Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Bắc Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.41 KB, 98 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM
1.1 Vốn và hoạt động sử dụng vốn tại NHTM
NHTM là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận thông qua việc
kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu, nó là bộ phận lớn nhất trong hệ
thống trung gian tài chính với tổng tài sản có luôn có khối lượng đạt từ 70% đến
80% lưu lượng vốn, tỷ trọng chiếm khoảng 2/3 của toàn hệ thống.
1.1.1. Khái niệm về vốn tại NHTM:
Sẽ không tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hoặc không đủ
vốn. Vốn là một phạm trù rộng lớn bao gồm tiền tệ, vật tư, tài sản, nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và nhiều loại vốn hữu hình hay vốn vô hình khác
như phát minh, sáng chế, bản quyền kinh doanh, trình độ công nhân,
Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã
chỉ rõ “Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần huy động nhiều nguồn vốn sẵn có
với sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn
vốn từ bên ngoài là quan trọng”.
Nhận thức đúng đắn về phạm trù vốn và ý nghĩa của nó là cần thiết trong hành
động thực tiễn, mà trước hết là trong nghành tài chính ngân hàng – những nghành
có vinh dự và trách nhiệm lớn trong việc tạo vốn cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế, xã hội của nước ta.
Có nhiều khái niệm về vốn tùy theo quan điểm của các nhà kinh tế với các gốc
độ tiếp cận khác nhau.
Gốc độ vĩ mô : Vốn có nguồn gốc được tích lũy từ lao động thặng dư, vì vậy
vốn gắn liền với quá trình sản xuất của người lao động (MAC). Tuy nhiên theo
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
1
Khóa luận tốt nghiệp
SAMUELSON vốn bao gồm hàng hóa lâu bền được sản xuất ra và sử dụng như các
đầu vào hữu ích trong quá trình sản xuất sau đó.


Gốc độ doanh nghiệp : Vốn là số tiền ứng trước của toàn bộ tài sản hữu hình
và vô hình mà doanh nghiệp được đầu tư vào một lĩnh vực nhất định nhằm mục
đích sinh lời.
Gốc độ NHTM : Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập
hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác.
NHTM là một định chế tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, lấy
tiền tệ làm sản phẩm kinh doanh, nó cách khác vốn tại NHTM là vốn bằng tiền.
Vốn tại NHTM có quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động qua lại với các loại vốn hữu
hình, vô hình. Điều này được khẳng định rõ nhất trong điều kiện nên kinh tế thị
trường, một nền kinh tế mà ở đó quan hệ hàng hóa – tiền tệ được phát triển ở mức
cao trong lịch sử tiến hóa của nhân loại.
Thực chất, phần lớn vốn tại NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng, mà người chủ sở hữu
gửi chúng vào ngân hàng với các mục đích khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sở
hữu, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ một khoảng thu nhập. Như vậy, ngân hàng
đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng
nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát
triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh tại các NHTM.
* Phân loại vốn tại NHTM
Vốn tại NHTM bao gồm :
- Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng.
- Vốn huy động.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
2
Khóa luận tốt nghiệp
- Vốn đi vay.
- Vốn khác.
Cụ thể:

* Vốn tự có (Vốn chủ sở hữu)
Vốn tự có là nguồn vốn mà ngân hàng có thể sử dụng một cách lâu dài và cho
mọi mục đích như cho vay, đầu tư, mở chi nhánh,…và sử dụng gần như là vĩnh
viễn. Vốn tự có được xem như cái đệm an toàn để chống đỡ cho sự sụt giảm giá trị
các tài sản có. Để có thể bù đắp được sự sụt giảm của giá trị tài sản thì Ngân hàng
sử dụng vốn tự có. Chính dưới gốc độ đó, vốn tự có là nhân tố để đánh giá sức
mạnh của Ngân hàng.
Khái niệm: Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
được, thuộc sở hữu ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân
hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động
sử dụng vào các mục đích khác nhau.
Vốn tự có bao gồm:
- Vốn pháp định – Vốn điều lệ :
Vốn pháp định : là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp
luật quy định.
Vốn điều lệ : là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt
động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
Vốn điều lệ là vốn ban đầu mà Ngân hàng đem ký thác khi thành lập. Đối với
NHTM Quốc doanh, vốn này do Ngân sách Nhà Nước cấp 100%. Khi mới thành
lập Ngân hàng được cấp tối thiểu 50% số còn lại sẽ được cấp trong 5 năm tiếp theo.
Ngoài ra theo quy định của Bộ Tài chính, hàng năm người ta sẽ trích từ lãi để bổ
sung cho vốn điều lệ. Đối với các NHTM Cổ Phần, vốn điều lệ do các cổ đông
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
3
Khóa luận tốt nghiệp
đóng góp, được bổ sung bằng hai cách : Bằng lợi nhuận không chia và bằng huy
động thêm từ vốn cổ phần. Ngân hàng nào có vốn điều lệ càng thấp thì khả năng
chống đỡ rủi ro càng kém
- Vốn tự có bổ sung :

