Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO TINH THẦN CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.22 KB, 25 trang )

1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Nguyễn Trãi
Mã số:
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO TINH THẦN CHÚ TRỌNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
(Ghi đầy đủ tên gọi giải pháp SKKN)
Người thực hiện: THÁI THỊ KIM
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục 
- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn 
(Ghi rõ tên bộ môn)
- Lĩnh vực khác: 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)
Năm học: 2014 - 2015
BM 01-Bia SKKN
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
––––––––––––––––––
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: THÁI THỊ KIM
2. Ngày tháng năm sinh: 02 – 01 - 1962
3. Nam, nữ: NỮ
4. Địa chỉ:240/5 khu phố 9, Phường Tân Biên , Biên Hòa , Đồng Nai
5. Điện thoại:0613 88 1221 (CQ)/ 0613 886673(NR); ĐTDĐ: 0974725221
6. Fax: E-mail: thaithikim1962@ yahoo.com.vn
7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn


8. Nhiệm vụ được giao (quản lý, đoàn thể, công việc hành chính, công việc chuyên môn,
giảng dạy môn, lớp, chủ nhiệm lớp,…):Công việc chuyên môn
9. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trãi, Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Đại học sư phạm
- Năm nhận bằng: 1984
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy học Ngữ văn
Số năm có kinh nghiệm: 31
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong những năm gần đây:
+ Hướng dẫn học sinh tự học Ngữ văn … (Viết năm 2008).
+ Đổi mới việc kiểm tra “Miệng” - trên lớp…(viết năm 2009)
+ Vài giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở cấp THPT (viết năm 2010).
+ Phát huy tinh thần tự học của học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn 12 (viết năm
2011).
+ Thúc đẩy tính tích cực của học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Trãi trong ôn tập thi tốt nghiệp
môn Ngữ văn (viết 2012).
+ Dạy học bài “Ôn tâp phần văn học”- Ngữ văn 12 - theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra đánh giá (viết năm 2013).
+ Dạy học Ngữ văn phù hợp với từng đối tượng học sinh (viết năm 2014)
+ Dạy học Ngữ văn theo định hướng chú trọng phát triển năng lực học sinh (viết 2015)
2
BM02-LLKHSKKN
BMO3 - TMSKKN
DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO TINH THẦN CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trên cơ sở yêu cầu đổi mới việc dạy và học, từ năm học 2006 – 2007, Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã đưa vào sử dụng bộ SGK mới theo chương trình phân ban đại trà áp

dụng cho các trường THPT. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đồng thời
đưa vào sử dụng bộ SGK Tự chọn dùng cho một số phân môn trong đó có Ngữ văn.
Gần đây, và đặc biệt trong năm học 2014 – 2015, Bộ Giáo dục chọn Đổi mới Kiểm
tra đánh giá làm khâu đột phá cho việc Đổi mới Phương pháp dạy học. Trong những
đợt tập huấn cho giáo viên, Sở đã yêu cầu các GV, các tổ bộ môn của các trường tự
lựa chọn chủ đề giảng dạy, theo định hướng phát triển năng lực người học. Tuy
nhiên, các tài liệu phục vụ cho việc dạy học theo chủ đề môn Ngữ văn không nhiều và
còn ít nhiều bất cập, thời gian dành cho các tiết học cũng hạn chế thì yêu cầu đặt ra
đối với người giáo viên Ngữ văn là phải làm thế nào để tổ chức được các tiết học theo
chủ đề có hiệu quả, góp phần giúp học sinh yêu thích môn học, từ đó say mê học Ngữ
văn và lĩnh hội, nâng cao kiến thức cần thiết theo từng chủ đề của môn học. Với mong
muốn và bằng những kinh nghiệm thực tế trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn
10 của chương trình Cơ bản, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới
kiểm tra đánh giá, người viết muốn bày tỏ phần nào những suy nghĩ và những giải
pháp đã thực nghiệm về việc dạy và học các chủ đề (Ngữ văn 10 - Cơ bản) theo tinh
thần chú trọng phát triển năng lực của học sinh.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận:
- Chương trình Ngữ văn bậc Trung học phổ thông hiện hành đã ít nhiều phản
ánh những thành tựu tiên tiến của các ngành khoa học Tiếng Việt, Văn học và Làm
văn thời gian qua, đồng thời còn phản ánh thành tựu của các ngành tâm lí học và lí
luận dạy học hiện đại - đó là lấy người học làm trung tâm, dạy học theo định
hướng phát triển năng lực người học.
3
- Việc sử dụng thêm các bộ sách Tự chọn nhằm mục đích “bổ sung và nâng
cao một số kiến thức cần thiết, hệ thống hoá kiến thức theo một số chủ đề và cung cấp
thêm những tri thức cùng tư liệu thực hành cho việc giảng dạy những nội dung tương
ứng theo từng chủ đề”. Tuy vậy, trong quá trình giảng dạy, đôi khi giáo viên vẫn còn
lúng túng vì phải làm thế nào để giúp các em học sinh nhanh chóng nắm bắt được
những nội dung kiến thức mới theo từng chủ đề mà không trùng lặp với những kiến

thức cơ bản đã được đề cập trong sách giáo khoa.
- Bên cạnh đó, sách Tự chọn Ngữ Văn 10 cũng nhằm “phát triển tư duy, rèn
luyện các kĩ năng đọc - hiểu, kĩ năng tạo lập văn bản cho học sinh”. Điều này là vô
cùng cần thiết, nhất là trong mấy năm trở lại đây không ít học sinh phổ thông có tình
trạng không mặn mà với bộ môn Ngữ Văn, thậm chí là một số em chán ghét môn học
nữa. Các em cho rằng việc học văn không còn thiết thực khi xã hội dường như có sự
chú trọng hơn đến đời sống vật chất. Vì vậy, có nhiều học sinh khi đã học tới lớp 10,
thậm chí là lớp 11, 12 cũng chưa nắm vững kĩ năng đọc hiểu một văn bản hoặc cách
viết một đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.
- Với mong muốn tổ chức các tiết học Ngữ văn theo chủ đề có hiệu quả, tôi
mạnh dạn đóng góp một vài ý kiến về việc dạy theo chủ đề Ngữ văn 10, ban cơ bản.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy có những thuận lợi, khó khăn
sau:
a. Thuận lợi:
- Đầu năm học này, chúng tôi được Sở tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo đó, các giáo viên được quyền chủ
động linh hoạt lựa chọn chủ đề dạy học với nội dung tinh giản và tích hợp, không nhất
thiết phải theo thứ tự bài, tiết trong sách giáo khoa (nhưng phải đảm bảo chương trình
khung). Có điều, việc này phải được thông qua và thống nhất trong tổ chuyên môn.
- Trên thực tế, chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 hiện hành đã thực hiện
sự đổi mới. Đó là sự tiếp tục và thống nhất với chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn
ở cấp THCS. Vấn đề tích hợp ba phân môn: Văn Học, Tiếng Việt, Làm Văn ở bộ
SGK Ngữ Văn 10 - Cơ bản khá hợp lí theo thứ tự số tiết/tuần và số tuần học theo
phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Với lớp có tiết học Tự chọn Ngữ văn, giáo viên được cung cấp một số tài liệu
để nghiên cứu, phối hợp khi giảng dạy:
4
+ Tài liệu chủ đề Tự chọn nâng cao Ngữ văn 10 - NXB Giáo dục 2006 do tác
giả Bùi Minh Toán chủ biên, dùng cho cả giáo viên và học sinh.

