tư pháp phường là một trong những
nhiệm vụ hết sức quan trọng của chính quyền địa phương. Đảng, Nhà nước ta coi
công tác Tư pháp phường là một trong những biện pháp quan trọng góp phần tăng
cường mối quan hệ đoàn kết nhất trí của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Để hội nhập, hợp tác quốc tế với các nước khu vực và trên thế giới, Nhà
nước ta đã từng bước xây dựng, bổ sung, sửa đổi pháp luật phù hợp với pháp luật
quốc tế. Đồng thời, Nhà nước cũng đã tiến hành cải cách trên mọi lĩnh vực. Đặc
biệt chú trọng vào cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm bảo được hoạt động quản
lý của Nhà nước, giảm bớt những thủ tục rườm rà và hạn chế phiền hà cho người
dân. Năm 2013, tình hình cả nước nói chung và địa phương nói riêng còn nhiều
khó khăn, ảnh hưởng nhất định đến việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp. Nhưng với tinh thần chủ động, nổ lực khắc phục khó khăn,
quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiện vụ chính trị, chuyên môn của ngành, nhằm


góp phần thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ về kinh tế - Xã hội ở địa phương. Ban
Tư pháp phường đã khiển khai tòan diện, đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp, trong đó có những nhiệm vụ mới được bổ sung như: theo dõi thi hành
pháp luật, kiểm sóat thủ tục hành chính, thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính… nổi bật như: Trong lĩnh vực xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có sự
chuyển biến rõ rệt, giúp thường trực Hội đồng nhân dân xây dựng báo cáo, hoàn
chỉnh về mật thể thức kỹ thuật trình bày; đóng góp nhiều văn kiện dự thảo pháp
luật mới; tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh công tác phổ biến giáo dục pháp luật, trợ
giúp pháp lý đến tận quần chúng nhân dân; thực hiện tốt ngày pháp luật, đồng thời
1
thường xuyên tham mưu cũng cố đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên khi có
luận chuyển, thay đổi công tác. Để nâng cao chất lượng công tác hòa giải, trong
năm qua Tư pháp phường đã tham mưu cho thường trực Ủy ban nhân dân phường
tạo điều kiện cho các đồng chí trưởng phó khóm tham dự hội thi “trưởng, phó
khóm, ấp với kiến thực pháp luật”. Qua đó, kiến thức pháp luật của cán bộ được
nâng lên rõ rệt, dẫn đến tỷ lệ hòa giải thành cao; công tác cải cách hành chính tư
pháp ngày một đi vào nề nếp, phục vụ tốt nhu cầu của nhân dân trên địa bàn.
Bên cạnh những mặt đạt được thì cũng còn không ít những mặt hạn chế
yếu kém như: Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tuy được phường
chú trọng nhưng chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn mang nặng tính hình thức;
Thành viên ban hòa giải; tổ hòa giải không tham dự đầy đủ các buổi hòa giải, từ
đó, trong công tác vận động chưa đạt hiệu quả cao; Công tác chứng thực chữ ký
chưa có quy định cụ thể rõ ràng lọai văn bản nào chứng thực chứ ký, lọai nào công
chứng nên có đôi lúc còn đùng đẩy trách nhiệm.
Qua học tập nghiên cứu các môn học trong chương trình Trung cấp lý luận
chính trị, cùng với thực trạng ở địa phương đang đặt ra công tác tư pháp là một
trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước quan tâm, đây cũng chính là động
lực để tôi chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp công tác Tư pháp của Phường
Châu Phú A” làm đề tài tốt nghiệp, qua đó nghiên cứu, tìm hiểu đồng thời đưa ra
những đề xuất kiến nghị về công tác tư pháp trong thời gian tới.

Về mục đích, yêu cầu đề tài hướng tới cần làm rõ các nhiệm vụ: Những vấn
đề lý luận chung của công tác tư pháp phường; thực trạng công tác tư pháp của Ủy
ban nhân dân phường Châu Phú A thời gian qua; phương hướng và giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác tư pháp của ủy ban nhân dân phường thời gian tới.
Về phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận được triển khai dựa trên pháp luận
nghiên cứu khoa học của Chủ Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời sử
dụng nhóm phương pháp tổng hợp tài liệu kết hợp với phương pháp phân tích
thông tin cơ sở để hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu giai đoạn 2013 - 2015.
2
Chương 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TƯ PHÁP PHƯỜNG
1.1 Những vấn đề chung về công tác tư pháp phường
1.1.1 Vị trí, vai trò Tư pháp phường
Ủy ban nhân dân Phường là cơ quan hành chính Nhà nước cấp cơ sở trong
hệ thống chính quyền 4 cấp của Nhà nước ta: Trung ương, Tỉnh, Huyện, phường.
Ủy ban nhân dân phường có vị trí, vai trò hết sức quan trọng là nơi trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ cụ thể quản lý hành chính Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, an
ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội … ở cơ sở, đảm bảo cho các đường lối,
chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Tại Điều 129 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2003 đã xác định vị trí, chức năng của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân. Như vậy Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân phường
chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân
có vai trò giúp Ủy ban nhân dân thực hiện quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hoạt
động Tư pháp tại địa phương. Ngoài ra Tư pháp phường còn phải chịu sự chỉ đạo
về nghiệp vụ của các cơ quan cấp trên như Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Thanh tra,
… đảm bảo sự thống nhất quản lý của ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở.
Từ những qui định nêu trên có thể thấy Nhà nước ta không chỉ khẳng định vị
trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế, phương thức hoạt động của tư pháp xã,
phường, thị trấn mà còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc củng cố, kiện toàn
đội ngũ cán bộ này, khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao năng lực và hiệu

quả hoạt động của tư pháp cấp xã, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của địa phương và của ngành Tư pháp.
Như vậy, trong cơ cấu chính quyền xã, phường, thị trấn tư pháp luôn giữ một
vị trí quan trọng góp phần thực hiện chủ trương yêu cầu lớn hiện nay của Đảng và
Nhà nước làm ổn định xã hội, quản lý Nhà nước bằng pháp luật và mở rộng dân
chủ ở cơ sở.
1.1. 2 Nhiệm vụ của Tư pháp
Giúp Ủy ban nhân dân phường thực hiện quản lý Nhà nước về các công
việc Tư pháp;
Giúp Ủy ban nhân dân phường soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị
để thi hành các quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân huyện, quận, thành phố
thuộc tỉnh và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
Giúp Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phường thực hiện việc kiểm tra
các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp
ban hành.
3
Thực hiện việc phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân; thực hiện ngày
pháp luật;
Xây dựng, quản lý và tổ chức khai thác tủ sách pháp luật;
Giúp Ủy ban nhân dân phường thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ tịch,
chứng thực, sao y bản chính thuộc thẫm quyền của Ủy ban nhân dân;
Kiểm tra, rà soát bộ thủ tục hành chính;
Tiếp công dân thường xuyên và tổ chức tiếp dân theo định kỳ và đột xuất
của lãnh đạo đơn vị.
Hướng dẫn quản lý và tổ chức hoạt động cho các tổ hòa giải ở cơ sở, đồng
thời trực tiếp thực hiện việc hòa giải khi có vụ việc do tổ hòa giải chuyển lên hoặc
thuộc thẫm quyền của Ủy ban nhân dân phường;
Tổ chức phối hợp thực hiện công tác thi hành án dân sự theo sự chỉ đạo,
hướng dẫn của thi hành án dân sự;