+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của
NHTM theo một tỷ lệ nhất định tùy theo luật Ngân hàng quy định, nhằm mục đích
tăng cường số vốn tự có ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài ra, vốn tự có bổ sung còn bao gồm lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các
quỹ đặc biệt khác như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố
định…
Vốn tự có của các NHTM nhằm cung cấp một vùng đệm, bù đắp sự thua lỗ và
cho phép các Ngân hàng tồn tại. Nếu xem xét vốn theo cách nhìn tĩnh tại, sự hiện
hữu của vốn tự có nhằm cung cấp vùng đệm để bù đắp rủi ro thất thoát trong cho
vay và đầu tư của Ngân hàng. Vì thế, theo kinh nghiệm nếu tỷ lệ vốn tự có so với
tài sản Có bằng 5% thì tài sản có không được phép sụt giảm trên 5% về mặt giá trị
trước khi tổ chức Ngân hàng này chính xác mất khả năng thanh toán. Hoặc tỷ lệ
này là 10% thì mức sụt giảm có thể tăng tương ứng. Vốn tự có còn nhằm cung cấp
sự đảm bảo đối với khách hàng gửi tiền không có đảm bảo và những chỉ nợ khác về
khả năng tiếp tục tồn tại và phát triển của Ngân hàng trong môi trường kinh tế khắc
nghiệt. Tiếp đến vốn tự có sẽ bù đắp các khoản lỗ cho đến khi thu nhập phát sinh
và được giữ lại để tạo thành thu nhập bổ sung. Như vậy vốn tự có của ngân hàng có
một vai trò rất quan trọng.
* Vốn huy động:
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
4
Khóa luận tốt nghiệp
Khái niệm : Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động
được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực
hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được
dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả

cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn ( tiền gửi có kỳ hạn ) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn
(tiền gửi không kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt
động kinh doanh của NHTM.
Vốn tiền gửi luôn luôn biến động, nên ngân hàng không cho phép sử dụng hết
số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng
thanh toán. Hoạt động chủ yếu của NHTM là huy động tối đa các nguồn vốn trong
xã hội để tiến hành cho vay và đầu tư nhằm mục đích thu lợi nhuận, tiếp nhận các
loại tiền gửi với số lượng nhiều ít khác nhau, với mọi thời hạn, đa dạng hóa thời
gian gửi tiền không kỳ hạn, có kỳ hạn, ngắn hạn, dài hạn.
Thành phần vốn huy động :
- Tiền gửi : Trong tổng nguồn vốn tiền gửi chiếm tỷ trọng cao nhất, thông thường
hiện nay là trên 70%
+ Tiền gửi không kỳ hạn : là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng
bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi
không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Gồm :

Tiền gửi thanh toán : là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử
dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các
khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an
toàn và thuận tiện.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
5
Khóa luận tốt nghiệp

Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy : là khoản tiền được ký gửi với mục đích an
toàn tài sản, không mang tích chất phục vụ thanh toán.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng
và ngân hàng về thời gian rút tiền. Mục đích chính của loại tiền gửi này là lãi suất
mà khách hàng có thể được hưởng. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì
lãi suất càng cao.

- Tiền gửi tiết kiệm : Là loại tiền gửi nhằm mục đích vừa an toàn vừa sinh lãi,
chủ yếu phổ biến ở khu vực cá nhân tiêu dùng. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm cơ bản
sau : TGTK không kỳ hạn (Có thể rút ra bất kể khi nào song không được sử dụng
các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác) và TGTK có kỳ hạn (có thỏa
thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn).
- Các nguồn huy động khác : Bên cạnh các nguồn huy động chính là tiền gửi,
NHTM còn sử dụng nhiều công cụ khác như : Phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái
phiếu. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định;
trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được ngân hàng
phát hành từng đợt, tùy theo mục đích với sự chấp thuận của Ngân hàng Trung
ương hoặc hội đồng chứng khoán Quốc gia.
Như vậy vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù
phạm vi sử dụng vốn huy động của các NHTM bị hạn chế so với vốn tự có, song
nếu các NHTM sử dụng tốt số vốn này thì không những nguồn lợi của ngân hàng
được tăng mà còn tạo ra cho ngân hàng có được uy tín ngày càng cao. Qua đó tạo
cho ngân hàng mở rộng được vốn và góp phần mở rộng quy mô hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
6
Khóa luận tốt nghiệp
* Vốn đi vay:
Khái niệm: Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM và NHTW, hoặc giữa
các NHTM với nhau hay các tổ chức tín dụng khác, vốn này dùng để bổ sung vào
vốn hoạt động khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn
hoạt động.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW được chia
thành các loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay để tái cấp vốn.
- Vay vốn ngắn hạn bổ sung : là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung

vốn ngắn hạn của mình. Tuy nhiên, các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín
dụng và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
- Vốn vay để thanh toán : các NHTM vay NHTW nhằm bù đắp thiếu hụt tạm
thời trong thanh toán giữa các ngân hàng.
- Tái cấp vốn : NHTW cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng
từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức phải thỏa mãn những điều kiện : hợp
pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn. Gồm hai hình thức :
+ Cho vay tái chiết khấu : NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã
chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như NHTM đã làm
+ Cho vay có đảm bảo : Là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến
NHTW để làm đảm bảo xin vay vốn.
* Vốn khác
Vốn khác là những khoản tiền nhàn rỗi tạm thời được trích ra chờ sử dụng từ
các tài khoản như : tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc
định mức,…mà ngân hàng có thể sử dụng nó vào kinh doanh.
C. Vai trò của vốn đối với NHTM
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
7
Khóa luận tốt nghiệp
Một là, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Trước hết NHTM cũng như bất cứ doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh
doanh đều phải có vốn. Vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt
động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì không thể
thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân
hàng, vốn không chỉ là điều kiện để kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu của NHTM. NHTM là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt
trên thị trường tài chính. Những ngân hàng nhiều vốn là ngân hàng có nhiều thế
mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu trình
kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức đủ vốn điều lệ

theo Luật định, thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn,
tức tạo vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Hai là, vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng.
Việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng phụ thuộc vào quy mô vốn của
mỗi ngân hàng. Thông thường, nếu ngân hàng nhỏ thì có khoản mục đầu tư và cho
vay kém đa dạng hơn. Trong khi các ngân hàng lớn hoàn toàn có thể cấp những
khoản tín dụng ở trong và ngoài nước thì ngân hàng nhỏ chỉ có thể cho vay hạn chế
trong những phạm vi nhỏ hẹp. Điều này hạn chế khả năng mở rộng thị trường và
thâm nhập vào thị trường mới.
Ba là, vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường
Thương hiệu và uy tín là một trong những điều trọng yếu nhất quyết định sự
tồn tại, khả năng mở rộng quy mô hoạt động của NHTM. Điều này thể hiện ở khả
năng sẵn sàng thanh toán, chi trả ngay khi khách hàng cần. Khả năng thanh toán
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
8
Khóa luận tốt nghiệp
càng cao thì chứng tỏ vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn (loại trừ các ảnh
hưởng từ các nhân tố khác), khi quy mô vốn càng lớn, ngân hàng càng có khả năng
mở rộng kinh doanh, uy tín ngày càng được củng cố, thanh thế trên thương trường
càng lớn mạnh.
Bốn là, vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế qua bao thập kỷ của nhân loại cũng như bao năm hoạt động của ngân
hàng ở Việt Nam đã chứng minh : Quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, trình độ công
nghệ và năng lực quản lý, điều hành cuả ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút
nguồn vốn. Vốn càng lớn thì khả năng thu hút thêm vốn càng dễ dàng, càng có
thêm nhiều mối quan hệ để mở rộng tín dụng cả về quy mô, khối lượng, thời hạn và
đối tượng khách hàng. Chính thế, doanh thu sẽ tăng lên nhanh chóng, lợi nhuận
không ngừng tăng trưởng và nguồn vốn tự có được bổ sung ngày càng nhiều, năng

lực tài chính của NHTM ngày càng được củng cố thêm vững mạnh.
1.1.2. Nội dung của hoạt động sử dụng vốn tại NHTM
Là những nghiệp vụ thuộc tài sản có, phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các
mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội
dung của nghiệp vụ này bao gồm :
1.1.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào với mục
đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ
bắt buộc do NHTW đề ra. Hoạt động này bao gồm :
- Tiền mặt tại quỹ : Gồm tiền giấy, tiền kim loại hiện có tại kho của ngân hàng
(các NHTM ở Việt Nam thì mục này chiếm tỷ trọng khá cao từ 15% - 20%, do việc
thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn nhiều hạn chế)
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
9
Khóa luận tốt nghiệp
- Tiền gửi tại các nhân hàng khác : Thường là tiền gửi để thanh toán hộ, hoặc
đổi lấy các dịch vụ khác.
- Tiền gửi tại NHNN : Gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc (theo quy định của
NHTW) và tiền gửi thanh toán của NHTM trong cùng hệ thống. Trong đó :
+ Tiền gửi bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên tài khoản
tiền gửi tại NHTW mà không được hưởng lãi, nó được xác định bằng một tỷ lệ
phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức
dự trữ bắt buộc phụ thuộc vào thời hạn tiền gửi, quy mô, tích chất hoạt động của
NHTM.
R = I * D
Chú thích : R : Mức dự trữ bắt buộc
i : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
D : Số dư bình quân tài khoản thuộc đối tượng dự trữ
kỳ xác định
Ở Việt Nam luật NHNN quy định tỷ lệ sự trữ bắt buộc từ 0% - 20% trên tổng