+ Tài liệu chủ đề Tự chọn bám sát chương trình chuẩn Ngữ Văn 10 - NXB
Giáo dục 2006 do tác giả Bùi Minh Toán chủ biên, chỉ dùng cho giáo viên.
+ Ngữ Văn 10 - NXB Giáo dục 2006, gồm hai tập do tác giả Phan Trọng Luận
tổng chủ biên.
- Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể tìm thêm tư liệu trên
mạng Internet, sách báo, băng đĩa … để sử dụng trong quá trình giảng dạy.
- Ở lớp 10 có các tiết học theo chủ đề – (theo Kế hoạch bổ sung của Tổ và
thống nhất thực hiện trong toàn tổ) đa số học sinh có ý thức chuẩn bị bài, tham gia
vào các đề tài thảo luận, có chú tâm đến những vấn đề có liên quan đến bài học .
- Những chủ đề của sách Tự chọn Ngữ văn 10 tương đối bám sát chương trình
và sách giáo khoa.
- Người dạy có thể tùy theo mặt bằng chung của lớp để linh hoạt lựa chọn tài
liệu phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh.
- Bản thân người viết luôn chủ động tìm tòi những kiến thức mới, phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy theo chủ đề.
- Do điều kiện đặc thù nơi trường chúng tôi công tác, khối lớp 10 nói riêng, tất
cả các khối lớp nói chung đều học ban A, môn Ngữ văn chỉ giảng dạy chương trình
Cơ bản, nhưng nhà trường đã cung cấp cho các giáo viên trong trường cả hai bộ SGK
(Cơ bản và Nâng cao). Thực tế, giáo viên trong tổ Ngữ văn, cũng chỉ dạy theo SGK
chương trình Cơ bản của Bộ với đặc thù của nhà trường. Vì vậy, chúng tôi cũng
thuận lợi trong việc đầu tư cho giáo án dạy học theo chủ đề Ngữ văn 10 chương trình
Cơ bản.
- Qua một thời gian giảng dạy Ngữ văn theo chủ đề; dự giờ, góp ý một số tiết
của các đồng nghiệp và bản thân tự rút kinh nghiệm, đồng thời có sự đầu tư cho giáo
án theo chủ đề, tôi thấy đã phần nào đem lại hứng thú cho học sinh khi các em học
Ngữ văn theo chủ đề tự chọn.
b. Khó khăn:
- Tài liệu tham khảo về việc dạy Ngữ Văn 10 theo chủ đề tự chọn chưa thực sự
đồng bộ, còn nhiều bất cập, mặc dù các chủ đề được đưa ra giảng dạy bám sát nội
dung chương trình của sách giáo khoa nhưng lại không theo tiến trình học thực tế ở

trên lớp, theo Phân phối chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5
- Với yêu cầu chuyên môn, chúng tôi cũng sử dụng cả bộ SGK Ngữ Văn 10 -
Nâng cao để tham khảo trong quá trình giảng dạy, vì tài liệu Tự chọn Ngữ Văn 10 còn
chưa nhiều nên thực tế trong năm học này, dạy theo chủ đề tự chọn (theo định hướng
phát triển năng lực người học, mới đề xướng và thực thi trong vài năm gần đây, chứ
thực ra, việc dạy học Tự chọn theo môn học đã được thực thi nhiều năm nay, song
song với việc đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học của đợt thay sách
giáo khoa này), chúng tôi có nhiều băn khoăn trong việc lựa chọn nội dung để nâng
cao kiến thức cho học sinh trên cơ sở kiến thức cơ bản đã có trong SGK qua các tiết
học. Và theo tìm hiểu thì bước đầu, hầu như giáo viên nào cũng cảm thấy khó khăn
khi soạn giáo án theo chủ đề vì phải làm sao để học sinh nắm bắt được những kiến
thức mới, giúp các em thấy yêu thích mà không còn cảm thấy nhàm chán đối với tiết
học theo chủ đề, nhất là chủ đề tự chọn vẫn phải nằm trong chương trình khung của
Bộ.
- HS lớp 10A2 mà tôi được phân công dạy học trong năm học 2014 – 2015 này
là một lớp học tạo nguồn chuyên về ban A (luyện thi đại học các môn Toán , Lí, Hóa).
Thời gian dành cho môn Ngữ văn của các em rất hạn chế, mỗi tuần học 3 tiết theo
phân phối chương trình (học kì I), sang học kì II mỗi tuần mới có thêm 1 tiết Tự chọn.
Mặt bằng học lực về môn Ngữ văn của học sinh không đồng đều nên việc lĩnh hội
kiến thức của các em ngay trong lớp có tiết học Ngữ văn theo chủ đề cũng không
đồng đều. Chính vì thế, khi triển khai các chủ đề, giáo viên cũng khá vất vả.
Vấn đề đặt ra là, GV phải nhanh chóng nắm bắt và phân loại được trình độ học
lực của HS trong lớp do mình phụ trách. Rồi theo đó mà lựa chọn các giải pháp phù
hợp với thời gian cho phép và trình độ học lực của từng em. Tiến hành các tiết dạy
thành công trên lớp nhất thiết phải có sự hợp tác tích cực của học sinh. Muốn vậy, cần
có giải pháp phù hợp thúc đẩy học sinh quan tâm hơn tới môn học, hăng hái thực
hiện các yêu cầu mà GV đặt ra, để đạt được mục đích: Phát triển được năng lực của
từng cá nhân học sinh. Mục tiêu mà người viết bài này đặt ra với lớp 10A 2 trong năm
học này là: Chú trọng phát triển các kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng tạo lập văn bản của

tất cả các học sinh theo năng lực của từng em.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
* Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Trong cương vị là tổ trưởng chuyên môn, ngay sau các đợt tập huấn đầu năm học
2014 - 2015 của Sở, chúng tôi đã soạn thảo ra Kế hoạch bổ sung, phổ biến đến từng
cá nhân giáo viên; đồng thời tập huấn cho các GV trong tổ để họ nắm vững tinh thần
6
đổi mới, thấm nhuần và thực thi kế hoạch chung của Tổ một cách linh hoạt, sáng tạo,
phù hợp với đối tượng học sinh của từng lớp họ được phân công giảng dạy.
TRƯỜNGTHPT NGUYỄN TRÃI KẾ HOẠCH CHUYÊN MÔN
TỔ NGỮ VĂN NĂM HỌC 2014 – 2015 (BỔ SUNG)
I.MỤC ĐÍCH: Thực hiện dạy học Ngữ văn theo tinh thần đổi mới của Bộ GD và
Sở GD về:
+ Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
HS.
+ Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng kiểm tra đánh giá năng lực HS.
II.KẾ HOẠCH CỤ THỂ:
T
T
CÁC CHỦ ĐÊ VÀ KHUNG THỜI GIAN THỰC
HIỆN
Đề kiểm tra và
cách thực hiện
LƯU Ý
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12
1 Truyện dân
gian -Tuần 1 -
8
Thơ trung đại
( TK XVIII -