Ngoài ra, Tư pháp còn được Ủy ban nhân dân phường giao nhiệm vụ giúp
Ủy ban nhân dân phường thực hiện một số công việc về quốc tịch; thi hành án hình
sự; trợ giúp pháp lý; xây dựng hương ước, quy ước và kiểm tra việc thực hiện
hương ước, quy ước đó; quản lý và giáo dục các đối tượng tại phường; niêm yết
các lọai văn bản có liên quan đến hành chính Tư pháp;
1.1.3 Tổ chức của Tư pháp phường
Tư pháp phường với cơ cấu gồm: 01 Trưởng ban, 01 công chức chuyên
trách tư pháp và 01 các bộ hộ tịch. Trưởng ban Tư pháp do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân phường đãm nhiệm.
1.1.4 Mối quan hệ công tác của Tư pháp
Quan hệ với Đảng ủy phường: Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Ủy ban
nhân dân phường chịu sự lãnh đạo của Đảng ủy phường.
Quan hệ với Ủy ban nhân dân phường với tư cách là một cơ quan chuyên
môn của Ủy ban nhân dân phường nên Tư pháp phường chịu sự chỉ đạo, quản lý
toàn diện và trực tiếp của Ủy ban nhân dân phường về tổ chức, biên chế và hoạt
động.
Quan hệ với cơ quan Tư pháp cấp trên và Thi hành án
+ Đối với cơ quan Tư pháp cấp trên: Tư pháp phường là đơn vị cơ sở hệ
thống ngành Tư pháp phải chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ
của cơ quan Tư pháp cấp trên, mà trực tiếp là Phòng Tư pháp thành phố.
+ Đối với thi hành án, tòa án: Tư pháp phường có trách nhiệm phối hợp
chặt chẽ với thi hành án để giúp đở, hỗ trợ theo sự chỉ đạo của thi hành án.
Quan hệ với các ban, ngành, đoàn thể quần chúng ở phường: Tư pháp phải
có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các ban ngành, cơ quan, tổ chức, đoàn
4
thể quần chúng ở cơ sở như: Ủy ban Mặt trận tổ quốc, Công an, Văn hóa - Thông
tin, Hội Cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên,… đặc biệt trong
việc thực hiện các nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải, đăng ký hộ
tịch, thi hành án. Tư pháp phải xác định các cơ quan, tổ chức nói trên là chổ dựa
vững chắc đảm bảo cho Tư pháp triển khai thực hiện toàn diện và có hiệu quả các

nhiệm vụ được Nhà nước giao.
1.2 Nội dung quản lý Nhà nước về Tư pháp phường
Nhà nước quản lý hành chính tư pháp chủ yếu tập trung vào các họat động
sau:
- Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về hành chính tư pháp;
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch, định hướng về họat
động hành chính tư pháp;
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về hành chính tư pháp; Quản lý hệ thống tổ
chức và họat động của các cơ quan, tổ chức hoạt động hành chính tư pháp;
- Đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ về hành chính tư pháp;
- Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm, giải pháp quyết khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động hành chính tư pháp; đảo bảo kinh phí
- Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho một số hoạt động hành
chính tư pháp; hợp tác quốc tế về hành chính tư pháp;
- Tổng kết họat động hành chính tư pháp; báo cáo cơ quan nhà nước cấp
trên về họat động hành chính tư pháp.
1.3 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp
Công tác tư pháp luôn là công tác thường xuyên được Đảng và Nhà nước rất
quan tâm chỉ đạo một cách toàn diện trong suốt quá trình lãnh đạo của mình. Cụ
thể trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI xác định rõ : “ Đẩy mạnh
việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư
pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Hòan thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về
tổ chức bộ máycác cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính
độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp.
Đổi mới hệ thống tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách họat
động xét xử là trọng tâm của cải cách họat động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét
xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính Tiếp tục đổi mới và kiện tòan
các tổ chức bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức

nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường các cơ chế
giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”.
5
Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị về
“Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”, thể hiện quan điểm của Đảng về cải
cách tư pháp theo 4 định hướng cơ bản:
“+ Hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp;
+ Cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà
trung tâm là tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ;
+ Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp,
nhất là cán bộ có chức danh tư pháp;
+ Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối
với hoạt động tư pháp.”
1.4 Cơ sở pháp lý
Để kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan
cấp xã nói chung và công tác tư pháp cấp xã nói riêng, trong giai đoạn hiện nay, Tư
pháp tiếp tục được Nhà nước quan tâm kiện toàn tổ chức cán bộ và nâng cao hiệu
quả hoạt động. Luật cán bộ công chức năm 2008 xác định các cán bộ giữ chức
danh chuyên môn ở cơ sở là cán bộ công chức được tuyển dụng, hưởng lương từ
ngân sách Nhà nước và được hưởng chế độ chính sách theo quy định. Đây là văn
bản pháp lý quan trọng, tạo cơ sở xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp phường có
chất lượng, qua đó nâng chất lượng và hiệu quả hoạt động của Tư pháp đáp ứng
yêu cầu tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp
quyền phường hội chủ nghĩa việt nam.
Tại khoản 4, Điều 18 Luật tổ chức chính phủ năm 2001 quy định: Nhiệm
vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp là “
Quản lý công tác hành chính tư pháp, các tổ chức luật sư, giám định tư pháp, tư
vấn pháp lý; công tác thi hành án; công chứng, hộ tịch; xây dựng và phát triển
khoa học pháp lý;”.
- Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28 tháng 4 năm 2009

của Bộ Tư pháp – Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã;
- Thông tư 01/2008/TT-BTP ngày 02/06/2008 của Bộ tư pháp về hướng dẫn
thực hiện một số quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
-Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ
về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
- Nghị định 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của các nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực
6
-Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng
- Quyết định số 25/2009/QĐ-UBND ngày 08 tháng 7 năm 2009 của Ủy ban
nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh An Giang;
- Quyết định Quyết định 27/2011/QĐ-UBND ngày 14/6/2011 phê duyệt Đề
án kiện toàn tổ chức và họat động Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cấp huyện và công
tác tư pháp cấp xã;
- Chỉ thị 12/2011/CT-UBND ngày 21/10/2011 về việc triển khai thực hiện
Quyết định số 27/2011/QĐ-UBND.
- Quyết định 315/QĐ-UBND ban hành ngày 20/02/2013 về phê duyệt
Chương trình công tác tư pháp 2013 trên địa bàn tỉnh An giang.
Nhìn chung Tư pháp phường làm được khá nhiều công việc giúp chính
quyền địa phương và các cơ quan ban ngành ở địa phương như: giúp UBND
phường thực hiện quản lý Nhà nước về công việc tư pháp; dự thảo, đóng góp văn
bản; phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân; thực hiện việc đăng ký, quản lý
hộ tịch; hướng dẫn hoạt động của các tổ hòa giải cơ sở; phối hợp với đội thi hành
án huyện, thị, thành phố trong tỉnh thực hiện việc thi hành án dân sự ở địa phương;