số tiền gửi huy động được của các TCTD. Do đó,việc quyết định cụ thể là bao
nhiêu trong từng thời kỳ phụ thuộc vào thống đốc NHNN muốn điều chỉnh nền
kinh tế thông qua chính sách tiền tệ như thế nào.
Thời gian qua, nền kinh tế có nhiều biến động, đặc biệt khủng hoảng kinh tế
toàn cầu ảnh hưởng mạnh mễ đến hầu hết các nước. Với mục đích thực hiện các
giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ
giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng có điều kiện mở rộng huy động
vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, kể cả việc cho vay đối với các dự
án đầu tư theo chương trình kích cầu của Chính phủ. Từ 1/3/2009, NHNN quyết
định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các TCTD. Tỷ lệ dữ
trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng được điều
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
10
Khóa luận tốt nghiệp
chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức tín dụng. Theo đó, các ngân hàng thương mại
nhà nước, VCB, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, Cty tài chính áp
dụng mức dự trữ bắt buộc là 3% trên tổng số dư tiền gửi, thay vì 5% như trước đây.
Với Agribank mức dự trữ bắt buộc giảm từ 2% xuống 1%. Ngân hàng thương mại
cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác giữ
nguyên là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng áp dụng cho mọi tổ chức tín dụng là 1%
trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
+ Tiền gửi thanh toán tại NHNN : Là số tiền có trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của NHTM tại NHNN. Phải duy trì loại ngân quỹ này là vì giữa các
NHTM có rất nhiều các khoản thanh toán với nhau qua NHNN.
Nhìn chung, nghiệp vụ ngân quỹ không mang lại nhiều lợi nhuận cho
NHTM song nó vô cùng quan trọng vì nó đảm bảo khả năng thanh toán và thực
hiện các nghĩa vụ tài chính khác cho NHTM. Vì vậy hạn chế được rủi ro thanh
khoản, nâng cao uy tín, tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời.

1.1.2.2. Nghiệp vụ tín dụng
Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của
các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông
qua cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế.
Các sản phẩm tín dụng :
A, Căn cứ thời hạn :
Tín dụng ngắn hạn : Là hình thức tín dụng có thời hạn dưới một năm. Thường
được dùng để bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và
nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
11
Khóa luận tốt nghiệp
Tín dụng trung hạn : là loại tín dụng được cấp để mua sắm TSCĐ, cải tiến và
đổi mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng các
công trình có quy mô nhỏm thời hạn thu hồi vốn nhanh (1-5 năm).
Tín dụng dài hạn : Được dùng để tái cấp vốn cho xây dựng cơ bản , đầu tư cho
các xí nghiệp lớn, mới thành lập, các công trình hạ tầng cơ sở, cải tiến dây chuyền,
công nghệ…với quy mô lớn (thời hạn hơn 5 năm).
B, Căn cứ hình thức tài trợ :
Chiết khấu thương phiếu : Là việc NHTM ứng tiền trước cho khách hàng
tương ứng giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để được sở hữu
một thương phiếu chưa đến hạn. (Đây là một hình thức trao đổi trái quyền)
Cho vay: Là việc ngân hàng cho khách hàng sử dụng tiền với cam kết hoàn trả
cả gốc và lãi trong thời gian nhất định.
Bảo lãnh :Là việc NHTM cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài trợ tại chính hộ
khách hàng của mình, dù không phải xuất tiền ra khỏi ngân quỹ, song ngân hàng đã
cung cấp tín dụng bằng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê : Là việc NHTM bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian sử dụng, khách hàng phải hoàn trả tài sản
và tiền thuê ngân hàng hoặc mua lại tái sản này theo thỏa thuận giữa hai bên.