XIX) - Tuần 1
đến 5
Tác phẩm nghị
luận -Tuần 1
đến 6
Mỗi GV ra 01
đề đổi mới
KTĐG cho Bài
viết số 1
Các GV
phụ trách
các khối
lớp: lập
kế hoạch
cá nhân
trên cơ sở
kế hoạch
của tổ, để
thực hiện
đúng tinh
thần và
mục đích
đổi mới
dạy học,
đổi mới
kiểm tra
đánh giá
theo định
hướng
phát triển

2 Thơ ca dân
gian
Tuần 9 đến 11
Văn trung đại
(TK XVIII -
XIX) Tuần 5 đến
9
Thơ 1945- 2000
Tuần 7 đến 14
Mỗi GV ra 03
đề theo hướng
đổi mới KTĐG
cho các Bài
viết số 2, 3, 4
(mỗi bài viết
01 đề)
3 Thơ trung đại
(TK X – XVI)
Tuần 12 đến 15
Văn xuôi hiện
đại- Truyện
(1900- 1945) -
Tuần 10 đến 15
Tùy bút 1945-
2000 - Tuần 15
đến 18
4 Văn trung đại
(TK X – XVI)
Tuần 20 - 25
Kịch hiện đại

(1900- 1945)
Tuần 10 đến 15
Truyện 1945 -
1975 - Tuần 20
đến 25
Mỗi GV ra 03
đề theo hướng
đổi mới KTĐG
cho các Bài
viết số 2, 3, 4
(mỗi bài viết
5. Thơ trung đại
(TK XVII -
Thơ hiện đại-
Thơ mới (1900-
Truyện kịch sau
1975 ( Tuần 26
7
XVIII) - Tuần
26 đến 30
1945) Tuần 20 –
25
đến 28) 01 đề) năng lực
HS của bộ
GD. Lập
khung
năng lực
của từng
chủ đề
( bổ sung

vào hồ sơ
dạy học
của cá
nhân)
Chú trọng
rèn cho
HS các Kĩ
năng:
Lĩnh hội
văn bản
và Tạo
lập văn
bản
(nghe,
nói, đọc,
viết)
6 Văn học nước
ngoài - tuần 31
đến 35
Văn học nước
ngoài - tuần 26
đến 30
Văn học nước
ngoài (Tuần 29
đến 31)
7 Tiếng Việt:
Chương trình
lớp 10; thường
xuyên rèn
luyện các kĩ

năng: dùng từ,
viết câu , dựng
đoạn
Tiếng việt:
Chương trình 11;
thường xuyên
rèn luyện các kĩ
năng: dùng từ,
viết câu , dựng
đoạn
Tiếng việt:
Chương trình 12;
thường xuyên
rèn luyện các kĩ
năng: dùng từ,
viết câu , dựng
đoạn
Các phần này:
Dạy học theo
kế hoạch cá
nhân (có thể
theo phân phối
chương trình
hoặc theo chủ
đề - kết hợp
xen kẽ với tác
giả và tác phẩm
văn học).
Giáo viên: tùy
đối tượng HS,

mà lựa chọn
nội dung và
phương pháp
dạy học, ra đề
kiểm tra
thường xuyên
(miệng, 15
phút, tiết…)
phù hợp.
8 Lí luận văn
học: chương
trình lớp 10
Lí luận văn
học: chương
trình lớp 11
Lí luận văn
học: chương
trình lớp 12
9 Làm văn: Văn
tự sự, Văn
thuyết minh;
Nghị luận xã
hội (hiện tượng
đời sống, tư
tưởng đạo lí);
Nghị luận hỗn
hợp; Tạo lập
được các văn
bản theo phong
cách ngôn ngữ.

Làm văn:Nghị
luận về thơ,
Nghị luận về
truyện và kịch.
Nghị luận xã hội
(hiện tượng đời
sống, tư tưởng
đạo lí); Nghị
luận hỗn hợp;
Tạo lập được các
văn bản theo
phong cách ngôn
ngữ.
Làm văn:Nghị
luận về thơ;
Nghị luận về
truyện và kịch;
Nghị luận xã hội
(hiện tượng đời
sống, tư tưởng
đạo lí); Nghị
luận hỗn hợp;
Tạo lập được các
văn bản theo
phong cách ngôn
ngữ.
Nơi nhận: - Ban Giám hiệu – để báo cáo Ngày 15/ 9/ 2014
- Các thành viên tổ Ngữ văn- để thực hiện Tổ trưởng chuyên môn:
Thái Thị Kim



8
- Xuất phát từ cơ sở thực tiễn đã trình bày, trong sáng kiến kinh nghiệm này,
người viết muốn thông qua mục đích việc dạy Ngữ văn, hướng tới, trình bày vài giải
pháp về việc dạy học theo chủ đề Tự chọn Ngữ Văn 10 ban Cơ bản, theo định hướng
chú trọng phát triển năng lực học sinh. Cụ thể:
+ Bổ sung một số kiến thức nâng cao cần thiết bám sát chương trình.
+ Hệ thống hoá kiến thức theo một số chủ đề trọng tâm.
+ Bổ sung một số tư liệu thực hành phục vụ cho việc giảng dạy những nội
dung tương ứng theo từng chủ đề của nội dung tự chọn.
+ Tăng cường năng lực lĩnh hội văn bản và tạo lập văn bản cho học sinh.
Với mục đích trên, người viết xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm của mình
theo từng luận điểm – giải pháp, kèm theo những kinh nghiệm tự rút ra qua thực tiễn
giảng dạy.
1. Giải pháp 1: Bổ sung một số kiến thức nâng cao cần thiết:
Như đã trình bày ở trên, tiết học theo chủ đề Ngữ Văn không phải là tiết học
nhắc lại kiến thức cũ mà nhằm mục đích bổ sung và nâng cao kiến thức cho học sinh
trên cơ sở kiến thức cơ bản đã có trong SGK. Điều cần thiết ở đây là người dạy học
theo chủ đề tự chọn Ngữ Văn phải có sự đầu tư thực sự trong quá trình soạn giảng, từ
đó mới có thể bổ sung và nâng cao kiến thức cho học sinh có liên quan đến chương
trình sách giáo khoa. Trong phạm vi đề tài này, người viết xin lấy 2 ví dụ thuộc phần
Văn học và Tập làm văn.
a. Phần văn bản: Chủ đề Nguyễn Du và Truyện Kiều
Ở học kì II của chương trình Ngữ Văn 10 ban cơ bản, học sinh được tiếp tục
tìm hiểu về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều mà các em đã được học ở lớp 9 theo
hướng bám sát (cho HS trung bình) và nâng cao (cho HS khá giỏi).
Thực tế, ở bậc THCS học sinh đã được tìm hiểu khá kĩ về tác giả Nguyễn Du
và tác phẩm Truyện Kiều trước khi đi vào tìm hiểu, khai thác một số đoạn trích trong
Truyện Kiều như: Cảnh ngày xuân, Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích
… nhưng có lẽ do đến học kỳ 2 của lớp 10 (chương trình Ngữ Văn 10 - Cơ bản) các