giúp Tòa án các cấp trong việc tống đạt các văn bản, giấy tờ tới đương sự…Tất cả
những nội dung trên đều được qui định cụ thể trong các văn bản pháp luật của Nhà
nước, qua đó cũng thể hiện được cơ sở pháp lý để triển khai, thực hiện đối với
công tác tư pháp nói chung và từng địa phương nói riêng.
7
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC TƯ PHÁP
PHƯỜNG CHÂU PHÚ A, THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG
2.1 Đặc điểm tình hình của địa phương
Phường Châu Phú A là phường trung tâm của thị phường Châu Đốc và tiếp
cận biên giới, có tổng diện tích tự nhiên là 5,23km
2
, trong đó diện tích sản xuất
nông nghiệp 312,39ha, đất quốc phòng 2,30ha, còn lại là đất ở và đất chuyên dùng
khác. Điạ bàn phường được chia làm 11 khóm với địa hình đồng bằng xen kẻ kênh
rạch, sông ngòi.
Phía đông có sông Hậu, phía tây giáp phường Núi Sam, phía nam giáp
phường Châu Phú B, phía bắc giáp phường Vĩnh Ngươn. Dân số toàn phường
30.828 người, với 6.483 hộ trong đó nữ 16.203 người; mật độ dân số bình quân
5.894 người/km
2
; khoảng 70% dân số sống bằng nghề kinh tế thương mại, 10% sản
xuất nông nghiệp, 20% sống bằng các nghề khác.
Về dân tộc chủ yếu là Kinh, Hoa, một số ít Khơme ( 01 hộ - 11 nhân khẩu ),
Chăm ( 01 hộ - 10 nhân khẩu ), Thổ ( 01 hộ - 03 nhân khẩu ), Nùng ( 04 hộ - 14
nhân khẩu ).
Về tôn giáo là nơi tập trung nhiều tôn giáo khác nhau bao gồm:
- Đạo phật: 4.289 hộ - 21.918 nhân khẩu – tỉ lệ 71%
- Hoà hảo: 901 hộ - 4.065 nhân khẩu – tỉ lệ 13%
- Thiên chúa: 61 hộ - 276 nhân khẩu – tỉ lệ 1%
- Cao đài: 706 hộ - 2.444 nhân khẩu – tỉ lệ 8%

- Tin lành: 28 hộ - 140 nhân khẩu – tỉ lệ 0,45%
- Hiếu nghĩa: 97 hộ - 332 nhân khẩu – tỉ lệ 1,08%
- Không tôn giáo, tôn giáo khác: 401 hộ - 1.653 nhân khẩu – tỉ lệ 5,36%
Toàn phường có 5.966 hộ gia đình văn hoá, 11 khóm văn hoá; 02 làng văn
hóa sức khoẻ tại khóm 6 và khóm 8. Phường có 01 trạm y tế đạt chuẩn y tế quốc
gia; có 09 điểm trường với cấp học từ mẫu giáo đến phổ thông trung học, trong đó
có 01 trường đạt chuẩn trường quốc gia; 01 chợ trung tâm và 01 điểm chợ khu
vực ; 01 trạm truyền thanh phủ sóng phát thanh với 40 cụm loa phát thanh.
Với tình hình đặc điểm nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế phường hội của phường Châu Phú A, nhưng cũng không ít khó khăn cho
công tác quản lý nhà nước về tư pháp tại địa phương.
Tuy vậy, trong những năm qua với quyết tâm đoàn kết nhất trí cao của
Đảng bộ và nhân dân phường Châu Phú A. Đặc biệt là sự quan tâm của Thành ủy,
Tỉnh, Trung ương đã tập trung huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế,
kết hợp giải quyết các vấn đề cấp bách về văn hóa phường hội, an ninh chính trị
8
nên đã làm thay đổi bộ mặt của phường một cách rõ nét, đời sống kinh tế phường
hội và hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân có được nâng lên, góp phần làm
cơ sở vững chắc để phường ổn định tiếp tục xây dựng và phát triển đi lên một cách
toàn diện.
2.2. Thực trạng công tác tư pháp trong thời gian qua
2.2.1 Về tổ chức, chế độ, công tác đào tạo, cán bộ tư pháp phường hiện
nay
Tư pháp phường trực thuộc Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của ủy ban
nhân dân phường, có trụ sở nằm trong khuôn viên của trụ sở UBND phường. Hiện
tại cán bộ tư pháp phường đã được ổn định và có trình độ là tốt nghiệp đại học luật
01 đồng chí phụ trách công tác Tư pháp, 01 đồng chí tốt nghiệp trung cấp luật phụ
trách lĩnh vực Hộ tịch. Về chuyên môn nhìn chung công tác tổ chức của tư pháp
phường hiện nay là tương đối ổn định, cấp ủy và chính quyền địa phương ngày
càng quan tâm đến công tác này. Tư pháp phường cũng đã phát huy được vai trò,

vị trí của mình trong việc giúp chính quyền địa phương quản lý các hoạt động về
tư pháp.
Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28 tháng 4 năm 2009
của Bộ Tư pháp – Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã;
Để thực hiện công tác quản lý về mặt Nhà nước đối với tư pháp phường,
Sở tư pháp thường xuyên chỉ đạo các phòng Tư pháp và trực tiếp làm việc với Ủy
ban nhân dân các phường, phường chọn cán bộ theo tiêu chuẩn: đạo đức, năng lực
theo quy trình hướng dẫn của Bộ Tư pháp.
Thời gian qua, việc tuyển chọn, bố trí cán bộ chuyên trách của Tư pháp
phường nhìn chung được tiến hành chặt chẽ đúng tiêu chuẩn nghiệp vụ do Sở Tư
pháp hướng dẫn và được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ để chuyên môn theo quyết
định của chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Về chế độ, chính sách cán bộ tư pháp phường đang được hưởng ở địa
phương, thực hiện theo Luật cán bộ công chức năm 2008 và Nghị định
112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về cán bộ, công chức, phường,
phường, thị trấn.
Với quy định này đã phần nào giải quyết chế độ cho cán bộ tư pháp
phường, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so với mức sinh hoạt và tình hình giá cả
thị trường hiện nay. Thực tế cho thấy chính sách, chế độ không đảm bảo được cuộc
sống nên có đôi lúc không an tâm, điều đó làm ảnh hưởng đến công tác tư pháp ở
cơ sở.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của đội ngũ cán bộ tư pháp phường. Trên cơ sở trình độ năng lực của cán bộ hằng
năm Ủy ban nhân dân phường thường xuyên tạo điều kiện cho cán bộ Tư pháp –
9
Hộ tịch tham dự các lớp tập huấn do Sở Tư pháp mở. Đồng thời để nâng cao trình
độ về lý luận phường cũng đã tạo điều kiện cho cán bộ tham gia học các lớp Trung
cấp chính trị- hành chính mở tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị thành phố. Song