C, Căn cứ vào mức tín nhiệm
Tín dụng không có TSĐB : Là khoản tín dụng chi cấp cho khách hàng có uy
tín, khách hàng thường xuyên làm ăn có lãi, có tình hình tài chính vững mạnh, ít
xảy ra tình trạng nợ nần, hoặc món vay nhỏ so với vốn của người vay. Cũng có thể
đó là các khoản vay theo chỉ định của Chính phủ, của các TCTD lớn, hoặc các
khoản vay mà NHTM có khả năng kiểm tra giám sát.
Tín dụng có TSĐB: Là hoạt động chủ yếu của các ngân hàng, cho vay có
TSĐB biệu hiện cho việc vay có cầm giữ các vật thế chấp như : Bất động sản, hàng
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
12
Khóa luận tốt nghiệp
hóa, cổ phiếu… đó là những tài sản có thể bán được, nhằm giảm bớt rủi ro cho
NHTM trong trường hợp người vay không trả được nợ.
D, Căn cứ thời hạn hoàn trả
Hoàn trả một lần: Thường áp dụng là những khoản vay ngắn hạn, cho vay
thẳng, hợp đồng yêu cầu trả ngay một lần vào thời điểm đáo hạn. Tuy nhiên, lãi thì
có thể được trả vào nhiều thời điểm khác nhau, tùy theo thỏa thuận cho vay giữa
khách hàng và ngân hàng.
Hoàn trả nhiều lần: Là hình thức cho vay mà hợp đồng vay yêu cầu việc hoàn
trả phải được thực hiện vào những thời điểm nhất định trong suốt cả thời hạn thực
hiện hợp đồng. Do đó, việc hoàn trả tránh được việc trở thành gánh nặng lớn đối
với người vay như trong trường hợp hoàn trả một lần.
E, Căn cứ chủ thể cho vay
Cho vay chính phủ: Là hình thức NHTM cho chính phủ vay để bù đắp thâm
hụt nghân sách, hoặc theo chỉ định của chính phủ chi vay các dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng.
Cho vay ngân hàng và TCTD: Là hình thức các NHTM hay TCTD vay lẫn
nhau nhằm sử dụng kịp thời cho hoạt động thanh toán tức thì, thường là vay qua
đêm.
Cho vay doanh nghiệp: Là hình thức NHTM cho các doanh nghiệp vay vốn

sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô đầu tư, hoặc thực hiện các dự án đầu tư khác.
Đây là loại khách hàng chiếm tỷ trọng vay vốn lớn nhất của NHTM.
Cho vay cá nhân: Là hình thức cho vay chủ yếu dưới hình thức cho vay tiêu
dùng, mua sắm trả góp hoặc bù đắp thiếu hụt cá nhân. HÌnh thức cho vay này ngày
càng có xu hướng tăng do nhu cầu vay tiêu dùng cá nhân đang lên.
1.1.2.3. Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
13
Khóa luận tốt nghiệp
Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các
hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường nhằm kiếm
lợi nhuận bảo tồn quỹ tiền, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh. Đây là hoạt động thứ hai mang lại nhiều lợi nhuận sau hoạt động tín dụng.
NHTM chủ động sử dụng vốn của mình để kinh doanh, nhằm tìm kiếm lợi nhuận,
nâng cao khả năng thanh khoản, đa dạng hóa danh mục sản phẩm-dịch vụ để phân
tán rủi ro…, hoặc kinh doanh cho người khác để hưởng hoa hồng với tư cách là
môi giới. Hoạt động đầu tư bao gồm : đầu tư vào chứng khoán, đầu tư liên doanh
liên kết, đầu tư vào dự án, đầu tư kinh doanh vàng và ngoại tệ….
1.1.2.4. Nghiệp vụ khác
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc
và kim khí, đã quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ ủy
thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ khác liên quan đến hoạt
động ngân hàng như : dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két,
cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật; mà ngân hàng thu được
những khoản lợi nhuận đáng kể.
1.2.Hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM
1.2.1 Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM
Theo từ điển Tiếng Việt: Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang
lại.
Bất kỳ một hoạt động nào cũng đòi hỏi chi phí và thường đạt được một số