em mới trở lại với tác giả và tác phẩm này, nên khi được giáo viên yêu cầu nhắc lại
kiến thức, hiểu biết về phần tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều, đa số học sinh không
còn nhớ hoặc chỉ còn nhớ rất ít. Đặc biệt, sách giáo khoa Ngữ văn 10 - Cơ bản giới
thiệu về Nguyễn Du tương đối kĩ nhưng không cung cấp nhiều tài liệu về Truyện
Kiều, chẳng hạn:
9
+ Phần tóm tắt tác phẩm theo bố cục ba phần không được nhắc lại.
+ SGK không nói đến sự sáng tạo Truyện Kiều của Nguyễn Du so với Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
+ Đặc biệt, những giá trị trong Truyện Kiều như giá trị hiện thực, giá trị nhân
đạo, giá trị nghệ thuật cũng không được nhấn mạnh
Điều đó khiến các em gặp không ít khó khăn khi đi vào khai thác các đoạn
trích: Trao duyên, Nỗi thương mình … Với hai tiết trên lớp khi giới thiệu về tác giả
Nguyễn Du, nếu giáo viên chỉ yêu cầu học sinh xem lại kiến thức Ngữ văn 9 và khai
thác những vấn đề mà sách giáo khoa đề cập thì thực sự là chưa đủ. Học sinh sẽ chỉ
nắm bắt rất mơ hồ về tác phẩm - mặc dù là được học lại.
Vì vậy, khi dạy học theo chủ đề Nguyễn Du và Truyện Kiều, chúng tôi đã cung
cấp thêm những kiến thức mới nhằm làm giàu thêm hiểu biết cho học sinh về tác giả
Nguyễn Du và Truyện Kiều để tạo hứng thú và sự yêu thích học tập môn Ngữ văn cho
các em.
Chẳng hạn, khi nói về Truyện Kiều, chúng tôi đã thực hiện những điều cần
thiết:
• Nhấn mạnh sáng tạo về nội dung:
“Kim Vân Kiều truyện” của Thanh tâm tài Nhân chỉ là một câu chuyện tình tầm
thường ở Trung Quốc vào đời Minh, đã được Nguyễn Du biến thành khúc ca đau lòng
khóc thương cho một kiếp người tài hoa mà bạc mệnh; ghi lại “những điều trông
thấy” trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Việt Nam thời cuối Lê đầu
Nguyễn.
Giá trị nội dung:
- Giá trị hiện thực:

+ Truyện Kiều là bức tranh chân thực sinh động về một xã hội bất công tàn
bạo, xã hội Phong Kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người, đặc biệt là những
người tài hoa, người phụ nữ.
+ Truyện Kiều phơi bày rõ nét các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ
bọn sai nha, quan xử kiện, cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng thần”,
rồi bọn ma cô, chủ chứa … tất cả đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và
phẩm giá con người.
10
+ Truyện Kiều còn cho thấy mạnh sức ma quái của đồng tiền đã làm tha hoá
con người. Đồng tiền làm cho con người và cả xã hội đảo điên:
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì
Đồng tiền chà đạp lên lương tâm con người và xoá mờ công lí:
Có ba trăm lạng việc này mới xong
- Giá trị nhân đạo:
+ Truyện Kiều là tiếng nói thương cảm, tiếng khóc đau đớn trước số phận bi
kịch của con người. Thuý Kiều - nhân vật chính trong tác phẩm là nhân vật mà
Nguyễn Du yêu quý nhất. Khóc Thuý Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau lớn
lao của một kiếp người: tình yêu tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp,
thân xác bị đày đọa …
+ Truyện Kiều đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những
ước mơ, những khát vọng chân chính.
+ Hình tượng nhân vật Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, hiếu hạnh đủ đường là
nhân vật lý tưởng, tập trung những vẻ đẹp của con người trong cuộc đời.
+ Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, chung thuỷ. Bước chân
“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Thúy Kiều đến gặp Kim Trọng đã phá
vỡ những quy tắc thánh hiền của xã hội phong kiến về sự cách biệt nam nữ.
+ Truyện Kiều là giấc mơ về tự do và công lí. Qua hình tượng nhân vật Từ
Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ về một người anh hùng “đội trời đạp đất” làm chủ
cuộc đời, trả ân báo oán phân minh, thực hiện công lí theo mơ ước của nhân dân,
khinh bỉ những “phường giá áo túi cơm”.

+ Truyện Kiều cực lực tố cáo những thế lực đen tối chà đạp, tước đoạt quyền
sống của con người
• Nhấn mạnh sáng tạo về nghệ thuật:
Truyện Kiều của Nguyễn Du là truyện thơ Nôm gồm 3254 câu lục bát, mang tính
chất tiểu thuyết bằng thơ. Trong tác phẩm, khi sáng tạo lại, ông đã lược bớt những chi
tiết dung tục và thêm một số chi tiết mới để tô đậm câu chuyện về tình người; biến
các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân
vật và người kể; chuyển trọng tâm của truyện từ kể sự kiện sang tự sự kết hợp nhuần
nhuyễn với trữ tình về cuộc đời nhân vật chính. Ngòi bút tả cảnh, tả tình, tả người rất
11
điêu luyện của Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật được khắc họa cụ thể hơn, sâu sắc
hơn, gây ấn tượng rõ nét đối với người đọc.
Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn ngữ:
+ Truyện Kiều là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật của văn học dân tộc trên tất
cả các phương diện ngôn ngữ thể loại. Với Truyện Kiều, ngôn ngữ văn học dân tộc và
thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
+ Ngôn ngữ độc thoại được vận dụng tài tình để bộc lộ nội tâm nhân vật.
+ Ngôn ngữ đối thoại thể hiện tinh tế tính cách và hoàn cảnh nhân vật.
- Tả người:
+ Nhân vật chính diện: Ngòi bút ước lệ  Là nhân vật lý tưởng hóa của
Nguyễn Du.
+ Nhân vật phản diện: Tả thực, là nhân vật hiện thực hóa của Nguyễn Du.
- Tả cảnh:
+ Những bức tranh thiên nhiên tả cảnh các mùa trong năm của Truyện
Kiều là tuyệt bút
+ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sinh động, khắc họa rõ nét nội tâm nhân vật, tình
trong cảnh ấy, cảnh trong tình này góp phần làm nên giá trị nghệ thuật đặc sắc của
Truyện Kiều.
Trên đây là những kiến thức nền, tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều

cần nắm vững. Có thể các đồng nghiệp khi đọc các dòng này sẽ bảo: ai chả dạy thế.
Nhưng với đối tượng HS của chúng tôi (ít quan tâm tới môn học xã hội nói chung,
môn Ngữ văn nói riêng) mà bước đầu các em nắm được kiến thức cơ bản là người
dạy thấy hạnh phúc lắm rồi.
* Ngoài ra, chúng tôi còn giới thiệu thêm cho HS một số bài viết hay về
Nguyễn Du và Truyện Kiều trên các báo; đọc một số đoạn mà mình tâm đắc cho HS
nghe, yêu cầu các em nhận xét, chỉ ra nội dung và nghệ thuật thể hiện trong
đó… Điều này lưu tâm hướng tới các đối tượng học sinh khá giỏi. Không tiếc điểm 9,
10 cho các em khi có những nhận xét xác đáng và tinh tế.Chúng tôi xem đây là những
đốm lửa nhỏ ban đầu của niềm đam mê và yêu thích văn chương. Hi vọng chúng có
sức lan tỏa sang các đối tượng học sinh khác.
12
Với quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Sở giáo dục qua những lần tập
huấn, chúng tôi hiểu rằng: cấp trên muốn cởi trói, trao quyền chủ động cho người dạy
trong việc lựa chọn dạy cái gì, dạy như thế nào, miễn là đáp ứng được mục đích phát
triển được năng lực học sinh (không phá vỡ chương trình khung của Bộ). Bởi vậy,
trong các giờ lên lớp, chúng tôi đã mạnh dạn phát huy sở trường của mình. Nói những
gì mình thích, và hiểu biết thấu đáo, tâm đắc nên có những lúc truyền được hứng thú
cho học sinh, nhất là với đối tượng học sinh ít nhiều yêu thích môn học.
b. Phần Tập làm văn: Chủ đề Văn Thuyết minh
Chương trình Ngữ văn 10 nhằm củng cố và nâng cao thêm một bước kiến
thức về Văn Thuyết minh cho học sinh. Thực ra, ngay từ lớp 8 bậc THCS, các em học
sinh đă được làm quen và đã làm khá nhiều bài viết về kiểu bài này, nhưng khi giáo
viên yêu cầu các em so sánh kiểu bài Thuyết minh với các kiểu bài khác như Nghị
luận Văn học, Nghị luận Xã hội … thấy kiểu bài nào khó viết hơn thì phần lớn các em
cho rằng văn Thuyết minh khó hơn. Có điều này là do các em thấy bài văn Thuyết
minh khô khan, khó diễn đạt … Điều này cho thấy do học sinh chưa nắm mục đích,
các kĩ năng làm bài văn Thuyết minh cần thiết nên các em mới thấy lúng túng khi làm
bài, cách chọn từ, câu để diễn đạt ý mình.
Vậy, khi cung cấp kiến thức nâng cao cần thiết trong các tiết dạy học theo chủ

đề Làm văn 10 - Cơ bản, chúng tôi đã nhấn mạnh những điều sau:
- Văn thuyết minh là một hoạt động mà con người vẫn thường xuyên tiến
hành trong đời sống. Đó là khi cần cung cấp, giới thiệu, giảng giải … những tri thức
hay sự hiểu biết cần thiết về một sự vật, hiện tượng nào đó trong cuộc sống quanh ta
cho những người muốn tìm hiểu, như: thuyết minh về một danh lam thắng cảnh, về
vật nuôi, về loài hoa …
- Yêu cầu:
+ Đảm bảo tính chuẩn xác.
Ví dụ:
Khi thuyết minh về vị trí điạ lí, diện tích thắng cảnh Vịnh Hạ Long, học sinh
cần biết chính xác là Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, là một phần bờ
tây vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một
phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía tây giáp đất
liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn trong các tọa độ từ 106
0
58’ - 107
0
22’ kinh độ Đông và 20
0
45’ - 20
0
50’ vĩ độ bắc, với tổng diện tích 1553 km
2
gồm
1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên.
13
+ Tình cảm phải phù hợp với chân lí khách quan:
Tình cảm với Vịnh Hạ Long có thể nảy sinh do được trực tiếp chiêm ngưỡng
vẻ đẹp đặc sắc của thắng cảnh và niềm ao ước được đến để chiêm ngưỡng nó khi nghe
giới thiệu từ một người hoặc một nguồn tin nào đó …

+ Làm giảm bớt sự khô khan, trừu tượng bằng những câu chuyện, những
chi tiết cụ thể hoặc những so sánh thú vị, bất ngờ.
Ví dụ:
Khi giới thiệu về thắng cảnh vịnh Hạ Long đặc sắc của đất nước, chắc chắn
người đọc sẽ bị lôi cuốn nếu học sinh biết lồng vào trong bài viết (thuyết minh) bởi
câu chuyện truyền thuyết về tên gọi Vịnh Hạ Long …
Sự tích vịnh Hạ Long kể rằng: Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước đã bị
giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ
giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ, vừa lúc
đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra vô số châu ngọc và thoắt biến thành
muôn ngàn đảo đá trên biển, như bức tường thành vững chắc, bất ngờ chặn bước tiến
của thuyền giặc. Đoàn thuyền của giặc đang lao nhanh, bị chặn đột ngột đâm vào các
đảo đá và đâm vào nhau vỡ tan tành. Sau khi giặc tan, Rồng Mẹ và Rồng Con không
trở về Trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến. Vị trí Rồng Mẹ xuống là Hạ
Long, nơi Rồng Con xuống là Bái Tử Long. Đuôi đàn Rồng quẫy nước trắng xoá là
Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay) thành bãi cát mịn và dài hơn chục ki – lô- mét.
- Bài thuyết minh thường được xây dựng theo một trong năm dạng kết
cấu:
+ Theo trình tự thời gian: năm tháng, mùa, buổi, lúc…
+ Theo trình tự không gian: trên - dưới, phải - trái, trong - ngoài ….
+ Theo trình tự nhận thức: từ xa tới gần, từ lạ đến quen, từ hiện tượng đến bản
chất, từ cụ thể đến trừu tượng …
+ Theo trình tự tổng hợp - phân tích: giới thiệu chung về đối tượng thuyết
minh trước, thuyết minh riêng từng mặt, từng góc độ khác nhau sau.
+ Theo trình tự chủ yếu - thứ yếu: trình bày cái chính, cái chủ yếu trước, cái
phụ, cái thứ yếu sau.
- Phương pháp thuyết minh: định nghĩa, chú thích, phân loại, phân tích, nêu
ví dụ điển hình, giải thích nguyên nhân - kết quả, dẫn tư liệu, nêu số liệu …
14
Và nếu cần thiết, giáo viên có thể giới thiệu thêm các dàn bài với những bài