song đó lãnh đạo UBND phường thường xuyên chỉ đạo cán bộ Tư pháp - Hộ tịch
và luôn cập nhật các văn bản pháp luật mới.
Tóm lại, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, phường luôn coi việc
học tập là một nghĩa vụ là thước đo phẫm chất cách mạng, tính Đảng của cán bộ tư
pháp, đồng thời gắn công tác bồi dưỡng với công tác quy hoạch cán bộ nhất là
trong giai đoạn hiện nay.
2.2.2. Về kết quả đạt được
2.2.2.1. Cách thức tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao
Chính quyền cơ sở đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính
quyền của Nhà nước ta, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân là
nơi trực tiếp biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của
Nhà nước thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính quyền chỉ
đạo trực tiếp thực hiện quản lý Nhà nước đối với mọi hoạt động của cơ sở theo
thẫm quyền, trong đó có lĩnh vực hoạt động tư pháp. Trong lĩnh vực hoạt động tư
pháp chính quyền cơ sở có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ như: ban hành các
quyết định, chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó, tổ
chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương, xây dựng tủ sách pháp luật, tổ
chức và hướng dẫn hoạt động của các tổ hòa giải, tổ chức việc đăng ký, quản lý hộ
tịch theo quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan
chức năng trong việc thi hành án, thực hiện một số việc chứng thực theo quy định
của pháp luật.
Tư pháp phường là cơ quan chuyên môn, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
chính quyền cơ sở có chức năng giúp chính quyền cơ sở thực hiện tốt các nhiệm vụ
nói trên. Đồng thời tư pháp phường chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của
các cơ quan tư pháp cấp trên, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện của ngành tư pháp
nhằm đưa pháp luật vào thực tiển cuộc sống của nhân dân, nâng cao ý thức pháp
luật góp phần duy trì pháp luật, tăng cường pháp chế phường hội chủ nghĩa, thực
hiện dân chủ và công bằng phường hội ở cơ sở. Chính vì vậy, cách thức tổ chức
triển khai thực hiện nhiệm vụ của tư pháp phường được tiến hành như sau:
Hàng năm, phòng Tư pháp dựa vào kế hoạch và phương hướng nhiệm vụ

của Sở, cụ thể hóa các nhiệm vụ Tư pháp cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ
chính trị của địa phương và nhiệm vụ trọng tâm của ngành tư pháp để chỉ đạo tư
pháp phường phường thực hiện. Tư pháp phường căn cứ vào kế hoạch này, dựa và
tình hình thực tế tại địa phương cụ thể hóa lại thành kế họach thực hiện của
phường và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, thực tế
cho thấy tổ chức triển khai nhiều khi còn bị động, một số chỉ tiêu không đạt theo
yêu cầu kế họach đề ra, nhất là công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục bằng hình
thức tuyên truyền miệng.
10
Ngoài ra công tác tổ chức và trưng dụng, điều động cán bộ tư pháp- hộ tịch
phường làm công việc khác nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động
của tư pháp cơ sở như:
Cán bộ tư pháp thuộc quyền quản lý, điều động của Ủy ban nhân dân cấp
cơ sở nên thường xuyên bị điều chuyển công tác, thay đổi nhiệm vụ, do vậy Sở tư
pháp, phòng tư pháp về góc độ quản lý Nhà nước không thể can thiệp được.
Nhiệm vụ tư pháp ở cơ sở còn rất nặng nề, đa số cán bộ tư pháp phường
phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc khác như: công tác phòng chống tham
nhũng, lãng phí, quản lý các đối tượng thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ,
án treo…
2.2.2.2 Sự chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện của chính quyền địa
phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác tư pháp phường.
Xuất phát từ tính chất và yêu cầu nêu trên, để tạo điều kiện cho tư pháp xã
phường thực hiện tốt công việc của mình, phục vụ cho nhu cầu, nhiệm vụ chính
của ngành và của địa phương, căn cứ vào tình hình cụ thể mà tư pháp đã xây dựng
kế hoạch chuyên đề trên từng lĩnh vực công tác để chỉ đạo tổ chức thực hiện ở cơ
sở như: trong năm 2013 sở đã chỉ đạo rà soát các trường hợp con nuôi thực tế
nhưng chưa đăng ký theo luật nuôi con nuôi; các năm 2009-2010 yêu cầu rà sóat
các trường hợp việt kiều Campuchia về sống trên địa bàn để đề xuất xin cấp giấy
khai sinh cũng như hộ khẩu cho những người này . Đồng thời thường xuyên theo
dõi, kiểm tra, hỗ trợ tháo gở những khó khăn vướng mắc về hoạt động tư pháp cấp

phường trong các hoạt động nghiệp vụ như đăng ký, quản lý hộ tịch, soạn thảo văn
bản, phổ biến giáo dục pháp luật vv
2.2.2.3. Sự phối hợp của ban, ngành, đoàn thể ở địa phương trong việc
tổ chức thực hiện công tác tư pháp phường
Trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của tư pháp phường, Ủy ban
nhân dân phường đã chỉ đạo cụ thể từng mảng công tác, từng nội dung, tạo điều
kiện cho tư pháp phường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể ở địa phương
trong việc tổ chức thực hiện. Chẳng hạn như trong năm 2013 tư pháp phường phối
hợp với Hội Phụ nữ phường triển khai luật Hôn nhân gia đình, Luật bảo vệ chăm
sóc giáo dục trẻ em, luật bình đẳng giới, luật phòng chống mua bán người. Phối
hợp với Công an phường triển khai Luật xử lý hành chính, Luật cư trú; phối hợp
với Địa chính triển khai Luật Đất đai, luật kiếu nại; phối hợp với ban quản lý chợ
triển khai luật đo lường chất lượng, luật phòng cháy chữa cháy v.v
* Kết quả đạt được về số lượng, chất lượng của công tác Tư pháp
phường trong năm qua như sau:
Trong năm 2013, trong quá trình tổ chức và hoạt động tư pháp phường đã
đạt được kết quả khá tốt kể cả về số lượng lẫn chất lượng đứng hành thứ 2 trong 7
phường xã trên địa bàn thành phố Châu Đốc. Cụ thể kết quả đạt được trên một số
lĩnh vực thuộc công tác tư pháp như sau:
11
Về công tác hòa giải:
Căn cứ pháp lệnh hòa giải cơ sở (hiện nay là Luật Hòa gỉai ở cơ sở ); Quyết
định 1095/QĐ-UBND ngày 09/7/2012 về việc phân công thụ lý đơn khiếu nại,
Quyết định 21/2012/QĐ-UBND ngày 06/8/2012 của UBND tỉnh An giang về việc
ban hành quy định giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh An Giang. Ban
Tư pháp phường xác định công tác hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đở,
thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc
vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân,
phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn phường hội trong
cộng đồng dân cư. Nên trong năm qua tỷ lệ tiếp nhận đơn và hòa giải thành khá

cao như
- Ban hòa giải là 44 đơn (tranh chấp đất là 31 đơn; Hôn nhân gia đình là 03
đơn; tranh chấp dân sự là 10 đơn), hòa giải thành là 29 đơn, hòa giải không thành
15 đơn.
- Tổ hòa giải: tổng nhận 108 đơn; hòa giải thành 85 đơn, không thành 23
đơn.
Đạt được những kết quả như trên là nhờ được sự quan tâm sâu sát của
Đảng ủy, Ủy ban nhân dân và sự phối kết hợp chặc chẽ của Hội đồng hòa giải,
bằng chính sách mềm dẻo, giải thích chính sách pháp luật, tình làng nghĩa xóm,
xác minh nguyên nhân dẫn đến mâu thuẩn, cụ thể từng đơn một, đưa ra hội đồng
họp lấy ý kiến trước khi tiến hành hoà giải nên việc hòa giải được tiến hành thuận
lợi, đáp ứng được yêu cầu kiếu kiện của người dân bên cạnh cũng mạnh dạn bác bỏ
những đơn khiếu kiện không rõ nguồn gốc.
Về công tác hộ tịch:
Ủy ban nhân dân phường luôn xác định đăng ký hộ tịch là công việc thường
xuyên của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự
biến động về hộ tịch để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - phường hội, an
ninh quốc phòng và chính sách dân số Kế hoạch hóa gia đình. Đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao nguồn nhân lực giải quyết tốt việc đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa
phương đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân. Thực hiện Thông tư: 01/2008/TT-BTP ngày 02/06/2008 của Bộ tư pháp
về hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Quyết định số:1496/QĐ-
UBND ngày 125/7/2013 của UBND tỉnh An Giang về việc công bố Bộ thủ tục
hành chính chung áp dụng tại các xã phường, thị trấn trên địa bà tỉnh An Giang,
trong năm 2013 cán bộ Hộ tịch phường Châu Phú A đã giải quyết:
+ Đăng ký khai sinh cho 494 trẻ.
+ Đăng ký khai tử 206 người.
+ Đăng ký kết hôn được 227 cặp.
12