kết quả nhất định. Mối quan hệ giữa hiệu quả đạt được và chi phí bỏ ra được gọi là
hiệu quả. Như vậy hiệu quả có nội dung rất rộng và được xem xét dưới nhiều gốc
độ khác nhau.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
14
Khóa luận tốt nghiệp
Xét về kinh tế, hiệu quả kinh tế là hiệu quả được xem xét trên khía cạnh
kinh tế của vấn đề, phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế đạt được và chi phí
bỏ ra để đạt được lợi ích đó. Biểu hiện của lợi ích và chi phí kinh tế phụ thuộc vào
chủ thể và mục tiêu mà chủ thể đặt ra. Cũng như bao hoạt động khác, hoạt động sử
dụng vốn của các NHTM cũng cần vươn tới tính hiệu quả. Vậy hiệu quả sử dụng
vốn tại NHTM là gì ?
Trước hết, hiệu quả sử dụng vốn với NHTM mà không gắn liền với sự
tăng trưởng của nền kinh tế thì hiệu quả đó sẽ là hiệu quả cục bộ. Do đó, trong bất
kỳ trường hợp nào, đầu tư vốn tại NHTM cũng phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, phù hợp với định hướng mục tiêu của Nhà Nước. Tuy nhiên, ngân hàng
không thể cho vay thiếu sự tính toán, cân nhắc trên cơ sở các dự án có tính khả thi.
Hiệu quả sử dụng vốn đối với NHTM phải được xác định cả về định lượng và định
tính.
Thứ hai, hiệu quả sử dụng vốn đối với NHTM còn phải đảm bảo thực hiện
mục tiêu của nguồn vốn huy động. Chẳng hạn, mục tiêu của nguồn vốn huy động là
để cho vay xóa đói giảm nghèo, có hoàn trả, không hoàn trả, có lãi suất, không lãi
suất, thời hạn dài hay ngắn,…tùy theo tính chất của từng nguồn vốn.
Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn đối với NHTM còn phải thực hiện có hiệu
quả các cơ chế về đầu tư vốn tại NHTM.
Từ những phân tích trên, ta có thể rút ra những nhận thức về hiệu quả sử
dụng vốn tại NHTM như sau:
Một là, hiệu quả sử dụng vốn đối với NHTM là bộ phận không thể tách
rời của hiệu quả tái sản xuất xã hội. Quá trình thực hiện đầu tư vốn tại NHTM thể
hiện thời điểm tạm thời của quá trình tái sản xuất, đảm bảo hiệu quả cao hơn của

mỗi chu kỳ tái sản xuất tiếp theo.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
15
Khóa luận tốt nghiệp
Mức độ hiệu quả của nền kinh tế quốc dân chịu ảnh hưởng không chỉ bởi
hoạt động của việc sử dụng phương tiện đầu tư, mà còn do các nhân tố khác tác
động như là việc sử dụng các nguyên liệu và năng lượng thích hợp nhất, sự phân
công lao động quốc tế,…Vì thế trong phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM
cần phải coi hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM có hiệu quả cao nhất là góp phần sử
dụng kinh tế nhất các nguồn vốn xã hội, thiên nhiên, con người và kỹ thuật, nó đảm
bảo trình độ cao nhất của sự thỏa mãn nhu cầu của hiện tại và tương lai không
ngừng tăng lên của xã hội từ việc thực hiện đầu tư vốn này.
Việc nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn đối với NHTM không thể tách
khỏi toàn bộ vấn đề hiệu quả kinh tế quốc dân. Vì thế, tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng
vốn tại NHTM phải gắn liền với tiêu chuẩn hiệu quả phát triển kinh tế quốc dân
trong một tổng thể.
Hai là, hiệu quả sử dụng vốn đồng nghĩa với việc đạt được sự thống nhất
về lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng. Tức là khi lợi ích của các chủ thể tham
gia vào dự án này được kết hợp một cách hài hòa. Nếu lợi ích của một chủ thể nào
đó bị vi phạm, hoạt động đó sẽ bị ảnh hưởng không thể trôi chảy được. Hoạt đông
kinh doanh của các ngân hàng luôn gắn liền với việc thực hiện các lợi ích của ngân
hàng và lợi ích của khách hàng. Đó là mối quan hệ tạo tiền đề để hỗ trợ nhau cùng
phát triển. Khi khách hàng có phát triển thì hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM mới
được thực hiện trên cả hai phương diện định lượng và định tính.
Ba là, thực hiện tốt mối quan hệ giữa mục tiêu của vốn đầu tư vốn tại
NHTM và tiêu chuẩn hiệu quả. Theo nguyên tắc này, mục tiêu là tiêu chuẩn để xá
định hiệu quả kinh tế, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế - xã hội
thay đổi. Mỗi chủ thể có mục tiêu khác nhau khi tham gia hoạt động đầu tư vốn.
Mục tiêu của mỗi chủ thể cũng thay đổi tùy theo từng thời kỳ. Nếu một NHTM coi
nâng lợi nhuận là tiêu chuẩn hàng đầu thì tiêu chuẩn cơ bản để nâng cao hiệu quả

Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
16
Khóa luận tốt nghiệp
kinh tế là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư vốn đó. Còn
khi ngân hàng không nhấn mạnh yêu cầu về lợi nhuận mà nhấn mạng mục tiêu
trước mắt là phải thu hút khách hàng và mở rộng đầu tư vốn thì tiêu chuẩn để đánh
giá hiệu quả là số lượng dự án đầu tư và số lượng khách hàng được đầu tư,…
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù phản ánh trình độ và khả năng
sử dụng vốn nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất kết hợp với việc hạn chế rủi ro.
Nghĩa là về mặt lượng , hoạt động sử dụng vốn biểu hiện giữa kết quả thu được (số
lượng, thời gian) với chi phí bỏ ra. Còn về mặt vật chất là phản ánh năng lực và
trình độ quản lý của ngân hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM
1.2.2.1 Nhóm chỉ tiêu chung đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Thứ nhất: Lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng kinh doanh, là thước
đo chính xác nhất hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của một ngân hàng.
Đây là mục tiêu đầu tiên và cũng là cuối cùng, là điều kiện tồn tại và phát triển của
bản thân ngân hàng.
Lợi nhuận được hiểu đơn giản là phần giá trị dôi ra của hoạt động kinh
doanh sau khi đã trừ đi mọi chi phí (kể cả thuế).
Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng chi phí
Mọi yếu tố làm tăng doanh thu, giảm chi phí đều có tác động làm tăng
lợi nhuận và ngược lại. Do vậy, để nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng
vốn NHTM phải quản lý chặt chẽ nguồn thu nhập và chi phí trong quá trình hoạt
động kể cả ngắn hạn và dài hạn của mình.
Thứ hai: Các chỉ số sinh lời
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
17
Khóa luận tốt nghiệp

- Tỷ suất lợi nhuận / Tài sản Có (ROA): Chỉ số này giúp cho nhà quản lý thấy
được khả năng của ban điều hành ngân hàng trong việc tận dụng các nguồn vốn để
tạo ra thu nhập, nghĩa ra là chỉ số này cho thấy cứ một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận cho ngân hàng. ROA càng lớn thì chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng càng tốt, ngân hàng đã có cơ cấu tái sản hợp lý, đã có sự điều chỉnh linh
hoạt giữa các hạng mục trên tài sản Có trước những biến động của nền kinh tế. Tuy
nhiên, chỉ số này quá lớn lại là đáng lo ngại vì rủi ro luôn song hành với lợi nhuận.
Mặt khác chỉ tiêu này chỉ cho phép đánh giá được một phần tính hiệu quả của hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Vì thế nếu chỉ căn cứ vào ROA thì không thấy
được mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và rủi ro ngân hàng, đặc biệt là những
nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Lợi nhuận sau thuế
ROE = x 100%
Vốn chủ sở hữu
Đây là chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng một đồng vốn tự có của các
NHTM. Nó cho biết lợi nhuận ròng mà các cổ đông có thể nhận được từ việc đầu
tư vốn của mình, cứ mộ đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho
ngân hàng. ROE quá cao không hẳn là dấu hiệu tốt vì khi đó có thể ngân hàng sử
dụng chủ yếu các nguồn lực bên ngoài ngân hàng hay nói cách khác là phụ thuộc
quá nhiều vào nguồn vốn bên ngoài mà nội lực lại không đáng kể.
- Lợi nhuận ròng / Tổng thu nhập : Chỉ số này cho biết hiệu quả của một đồng
thu nhập, đồng thời đánh giá hiệu quả quản lý thu nhập của ngân hàng, khả năng
cạnh tranh, vị thế tài chính trước những biến động của lãi suất, tỷ giá, các chính
sách tiền tệ, tài khóa, cũng như quy mô hoạt động của ngân hàng.
Thứ ba : Hệ số sử dụng vốn

Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
18
Khóa luận tốt nghiệp
Tổng vốn sử dụng

Hệ số sử dụng vốn = x 100%
Tổng nguồn vốn
Hệ số này phản ánh khả năng tận dụng vốn so với tổng nguồn vốn, tỷ số
này càng cao thì càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng càng tốt.
1.2.2.2 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn hoạt động tín dụng

Các chỉ tiêu quy mô đầu tư và cho vay:
Theo điều 3 quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với KH, hoạt động cho vay được hiểu như sau:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
KH sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
theo thoả thuận, với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi”
Thứ nhất: Doanh số cho vay
Đây là các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khái quát đối với những khoản
vay của NHTM tại một thời điểm được xác định. Với chỉ số này chúng ta biết được
khả năng luân chuyển và sử dụng vốn, đồng thời cũng phản ánh quy mô đầu tư và
khả năng cho vay nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định của một NHTM. Ngoài ra
doanh số cho vay còn là cơ sở để xác định chính xác vòng quay vốn tín dụng ngắn
hạn của ngân hàng.
Thứ hai: Dư nợ cho vay và tốc độ tăng dư nợ cho vay
Là số tiền tại một thời điểm cuối kỳ kế hoạch, phản ánh mối quan hệ
giữa ngân hàng và khách hàng, thể hiện số tiền mà ngân hàng đã cung ứng cho nền
kinh tế vẫn chưa thu hồi về tại một thời điểm. Đây cũng là chỉ tiêu cho thấy mối
quan hệ với doanh số cho vay và khả năng cung ứng vốn của NHTM với nhu cầu
của nền kinh tế.
Dư nợ Dư nợ Doanh số Doanh số
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
19
Khóa luận tốt nghiệp