văn thuyết minh theo từng chủ đề khác nhau; và cũng không quên chỉ cho học sinh
thấy sự cần thiết trong việc phối hợp các phương pháp khi làm bài văn thuyết minh để
các em có dịp đối chiếu, so sánh, tìm hướng đi cho bài văn thuyết minh của mình, từ
đó trau dồi kỹ năng làm bài văn (tạo lập văn bản) nói chung, bài văn Thuyết minh nói
riêng.
2. Giải pháp 2: Hệ thống hoá kiến thức theo một số chủ đề.
Việc hệ thống kiến thức theo một số chủ đề trong giờ học Ngữ văn sẽ giúp
cho các em học sinh dễ dàng nắm bắt tri thức một cách tổng hợp. Việc bố trí sắp xếp
các chủ đề khi dạy của cuốn “Tài liệu chủ đề tự chọn Nâng cao Ngữ Văn 10" (NXB
Giáo dục 2006) dùng cho học sinh lại không theo như phân phối chương trình Ngữ
văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điều này có nghĩa học sinh phải chấp nhận một thực
tế nếu cứ học theo thứ tự chủ đề như trong tài liệu sẽ khó cho việc tích hợp, bổ sung
và nâng cao kiến thức song hành với kiến thức cơ bản đã được cung cấp trong SGK.
Nếu như vấn đề tích hợp ba phân môn: Đọc - hiểu văn bản, Tiếng Việt, Làm Văn ở bộ
SGK Ngữ Văn 10 rất hợp lí theo thứ tự số tiết/ tuần và số tuần/ năm thì ngược lại, ở
“Tài liệu Tự chọn Ngữ Văn10” lại không như vậy. Nguyên nhân là do ở mỗi chủ đề đã
có sự tách bạch rất rõ ràng về mặt nội dung, gần như không liên quan hay lặp lại cùng
nội dung ở những chủ đề khác theo hướng tích hợp. Bởi vậy, đòi hỏi người giáo viên
cần phải biết lựa chọn từng chủ đề cho phù hợp với thực tế trong quá trình giảng dạy
Ngữ Văn 10. Giả sử, học sinh sẽ được học phần Văn học nước ngoài ở cuối học kì I,
nếu giáo viên không chú ý giới thiệu chủ đề “Những vấn đề chủ yếu của phần Văn
học nước ngoài trong chương trình Ngữ Văn 10” trước khi tìm hiểu các tác phẩm Văn
học nước ngoài thì thật thiếu sót. Bởi nếu được giới thiệu trước chủ đề này thì khi đi
vào tìm hiểu một số tác phẩm Văn học nước ngoài có trong chương trình Ngữ Văn 10
- Cơ bản, học sinh sẽ cảm thấy dễ hiểu, từ đó mới có sự thích thú vì biết thêm những
thành tựu của nhiều nền văn học trên thế giới, các tác phẩm Văn học nước ngoài sẽ
trở nên gần gũi hơn giảm bớt sự xa lạ, khó hiểu đối với các em.
Cũng vậy, sau khi dạy bài “Những yêu cầu về việc sử dụng tiếng Việt”, nếu
giáo viên không chú ý đưa vào dạy chủ đề “Những lỗi thường gặp trong việc sử dụng
tiếng Việt, thực hành sửa lỗi” trong giờ học theo chủ đề tự chọn thì học sinh sẽ không

có điều kiện củng cố để khắc sâu kiến thức bài học, bằng các bài tập nâng cao. Trong
khi, sách giáo khoa chỉ đưa ra một số bài tập và thời gian quy định cho bài học trên
lớp cũng hạn chế.
Theo lẽ thường, HS học đến lớp 10 thì việc đọc thông, viết thạo là đương
nhiên, vì các em đã được học môn Ngữ văn một cách hệ thống từ dưới lên trên. Song
thực tế, không phải tất cả các học sinh đều đạt được sự đọc thông viết thạo. Ngay cả
những học sinh có học lực khá giỏi về môn học, đôi khi không để ý vẫn mắc lỗi về
diễn đạt một cách ngớ ngẩn, chứ chưa bàn tới đối tượng yếu kém về môn học. Bởi
15
vậy, theo thiển ý của mình, chúng tôi cho rằng đưa chủ đề này vào, giúp HS hệ thống
hóa lại kiến thức cơ bản là một việc làm không thể bỏ qua.
3.Giải pháp 3: Cung cấp thêm tư liệu thực hành cho việc giảng dạy những
nội dung tương ứng theo từng chủ đề - Phần Tiếng Việt.
Đây là công việc rất quan trọng, đối với từng chủ đề thì tư liệu thực hành là
hết sức cần thiết để từ đó góp phần giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học. Quay lại
với bài “Những yêu cầu về việc sử dụng tiếng Việt” và chủ đề “Những lỗi thường gặp
trong việc sử dụng tiếng Việt, thực hành sửa lỗi”. Bên cạnh việc bổ sung các lỗi
thường gặp khi sử dụng tiếng Việt thì hệ thống các bài tập thực hành mà giáo viên
đưa ra sẽ có tác dụng khắc sâu hơn kiến thức cho học sinh.
 Một số lỗi thường gặp khi sử dụng tiếng Việt - những cách chữa cơ bản:
* Lỗi dùng từ: Có thể học sinh hay gặp các lỗi: thiếu quan hệ từ, thừa quan hệ từ,
dùng từ không chính xác, dùng từ sai phong cách trong quá trình tạo lập văn bản.
- Thiếu quan hệ từ:
VD: Đừng nên nhìn hình thức đánh giá kẻ khác.
 Sửa: Đừng nên nhìn hình thức mà đánh giá kẻ khác.
- Thừa quan hệ từ:
VD: Qua câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra” cho ta thấy công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái.
 Sửa: Câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra” cho ta thấy công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái.

- Dùng từ không chính xác:
VD: Bé Thư kiên cố không chịu đi nhà trẻ.
 Sửa: Bé Thư kiên quyết không chịu đi nhà trẻ.
* Lỗi đặt câu:
- Câu thiếu thành phần chủ ngữ.
VD: Qua tác phẩm Tắt đèn đã cho chúng ta thấy cuộc sống của người nông dân
trong xã hội cũ.
16
 Sửa: Qua tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã cho chúng ta thấy cuộc sống của
người nông dân trong xã hội cũ.
Hoặc bỏ từ Qua để biến Tác phẩm tắt đèn thành chủ ngữ.
- Câu thiếu vị ngữ:
VD: Tình cảm của chúng tôi dành cho thầy, người thầy đã cho chúng tôi những
bài học đầu tiên về cuộc sống.
 Sửa: Tình cảm của chúng tôi dành cho thầy, người thầy đã cho chúng tôi
những bài học đầu tiên về cuộc sống, luôn theo chúng tôi trong suốt cuộc đời mình.
- Câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ:
VD: Để có cơ hội nhận được việc làm như ý trong tương lai, ngay từ bây giờ,
khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
 Sửa: Để có cơ hội nhận được việc làm như ý trong tương lai, ngay từ bây
giờ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta phải học tập thật tốt.
- Lỗi thiếu vế câu ghép:
VD: Thời tiết ngày mai, nếu trời có mưa, có gió. Mà chắc sẽ là mưa, gió to vì đài
đã báo rồi.
 Sửa: Thời tiết ngày mai, nếu trời có mưa, có gió, mà chắc sẽ là mưa, gió to
vì đài đã báo rồi, chúng ta vẫn phải thực hiện kế hoạch đã đặt ra.
- Lỗi sắp xếp sai trật tự các thành phần trong câu:
VD: Chúng tôi luôn chú ý đến các hoạt động giáo dục về bảo vệ thiên nhiên và
môi trường trong nhà trường.
 Sửa: Chúng tôi luôn chú ý đến các hoạt động giáo dục trong nhà trường về