+ Đăng ký nhận nuôi con nuôi 5 trường hợp;
+ Cải chính thay đổi hộ tịch 12 trường hợp;
+ Nhận cha, mẹ, con 22 trường hợp;
+ Cấp bản sao các lọai 510 trường hợp;
+ Xáx nhận tình trạng hôn nhân: 602 người.
Về công tác xây dựng tủ sách pháp luật
Thực hiện Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật. Sở
Tư pháp đã làm tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Chỉ thị số
12/2010/CT-UBND ngày 26 tháng 10 năm 2010 về xây dựng, quản lý, khai thác tủ
sách pháp luật trên địa bàn tỉnh tỉnh An Giang. Tính đến nay trên địa bàn phường,
18 có tủ sách pháp luật (đạt 100%). Trong đó: 11 tủ sách được đặt ở 11 khóm, mỗi
tủ sách có ít nhất là 50-70 đầu sách. Bên cạnh đó, tại các trường học, các cơ sở thờ
tự trên địa bàn phường đều đã bố trí 01 tủ sách pháp luật với số lượng sách từ 40-
50 quyển. Riêng tủ sách pháp luật được đặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường thì
có số lượng sách khá phong phú trên 100 đầu sách các lọai và được sắp xếp ngăn
nắp, có sổ theo dõi việc mượn và trả sách khi có yêu cầu mang về. Hằng năm,
Phòng Tư pháp có chỉ đạo cán bộ Tư pháp thống kê nhu cầu cần trang bị thêm sách
cho tủ sách thì làm đề nghị và được cấp phát thêm nên hiện nay số lượng sách tại
các tủ sách trên địa bàn phường rất phong phú và đa dạng để nhằm góp phần làm
tốt công tác hòa giải ở địa phương cũng như thuận tiện cho việc nghiên cứu pháp
luật của người dân.
Về công tác phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật ở địa phương
Căn cứ luật phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012; Nghị định 28/2013/NĐ-
CP hướng dẫn thi hành luật phổ biến giáo dục pháp luật; Dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Sở tư pháp, Phòng tư pháp, công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở phường
nhìn chung không ngừng được nâng chất và củng cố.
Tư pháp phường thường xuyên phối hợp với đoàn thể cùng các ban, ngành
tổ chức tuyên truyền, giải thích những vấn đề thắc mắc của người dân và tư vấn
pháp luật cho dân. Trong năm qua đã tổ chức tuyên truyền được 25 cuộc với 1256

người tham dự.
Bên cạnh việc tuyên truyền lồng ghép vào các cuộc họp dân thì mạng lưới
truyền thanh của địa phương cũng thường xuyên tiếp âm trên đài như Luật Đất đai,
Luật Khiếu nại tố cáo đã được sửa đổi bổ sung, Nghị định 158/NĐ-CP về đăng ký
và quản lý hộ tịch, Luật Hôn nhân gia đình v.v
Với điều kiện kinh tế phường hội hiện nay, hình thức phổ biến giáo dục
pháp luật phù hợp nhất của phường là hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật thông qua hệ thống loa truyền thanh, tờ bướm, sách bỏ túi v.v hằng
tuần vào tư pháp phường cung cấp tin bài cho cán bộ truyền thanh phường đọc
13
ngày thứ bảy và chủ nhật để phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên
địa địa bàn phường, thời lượng từ 10- 15 phút.
2.2.4 Hạn chế:
- Việc bố trí cán bộ tư pháp phường không ổn định, thường xuyên phải
luân chuyển, nên công tác theo dõi quản lý hồ sơ có đôi lúc rất bất cập, nhất là
trong công tác hòa giải tranh chấp.
- Năng lực còn hạn chế, cán bộ trẻ chưa có kinh nghiệm.
- Không thực hiện đúng theo chức năng nhiệm vụ được quy định, còn kiêm
nhiệm nhiều công tác khác.
- Chế độ chính sách chưa hợp lý giữa cán bộ công chức và cán bộ không
chuyên trách và hợp đồng nên không an tâm công tác.
- Việc họp dân để thực hiện Công tác tuyên truyền pháp luật còn rất khó khăn
vì nhu cầu cuộc sống nên khi mời dự họp thường không đến đông đủ theo thư
mời.Trách nhiệm của một số ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể đôi lúc chưa quan tâm
đúng mức đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nên hiệu quả
đạt được chưa cao.
- Nội dung tuyên truyền còn thiếu tập trung, chưa xác định được từng nội
dung trọng tâm; hình thức tuyên truyền còn thiếu sinh động, từ đó hiệu quả công
tác này chưa cao.
- Trong công tác hòa giải tranh chấp trong nhân dân còn nhiều khó khăn

hạn chế do trình độ, nhận thức vấn đề của thành viên ban hòa giải không đồng đều.
Một số ít người dân lợi dụng việc tự do, dân chủ nên làm đơn khiếu nại – tố cáo
yêu cầu chính quyền địa phương phải giải quyết theo yêu cầu của họ nhưng không
đúng theo quy định của pháp luật.
- Công tác chứng thực sao y bản chính: theo Nghị định 04/2012/NĐ-CP
ngày 20/01/2012 sửa đổi, bổ sung Điều 5 Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày
18/5/2007 của Chính phủ và Công văn số 653/STP-HCTP ngày 24/12/2012 của Sở
Tư pháp thì thẩm quyền chứng thực bảo sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản song
ngữ thuộc thẩm quyền của Phòng Tư pháp, do đó gây không ít khó khăn phiền hà
cho người dân ở xa trung tâm Huyện, Thị xã, Thành phố.
2.2.5. Nguyên nhân đạt được
Đạt được những kết quả như trên là được sự quan tâm của Sở tư pháp,
Phòng Tư pháp và trực tiếp là Đảng ủy, Ủy ban nhân dân phường nên công tác tư
pháp không ngừng được nâng cao .
Về công tác tổ chức: cán bộ tư pháp hộ tịch phường được bố trí 02 nguời,
đều đã có nghiệp vụ chuyên môn, cũng như được tạo điều kiện tham dự các lớp tập
huấn. Bên cạnh đó, để đáp ứng được nhu cầu công việc ủy ban nhân dân phường
còn hợp đồng thêm 02 đồng chí phụ trách lĩnh vực sao y bản chính nên Ban Tư
14
pháp phường từng bước được nâng lên về trình độ, lẫn chất lượng xử lý công việc
luôn kịp thời, không tồn đọng.
Về hoạt động: tư pháp phường đã tổ chức thực hiện được nhiệm vụ được
giao, không để đơn thư tồn đọng kéo dài, khiếu nại – tố cáo đông người, thực hiện
các công việc bổ trợ tư pháp đúng theo bộ thủ tục hành chính đã quy định nhằm
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và trật
tự xã hội ở địa phương.
Cán bộ tư pháp phường tuy trình độ không đều, nhưng với lòng yêu nghề,
nhiệt tình trong công tác đã vượt qua khó khăn, năng nổ, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm để từng bước đưa hoạt động tư pháp phường từ không thành có, từ yếu kém
đến tiến bộ và vững mạnh.