bảo vệ thiên nhiên và môi trường.
- Lỗi sử dụng sai dấu câu:
VD: Bây giờ tôi mới hiểu tại sao tôi không giải được bài toán đó?
 Sửa: Bây giờ tôi mới hiểu tại sao tôi không giải được bài toán đó.
- Lỗi về nghĩa của câu:
17
VD: Trong thanh niên nói chung và trong bóng đá nói riêng, chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể.
 Sửa: Trong thể thao nói chung và trong bóng đá nói riêng, chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể.
* Lỗi đoạn văn:
- Lạc ý:
VD: Trong ca dao Việt Nam, những bài về tình yêu nam nữ là những bài nhiều
hơn tất cả (1). Họ yêu gia đình, yêu cái tổ ấm cùng nhau chung sống, yêu nơi chôn
nhau cắt rốn (2). Họ yêu người làng, người nước, yêu từ cảnh ruộng đồng đến công
việc trong xóm, trong làng (3). Tình yêu đó nồng nhiệt và sâu sắc (4).
 Nhận xét: (1) - câu chủ đề nói về tình yêu; câu (2), (3), (4) không nói về
tình yêu nam nữ - lạc ý.
 Sửa lại nội dung câu chủ đề: Trong ca dao Việt Nam, những bài về tình
yêu đất nước là những bài nhiều hơn tất cả (1).
- Thiếu ý:
VD: Cư dân Văn Lang rất yêu ca hát, nhảy múa (1). Họ hát trong những đêm
trăng hoặc ngày hội (2). Họ còn hát trong lúc chèo thuyền, săn bắn (3). Những nhạc
cụ đệm cho những điệu hát thường là trống đồng, khèn, sáo, cồng (4).
 Nhận xét: các câu 2, 3, 4 mới đề cập đến ý 1 câu (1) mà chưa đề cập đến ý 2.
 Sửa: Cư dân Văn Lang rất yêu ca hát, nhảy múa (1). Họ múa hát trong những
đêm trăng hoặc ngày hội (2). Họ hát trong lúc chèo thuyền, săn bắn (3). Những nhạc
cụ đệm cho những câu hát, điệu múa thường là trống đồng, khèn, sáo, cồng (4).
- Lỗi lặp từ trong đoạn văn:
VD: Phía sau nhà em có một mảnh vườn. Mảnh vườn ở phía sau nhà em, em

trồng rất nhiều loài hoa. Em trồng hoa cúc. Em trồng hoa thược dược. Em trồng cả
hoa hồng nữa. Ngày Phụ nữ quốc tế, em hái hoa sau vườn nhà tặng mẹ em. Em hái
hoa tặng chị em
 Nhận xét: Việc lặp lại từ ngữ không đem lại tác dụng biểu cảm cho đoạn văn.
18
 Sửa: Phía sau nhà em có một mảnh vườn nhỏ. Em dùng chỗ đất ấy để trồng
các loài hoa: hoa cúc, hoa thược dược, và cả hoa hồng nữa. Ngày Quốc tế phụ nữ,
em hái chính những bông hoa ấy để tặng mẹ và chị của em.
• Trong quá trình dạy học theo chủ đề tự chọn này, chúng tôi đặc biệt lưu ý tới
các học sinh diễn đạt còn yếu, hay sai chính tả, gặp khó khăn trong dùng từ, đặt
câu bằng cách tạo nhiều cơ hội cho các em thực hành: Gọi các em trả lời câu
hỏi từ dễ đến tăng dần độ khó; yêu cầu các em tạo lập các loại văn bản từ ngắn
đến dài Thường xuyên uốn nắn sửa lỗi về diễn đạt cho các em. Sử dụng điểm
số như một tác nhân kích thích sự cố gắng, nỗ lực của các em – có sự phân hóa
từng đối tượng học sinh.
• Sau khi dạy học chủ đề này, các học sinh diễn đạt yếu, hay phạm lỗi diễn đạt đã
có sự tiến bộ rõ rệt. Số lỗi các em mắc phải ít dần đi trong các bài kiểm tra.
4. Giải pháp 4: Tăng cường năng lực lĩnh hội văn bản và tạo lập văn bản cho
HS.
Trong các giờ lên lớp, chúng tôi luôn có ý thức rèn luyện để tăng cường các năng
lực này cho HS. Có thể nói, đây là việc làm mà chúng tôi thực hiện một cách
thường xuyên.
Ví dụ: Khi dạy bài Thề nguyền- Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Chúng tôi, giành thời gian cho các em thảo luận để lĩnh hội nội dung và nghệ
thuật của đoạn trích (vì đây là bài đọc thêm). Sau đó yêu cầu các em thể hiện sự
cảm nhận đoạn trích bằng một bài viết ngắn (thể loại văn hay thơ tùy chọn). Nhiều
em viết khá hay. Nhưng có ba em, viết y chang từng câu chữ trong bài cảm nhận.
Chúng tôi phát hiện ra và phê vào bài của từng em như sau:
Bài của Nguyễn Thị Thu Thủy (HS lớp 10A2):
Cảm nhận mà giống y chang

Mỗi câu, mỗi ý, mỗi hàng giống nhau!
Bài của Phạm Thoại Ngân (HS lớp 10A2):
Cảm nhận mà viết như nhau
Văn chương chung ý , trùng lời vậy sao?
Bài của Đinh Việt Thắng (HS lớp 10A2):
19
Thủy, Ngân đã viết giống nhau
Cớ sao Việt Thắng viết sau cũng vầy?
Được hỏi tới, các em đều thú nhận cùng chép ở một tài liệu. Quá tức giận,
nhưng chúng tôi đã kìm lại, không quát tháo cũng không nói nhiều, chỉ nhẹ nhàng
mà kiên quyết yêu cầu các em viết lại bài bằng chính suy nghĩ của mình. Thực ra,
chỉ vì lười suy nghĩ, hoặc có thể các em cho rằng cô không đọc mới làm như thế
chăng? Sau đó, cả ba học sinh này đã viết lại bài bằng chính suy nghĩ và ngôn từ
của mình. Tuy bài viết của các em còn có nhiều lỗi, nhưng chúng tôi đã tìm những
ưu điểm trong bài để biểu dương các em, không quên chỉ ra những lỗi để các em
khắc phục.
Một tình huống khác: Có em HS khi cô yêu cầu tạo lập văn bản, viết cảm nhận
về đoạn trích Kiều, đã cắc cớ: “ Cô ơi! Cô làm mẫu trước đi để chúng em làm
theo!”. Không ngần ngại tôi nói rằng: “cô sẽ đọc các em nghe một bài cảm nhận
của riêng cô về mối tình đầu, đề cập đến tình yêu của Kim Trọng và Thúy Kiều,
có điều nghe xong em cũng phải làm được thơ đấy nhé!”. Rồi tôi đọc:
Mối tình đầu
Mối tình đầu bao giờ cũng đẹp
Rượu nước đầu luôn bốc men say
Và những lời thơ hay
Luôn là lời yêu của trai gái thuở ban đầu
Đắm say ngào ngạt
Nhưng không mấy tình đầu kết thành hoa trái!
Chẳng biết vì đâu?
Đã từ rất lâu