2.2.6. Nguyên nhân tồn tại
Về tổ chức: do ủy ban nhân dân phường thực hiện theo Nghị định 158 /
2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công
tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối vời cán bộ công chức, viên
chức, nên cán bộ phụ trách rất lúng túng khi tiếp nhận công việc mới.
Về hoạt động: chưa thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình như
quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28 tháng 4 năm
2009 của Bộ Tư pháp – Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp
xã; chính quyền địa phương còn bố trí cán bộ tư pháp kiêm nhiều công việc khác,
thậm chí có cả những công việc không thuộc chức năng của ngành tư pháp.
Chính quyền địa phương chưa nắm được chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai
trò của công tác tư pháp phường, từ đó thiếu sự quan tâm trong bố trí con người
theo tiêu chuẩn và yêu cầu đề ra. Chế độ chính sách đối với tư pháp phường chưa
thỏa đáng, mức sinh hoạt phí được hưởng còn rất thấp.
Kinh phí phục vụ cho hoạt động của tư pháp phường chưa đáp ứng được
nhu cầu, nhiệm vụ đề ra. Năng lực còn hạn chế, cán bộ trẻ chưa có kinh nghiệm.
Việc họp dân để thực hiện Công tác tuyên truyền pháp luật còn rất khó
khăn vì nhu cầu cuộc sống nên khi mời dự họp thường không đến đông đủ theo thư
mời.
Trong công tác hòa giải tranh chấp trong nhân dân còn nhiều khó khăn hạn
chế do trình độ, nhận thức vấn đề của thành viên ban hòa giải không đồng đều;
người dân lợi dụng việc tự do nên gửi đơn khiếu nại tố cáo nhiều nơi không đúng
qui định, tuy địa phương giải thích nhưng họ không thống nhất có đôi lúc gây mất
trật tự.
Do điều kiện sinh sống, sinh hoạt của nhân dân trong phường trước đây còn
nhiều khó khăn, trình độ hiểu biết về pháp luật còn thấp nhất là pháp luật về hộ
15
tịch nên công tác đăng ký và quản lý hộ tịch cấp phường chưa vào nề nếp, chưa

thực hiện đúng theo quy định, vẫn còn tình trạng cấp 2 – 3 giấy khai sinh cho mỗi
đương sự, gây khó khăn cho việc học tập và các giao dịch khác.
2.3 Những vấn đề bức xúc đặt ra cần tập trung giải quyết công tác tư
pháp
Nơi nào cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm thì nơi đó công tác tư
pháp phường được hoạt động tốt.
Muốn cho công tác tổ chức cũng như hoạt động tư pháp ở phường đạt hiệu
quả cao, Sở tư pháp phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa
phương để tháo gở những vướng mắc khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện
nhiệm vụ tư pháp phường. Đồng thời thông qua đó, Sở tư pháp, Phòng tư pháp
phải kiểm tra, đánh giá và chấn chỉnh các mặt hoạt động của tư pháp phường.
Một số nhiệm vụ của tư pháp phường phải phối hợp với các ngành có liên
quan như công tác phổ biến giáo dục pháp luật, công tác quản lý, khai thác tủ sách
pháp luật v.v thì công tác tư pháp mới có hiệu quả, cho nên tư pháp phường
không thể hoạt động một cách đơn lẽ.
Muốn cho công tác tổ chức và hoạt động của tư pháp phường đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay không những phải quan tâm về hệ
thống tổ chức, biên chế, năng lực trình độ, nhiệm vụ mà còn phải có sự đầu tư thỏa
đáng về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động và chế độ chính sách đối với tư pháp
phường.
Vì vậy qua quá trình tổ chức thực hiện công tác tư pháp phường chúng ta
cần rút ra những bài học kinh nghiệm đặc thù sau đây:
Cán bộ tư pháp, hộ tịch phường là người trực tiếp tham gia giải quyết các
vụ việc giúp cho lãnh đạo các cấp cơ sở nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý Nhà
nước ở địa phương trong lĩnh vực tư pháp. Do đó Uỷ ban nhân dân phường phải
hết sức quan tâm đến công tác đào tạo cho lực lượng cán bộ tư pháp - hộ tịch, tạo
điều kiện thuận lợi cho cán bộ tư pháp hộ tịch tham gia học tập nâng cao trình độ
chuyên môn.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật phải áp dụng bằng nhiều
hình thức đa dạng như: in ấn tài liệu; băng rol, khẩu hiệu để công tác tuyên truyền

phổ biến giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao.
Sơ kết, tổng kết từng hoạt động quản lý nhà nước về tư pháp ở phường
trong từng quý, từng năm. Từ đó có đánh giá, rút kinh nghiệm đồng thời có hình
thức khen thưởng, hoặc xử lý vi phạm kịp thời về lĩnh vực tư pháp.
Đề xuất, kiến nghị với cấp trên sửa đổi những qui định còn bất cập, chồng
chéo trong lĩnh vực hành chính – tư pháp .
Tăng cường trách nhiệm của công chức tư pháp khi thực thi nhiệm vụ.
16
* Tóm lại, trong thời gian qua công tác tư pháp của phường Châu Phú A đạt
được nhiều thành tích góp phần đáng kể trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội,
giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Để làm tốt
hơn nữa trong thời gian tới cần phải có phương hướng, nội dung, hình thức và giải
pháp phù hợp, kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của địa phương.
17
Chương 3. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN
NGHỊ VỀ CÔNG TÁC TƯ PHÁP Ở PHƯỜNG CHÂU PHÚ A TRONG
THỜI GIAN TỚI
3.1 Phương hướng
Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng phường hội chủ nghĩa. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
phường hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do dân và vì dân, hoàn thiệc các thủ
tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người.
Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc, trong đó xác
định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, phường hội hóa
mạnh mẻ hoạt động bổ trợ tư pháp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ tư pháp hộ
tịch theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu
chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm,

kiến thức phường hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển
đối với một số chức danh.
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của
các cơ quan dân cử của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
3.2 Giải pháp
Từ thực tế trên, để thực hiện tốt hơn nữa công tác tư pháp Ủy ban nhân dân
phường cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu như sau:
3.2.1. Lãnh đạo của Đảng ủy - UBND Phường: Cần tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng ủy - UBND phường đối với công tác tư pháp, thường xuyên chỉ đạo,
theo dõi, kiểm tra sâu sát hơn nhất là lĩnh vực tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
và công tác hòa giải. Đồng thời trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình, ủy ban nhân dân phường phải thường xuyên báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của
cấp ủy, qua đó, giúp cấp ủy hiểu rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, những thuận lợi,
khó khăn của công tác tư pháp để có những biện pháp, giải pháp phù hợp, tạo điều
kiện thuận lợi để công tác tư pháp được triển khai thực hiện có hiệu quả, góp phần
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương và của ngành Tư
pháp.
3.2.2. Hòan thiện các qui định của pháp luật liên quan đến công tác tư
pháp: Hệ thống các văn bản pháp luật quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ
các ban, ngành thuộc ủy ban nhân dân cấp xã và công chức tư pháp - hộ tịch tương
đối đầy đủ tuy nhiên trong quá trình áp dụng đã nảy sinh một số hạn chế như
nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân cấp xã trong một số hoạt động tư pháp
18
chưa được phân cấp cụ thể và rõ ràng như lĩnh vực quốc tịch, thi hành án dân sự ;
chưa có căn cứ pháp lý để làm cơ sở cho việc xác định số lượng công chức tư pháp
- hộ tịch phù hợp với khối lượng công việc mà từng địa phương phải thực hiện.
Việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng đối với công chức cấp xã đang
thiếu những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh; nhiều văn bản đã có những
bất cập như việc quy định tuổi tham gia lần đầu của chức danh Tư pháp - Hộ tịch
không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu là chưa phù hợp đối với cấp xã vì nguồn