Nhân loại đau bởi mối tình đầu
20
Những Rô mê ô và Ju li et
Những Kim Trọng Thúy Kiều
Nếu họ được bên nhau bạc đầu
Thì còn gì cho ta nuối tiếc về sau
Và lớp lớp người vẫn cứ yêu nhau
Không có tình đầu thì làm gì có tình sau?
Con gái ơi ! Con hãy cứ yêu
Khi tình yêu làm tim con sai nhịp
Nhưng giữ được tình đầu đâu có dễ
Bởi nó không là quyền quyết định của riêng con!
Có em còn hỏi: “Nếu lỡ yêu phải người xấu thì sao cô?”
Chúng tôi chỉ trả lời đơn giản, cụ Nguyễn Du đã dạy: “Trăm năm tính cuộc vuông
tròn/ Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.” , ở trong Truyện Kiều chứ ở đâu xa!
Nghe xong, các em vỗ tay tán thưởng thích thú. Có em còn nói : “ Cô ơi! Cô đã làm
cho con cảm thấy học văn thú vị và có cảm hứng khi học văn rồi. Con cám ơn cô!”
Viết ra những dòng này, chúng tôi mong muốn nhận được ở các đồng nghiệp một
sự đồng cảm, sẻ chia về những nỗi vất vả của nghề dạy Văn, một nghề luôn đòi hỏi
sự nghiêm túc, cẩn trọng, chu đáo nếu không HS sẽ qua mặt và xem thường
mình bất cứ lúc nào!
VI. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
- Sau khi áp dụng sáng kiến nhằm tạo hứng thú, sự quan tâm, giành thêm thời
gian của học sinh đối với môn học, dạy học theo chủ đề (Ngữ Văn 10 - Cơ bản) vào
quá trình giảng dạy thực tiễn, chúng tôi thu được những kết quả khả quan như sau:
21
+ Học sinh không còn phải lúng túng, bối rối, nhàm chán vì sự trùng lặp kiến
thức giữa kiến thức cơ bản về bài học đã được cung cấp trong SGK và kiến thức trong
giờ học theo chủ đề. Trên cơ sở kiến thức cơ bản về bài học đã được cung cấp trong
SGK, các em học sinh tích cực tham gia thảo luận, hăng hái phát biểu với những đề

tài đã được chuẩn bị từ trước và tìm tòi vấn đề mới, lớp học trở nên sinh động hơn.
+ Bản thân người dạy cũng cảm thấy tự tin, chủ động, hứng thú hơn trong việc
đầu tư soạn giáo án, lên lớp. Các em học sinh tự tin hơn khi phát biểu xây dựng bài,
có nhiều thời gian để thảo luận, sáng tạo.
- Kết quả thực hiện đề tài này không những thể hiện hiệu quả ngay trong giờ
học mà còn thể hiện rõ trong kết quả kiểm tra đánh giá qua các bài kiểm tra 15 phút,
bài viết 45 phút và bài thi học kì của học sinh. Đơn cử cụ thể vài bài:
 Kết quả bài kiểm tra chất lượng đầu năm học 2014- 2015 của lớp 10A2:
(Theo số liệu ban đầu của sổ điểm cá nhân – khi chưa thực hiện giải pháp)
Tổng số HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ
39 0 0% 12 30% 21 54% 06 16%
 Kết quả bài kiểm cuối học kì I năm học 2014- 2015 của lớp 10A2:
(Theo bảng điểm kiểm tra tập trung của trường – khi đã thực hiện giải pháp)
Tổng số HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ
39 04 10% 19 49% 14 36% 02 5%
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
- Để tổ chức tiết dạy học theo chủ đề môn Ngữ văn có hiệu quả, giáo viên cần có
sự phân chia thời gian hợp lí cho từng chủ đề; chủ đề được lựa chọn đưa vào giảng
22
dạy cần có sự phối hợp nhiều nguồn kiến thức, tạo không khí thoải mái để học sinh
hứng thú học tập, không còn cảm thấy gò bó.
- Về phía học sinh, các em cần phải nắm vững kiến thức cơ bản đã được cung cấp
trong sách giáo khoa vì đó chính là nền tảng cơ sở để giúp các em nâng cao kiến thức
bộ môn cho bản thân, thông qua sự hỗ trợ của giáo viên. Bên cạnh đó, yêu cầu đặt ra
là các em cần phải chịu khó tìm tòi tài liệu, soạn bài đầy đủ và học bài trước khi đến
lớp, mạnh dạn phát biểu ý kiến khi tham gia thảo luận theo từng chủ đề. Các em tích

cực hợp tác là điều kiện đầu tiên quyết định sự thành công của việc dạy học theo định
hướng chú trọng phát triển năng lực học sinh.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 – Cơ bản và Nâng cao.
- Sách giáo viên Ngữ Văn 10 – Cơ bản và Nâng cao.
- Tài liệu chủ đề tự chọn nâng cao Ngữ Văn 10 - Bùi Minh Toán - NXB GD
(2006).
- Tài liệu chủ đề tự chọn bám sát chương trình chuẩn Ngữ Văn 10 - Bùi Minh
Toán - NXB GD (2006).
- Ngữ Văn 10 - Phan Trọng Luận - NXB GD (2006).
Biên Hòa, ngày 15 / 4 / 2015
NGƯỜI THỰC HIỆN
( Đã kí)
Thái Thị Kim
SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Trường THPT Nguyễn Tãi
–––––––––––

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
––––––––––––––––––––––––
Biên Hòa., ngày 09 tháng 5 năm 2015
23
BM04-NXĐGSKKN
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2004 - 2005
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO TINH THẦN CHÚ TRỌNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
Họ và tên tác giả: THÁI THỊ KIM Chức vụ: TỔ TRƯỞNG CHUYÊN MÔN TỔ NGỮ VĂN

Đơn vị: TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: NGỮ VĂN 
- Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành 
1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây)
- Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 
- Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay
tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 
2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây)
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả
cao 
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả 
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay
tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Trong Tổ/Phòng/Ban  Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT  Trong ngành 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống:
Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT  Trong ngành 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng:
Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT  Trong ngành 
Xếp loại chung: Xuất sắc  Khá  Đạt  Không xếp loại 
Cá nhân viết sáng kiến kinh nghiệm cam kết và chịu trách nhiệm không sao chép tài liệu của
người khác hoặc sao chép lại nguyên văn nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của mình.
Tổ trưởng và Thủ trưởng đơn vị xác nhận đã kiểm tra và ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm này đã
được tổ chức thực hiện tại đơn vị, được Hội đồng chuyên môn trường xem xét, đánh giá; tác giả

không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nguyên văn nội dung sáng kiến kinh
nghiệm cũ của chính tác giả.
Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của tác giả và người có
thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm.
NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
Thái Thị Kim
XÁC NHẬN CỦA TỔ
CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
Lê Thị Quỳnh Thương
Trần Thị Ngọc Anh
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ
họ tên và đóng dấu)
24
25

×