tuyển dụng có thể từ những người nghỉ theo chế độ, hoặc đi bộ đội Về quy trình
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp xã, ủy ban nhân dân khi giao cho
đơn vị soạn thảo văn bản pháp luật chưa quy định bắt buộc là phải qua công chức
tư pháp - hộ tịch ký duyệt thẩm định mà chỉ có trách nhiệm gửi văn bản đã ký
thông qua lên Phòng Tư pháp cấp huyện để thẩm định. Vì vậy, công chức tư pháp -
hộ tịch chưa có điều kiện về hành lang pháp lý tư vấn cho ủy ban nhân dân cấp xã
trong việc soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.
Bên cạnh đó, các ngành các cấp cần có các quy định cụ thể, thống nhất nhau
trong việc hướng dẫn nghiệp vụ cho công tác tư pháp không để chồng chéo, gây
phiền hà. Đồng thời tổ chức quán triệt cho toàn thể cán bộ, công chức phường vể
các quy định mới của pháp luật và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật để nâng cao nhận thức và góp phần tích cực trong công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân. Nếu làm tốt công tác này sẽ có tác động
tốt đến tâm lý của người dân, làm cho người dân không chỉ có ý thức chấp hành
pháp luật mà còn có thể trở thành những tuyên truyền viên pháp luật;
3.2.3. Công tác cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng:
Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch có vai trò quan trọng trong quá trình
triển khai thực hiện công tác tư pháp. Thực tế cho thấy, số lượng chưa đáp ứng
được nhu cầu và năng lực chuyên môn yếu đã phần nào hạn chế chất lượng hoạt
động của công chức tư pháp - hộ tịch. Về số lượng, hiện nay mỗi ủy ban nhân dân
cấp xã được biên chế 1 công chức tư pháp; 01 hộ tịch. Hiện tượng luân chuyển cán
bộ sau mỗi nhiệm kỳ đã khiến cho công tác tư pháp ở cấp xã gặp nhiều khó khăn.
Về chất lượng, tỷ lệ công chức tư pháp - hộ tịch được đào tạo luật khá cao, tuy
nhiên do đa phần tốt nghiệp chương trình đại học từ xa, do còn thiếu kinh nghiệm
thực tế, kiến thức xã hội, kiến thức quản lý nhà nước và các kỹ năng về chuyên
môn nghiệp vụ nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Ngoài ra, các kiến thức hỗ trợ
khác như ngoại ngữ, tiếng dân tộc hay tin học văn phòng chưa được công chức tư
pháp - hộ tịch quan tâm nên phần nào hạn chế khả năng của họ. Bên cạnh đó, một
bộ phận không nhỏ các công chức tư pháp - hộ tịch chưa có tinh thần chủ động
sáng tạo trong công việc, chưa ý thức được đầy đủ về vai trò và nhiệm vụ của

mình. Chính vì vậy việc nâng cao năng lực cho công chức tư pháp - hộ tịch không
chỉ là nhu cầu của bản thân các công chức mà còn là đòi hỏi đặt ra của các đối
tượng có liên quan - các đối tượng hưởng lợi trực tiếp trong hầu hết các hoạt động
của công chức tư pháp - hộ tịch.
19
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo đơn vị cần quan tâm đưa đi
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ, mở các lớp bổi
dưỡng, tập huấn nhằm nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật cho cán bộ,
công chức, nhất là cán bộ thường xuyên trực tiếp tiếp xúc với nhân dân.
Sở Tư pháp phải thường xuyên xây dựng chương trình nội dung bồi dưỡng,
đào tạo nhằm không ngừng nâng cao nghiệp vụ cho tư pháp cấp xã. Phải thường
xuyên mở các lớp tập huấn ngắn hạn cho cán bộ tư pháp hộ tịch do Sở Tư pháp
hoặc Phòng Tư pháp triển khai để kịp thời nắm bắt những đểm mới hoặc những
thay đổi của quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hộ tịch
Bộ tư pháp cần nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạch định chiến lược đào
tạo cán bộ tư pháp trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Đồng thời hướng
dẫn chỉ đạo kịp thời những vướng mắc hoặc phát sinh trong quá trình tổ chức và
hoạt động tư pháp ở cơ sở.
Do vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã phải xác định được vị trí, vai trò của công
tác tư pháp để tạo điều kiện để cán bộ tư pháp được đào tạo về chuyên môn, trình
độ lý luận chính trị, kể cả kinh phí hoạt động và chế độ chính sách đối với tư pháp
xã, phường, thị trấn.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa tư pháp với các cơ quan, tổ chức,
đoàn thể quần chúng tại địa phương :
Các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cấp xã ngoài tính chất hành chính, chuyên
môn còn mang tính xã hội rộng rãi, kết hợp giữa quản lý nhà nước với sự tham gia
của nhân dân. Do đó, ủy ban nhân dân xã mà trực tiếp là công chức tư pháp - hộ
tịch phải phối hợp chặt chẽ với đại diện của các tổ chức quần chúng nhân dân tại
địa phương nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ công tác tư
pháp ở cơ sở.

Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp tốt giữa công chức tư pháp - hộ tịch và các
công chức chuyên môn ở cấp xã khác . Là một bộ phận của công tác quản lý nhà
nước ở địa phương, công tác tư pháp có mối quan hệ thường xuyên, chặt chẽ với
các nhiệm vụ khác như công tác quản lý an ninh trật tự, an toàn xã hội, quản lý đất
đai, quản lý tài nguyên môi trường, quản lý an sinh xã hội ở địa phương, do đó,
sự phối hợp giữa công chức tư pháp - hộ tịch và các công chức chuyên môn có liên
quan khác ở cấp xã cũng có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ công tác tư pháp.
3.2.5 Đổi mới chế độ chính sách đối với tư pháp hộ tịch phường: Để cán
bộ Tư pháp- Hộ tịch phường an tâm công tác, không chao đảo trước nền kinh tế thị
trường thì Nhà nước ta cần có những chính sách phù hợp hơn, như có các chế độ
phụ cấp, kinh phí đi lại xác minh…Thực tế cho thấy kinh phí công tác hạn hẹp đã
phần nào hạn chế tính chủ động của công chức tư pháp - hộ tịch trong quá trình
triển khai các hoạt động như tham gia hỗ trợ công tác hòa giải, phổ biến, giáo dục
pháp luật Đặc biệt các cuộc đi xuống dân để trực tiếp tư vấn, tìm hiểu nguyện
20
vọng của dân đòi hỏi kinh phí hỗ trợ thì thực tế hầu như công chức tư pháp - hộ
tịch không được hỗ trợ. Vì vậy, tăng cường kinh phí công tác là yếu tố cần được ưu
tiên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công chức tư pháp - hộ tịch tại địa
phương.
Trước thực tế như vậy, cần thiết đề xuất bên cạnh nâng mức lương tối thiểu
chung còn là xây dựng cơ chế phụ cấp hợp lý và chế độ khen thưởng xứng đáng
nhằm hỗ trợ cho hoạt động của công chức tư pháp - hộ tịch. Việc điều chỉnh lương
là kế hoạch dài hạn trong khi đó cơ chế phụ cấp và hỗ trợ hoàn toàn có thể được
triển khai nếu có sự quan tâm và nhận thức đúng đắn về vai trò của công chức tư
pháp - hộ tịch của chính quyền địa phương.
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất cho họat động tư pháp: ủy ban nhân dân
phường cần quan tâm đến công tác tư pháp và bổ trợ tư pháp như trang bị máy vi
tính, bàn làm việc riêng cho từng cán bộ phụ trách nhưng chưa đáp ứng được nhu
cầu công việc như cần phải trang bị thêm máy ghi âm, nước uống phục vụ cho

công tác hòa giải… Cập nhật kịp thời và thường xuyên hơn nữa văn bản pháp luật,
đặc biệt là các báo pháp luật phục vụ nhu cầu thông tin và nghiên cứu; trang bị các
phương tiện giao thông và thông tin liên lạc cần thiết nhằm hỗ trợ cho hoạt động tư
pháp hiệu quả và kịp thời…
3.2.7. Kiểm tra hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ: nhằm giúp cho tư
pháp – hộ tịch phường hòan thành chức năng nhiệm vụ theo quy định thì cần có dự
kiểm tra, sám sát của các ngành cấp trên như Sở tư pháp, phòng tư pháp, và trực
tiếp là việc giám sát của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân phường trong họat
động Tư pháp – hộ tịch.
3.2.8. Khen thưởng – kỷ luật: thông qua công tác kiểm tra giám sát và
công tác ký kết thi đua hằng năm thì Sở tư pháp, Phòng Tư pháp cần có các chế độ
khen thưởng các đồng chí tư pháp – hộ tịch hòan thành tốt nhiệm vụ. Song song
đó, cần có các hình thức kỷ luật phù hợp đối với các cán bộ tha hóa về lối sống,
đạo đức, tham nhũng, gây phiền hà cho nhân dân.
3.3 Kiến nghị
Tư pháp phường là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp
phường, đồng thời là đơn vị cấp cơ sở của hệ thống các cơ quan tư pháp. Việc đổi
mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của tư pháp là một bộ phận, một nội
dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dụng Nhà nước pháp quyền
Việt nam của dân do dân và vì dân. Do đó, để khắc phục những tồn tại, yếu kém
và những bất cập trong tổ chức và hoạt động từ thực tiễn của tư pháp phường Châu
Phú A, Thành phố Châu đốc, trước những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra hiện nay bản
thân xin kiến nghị một số nội dung cần phải được giải quyết kịp thời như sau:
21
- Thứ nhất, hòan thiện các văn bản pháp luật, sửa đổi bổ sung kịp thời đối
với các văn bản, luật, nghị định…không còn phù hợp gây khó khăn trong quá trình
giải quyết thủ tục đối với công dân.
- Thứ hai, nên thống nhất tên gọi chung trong cả nước đối với tư pháp
phường. Tư pháp có ít nhất 03 người, trong đó có 01 đồng chí Chủ tịch hoặc Phó
Chủ tịch phường làm trưởng ban; 01 đồng chí được bố trí phụ trách công tác hộ

tịch; 01 đồng chí chuyên trách về công tác tư pháp. Vì thực tế hiện nạy nhiệm vụ
của Tư pháp phường rất nặng nề, chưa kể một số nơi tư pháp phường còn phải
gánh thêm nhiều công việc khác do Ủy ban nhân dân giao. Vì vậy tư pháp phường
nếu có 01 định suất thì không thể nào hoàn thiện nhiệm vụ được giao và sẽ có tình
trạng một số lĩnh vực công tác bị bỏ trống.
Tư pháp phường vẫn do Ủy ban nhân dân phường quản lý, nhưng để đảm
bảo được sự ổn định, tránh sự xáo trộn cần phải thực hiện theo quy trình và nguyên
tắc là: cán bộ tư pháp phường do Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường bổ nhiệm
trên cơ sở tham khảo và có ý kiến thống nhất với Trưởng phòng tư pháp.
Thứ ba, về hình thức và nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp
phường: nhằm không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho tư pháp phường, Bộ
Tư pháp cần xây dựng kế hoạch và chương trình đào tạo bồi dưỡng cho Tư pháp
phường hàng năm và có chương trình tập huấn phù hợp với thâm niên công tác.
Ngoài những vấn đề nêu trên, bản thân xin kiến nghị thêm là Bộ Tư pháp
cần phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương từng bước tạo
cơ sở vật chất kỹ thuật thuận lợi cho việc hiện đại hóa, tin học hóa các phương
thức thực hiện công tác tư pháp xã, phường, thị trấn, trước hết là lĩnh vực hộ tịch
tạo điều kiện quan trọng vào việc hình thành mạng lưới thông tin nhanh nhạy,
chính xác, kịp thời, giảm bớt chi phí, thời gian, vật chất không cần thiết của đội
ngũ cán bộ tư pháp phường hiện nay; việc chứng thực sao y bản chính các giấy tờ
văn bản song ngữ nên giao thẩm quyền cho Ủy ban nhân phường, để tạo điều kiện
thuận tiện cho người dân không phải đi lại nhiều lần; cần có quy định rõ hơn đối
với lọai việc nào ủy ban nhân dân phường được chứng thực chữ ký, văn bản nào
phải chứng thực ở phòng công chứng.

22
KẾT LUẬN
Chính quyền cơ sở đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính
quyền của Nhà nước ta, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là
nơi trực tiếp biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của

Nhà nước thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính quyền chỉ
đạo trực tiếp thực hiện quản lý Nhà nước đối với mọi lĩnh vực hoạt động của cơ sở
theo thẫm quyền, trong đó có lĩnh vực hoạt động tư pháp. Trong lĩnh vực hoạt
động tư pháp, chính quyền cơ sở có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ như: ban
hành các quyết định, chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn
bản đó, tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương, xây dựng tủ sách
pháp luật, tổ chức và hướng dẫn hoạt động của các tổ hòa giải, tổ chức việc đăng
ký, quản lý hộ tịch theo quy định của Pháp luật, tổ chức thực hiện hoặc phối hợp
với các cơ quan chức năng trong việc thi hành án, thực hiện một số việc chứng
thực theo quy định của Pháp luật.
Tư pháp phường là cơ quan chuyên môn, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
chính quyền cơ sở có chức năng giúp chính quyền cơ sở thực hiện tốt các nhiệm vụ
nói trên. Đồng thời Tư pháp phường chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của
các cơ quan tư pháp cấp trên, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của
ngành tư pháp nhằm đưa pháp luật vào thực tiển cuộc sống của nhân dân, nâng cao
ý thức pháp luật góp phần duy trì trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế phường
hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ và công bằng phường hội ở cơ sở.
Tư pháp phường là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp
phường, đồng thời là đơn vị cấp cơ sở của hệ thống các cơ quan tư pháp. Việc đổi
mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tư pháp là một hoạt động không
thể thiếu trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách Tư pháp, xậy dựng Nhà
nước pháp quyền của dân do dân và vì dân./.
23

×