= + -
Cuối kỳ đầu kỳ cho vay thu hồi nợ

Dư nợ cho vay kỳ này
Tốc độ tăng dư nợ cho vay = ( - 1 ) x 100
Dư nợ cho vay kỳ trước
Dư nợ cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng của
NHTM, còn tốc độ tăng dư nợ thể hiện khả năng mở rộng quy mô đầu tư tín dụng
qua các thời kỳ. Dư nợ cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng cho thấy khả năng mở
rộng tín dụng của NHTM. Đây là tình hình tốt đối với NHTM. Tuy nhiên, đây mới
chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của NHTM
mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích với các chỉ tiêu khác.
Thứ ba: Hệ số sử dụng vốn
Là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng vốn so với tổng nguồn vốn. Hệ số
sử dụng vốn càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của NHTM càng cao và
ngược lại.
Vốn tín dụng
Hệ số sử dụng vốn = x 100%
Tổng nguồn vốn
Hệ số sử dụng vốn luôn nhỏ hơn 1. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ ngân
hàng đã không sử dụng tốt nguồn vốn. Tuy nhiên nếu hệ số sử dụng vốn quá gần 1,
hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ không an toàn do không đảm bảo được khả
năng thanh toán bất thường của khách hàng.
* Các chỉ tiêu chất lượng tín dụng

Doanh số thu nợ:
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
20
Khóa luận tốt nghiệp
Là tổng số tiền ngân hàng thu lại được gồm gốc và lãi các khoản cho vay

trong một thời kỳ. Số tiền cho vay có thể cho vay ở các kỳ trước hoặc trong kỳ đó.
Đây là chỉ tiêu phán ánh tương đối chính xác về chất lượng hoạt động tín dụng của
ngân hàng.

Tỷ lệ nợ quá hạn:
Là chỉ tiêu phản ánh chất lượng một khoản cho vay và khả năng bảo đảm
của khoản vay đó trong một thời gian nhất định, thực chất nó cho biết sự luân
chuyển lượng tiền mặt trong một ngân hàng, chất lượng của doanh số thu nợ. Nhìn
vào đó có thể đánh giá tính chất , trình độ cán bộ tín dụng và khả năng quản lý của
nhà quản trị ngân hàng, cũng như sự biến động của nền kinh tế. Theo kiến nghị của
Ngân Hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là đảm bảo.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì NHTM càng gặp khó khăn trong
kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận,
tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp. Nhưng nếu ngân
hàng chỉ chú trọng vào việc giảm và duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không
tăng được thu nhập thì không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng chỉ thực sự có ý
nghĩa khi nó làm tăng doanh thu của ngân hàng.
Ngoài ra để đánh giá cụ thể hơn, người ta có thể phân chia nợ quá hạn
theo thời gian để thuận tiện trong quản lý. Cụ thể:
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
21
Khóa luận tốt nghiệp
TL nợ quá hạn có khả năng thu hồi = x 100%
Nợ quá hạn

Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi

TL nợ quá hạn không có khả năng thu hồi= x100%
Nợ quá hạn
Hai chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn có
khả năng thu hồi, bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn không có khả năng
thu hồi. Do vậy, sử dụng thêm chỉ tiêu này cho phép đánh giá đúng hơn chất lượng
tín dụng.

Vòng quay vốn tín dụng:
Là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả
năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong đáp ứng nhu cầu
khách hàng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn =
Dư nợ tín dụng
Chỉ số này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của chi nhánh nhanh
hay chậm, chỉ số này càng lớn chứng tỏ chi nhánh hoạt động tín dụng hiệu quả, có
khả năng kiểm soát nợ tốt, công tác thu nợ hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn cao.
1.2.2.3 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn khác

Tăng trưởng ngân quỹ dự trữ thanh toán
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
22
Khóa luận tốt nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh tình trạng ngân quỹ của ngân hàng, cơ cấu tiền tệ có
thể dùng để đáp ứng khả năng về tiền mặt cho nhu cầu thanh toán hay không. Đánh
giá chỉ tiêu này tại NHTM ngoài việc có thể nhận ra khả năng thanh toán tức thời
còn cho thấy sức mạnh tài chính của ngân hàng.

Doanh số mua bán ngoại tệ
Hiệu quả các hoạt động đầu tư, kinh doanh ngoại tệ được phản ánh qua các

chỉ tiêu tổng doanh số mua bán, doanh số đầu tư.

Tốc độ tăng trưởng đầu tư góp vốn, mua cổ phần, đầu tư chứng
khoán
Chỉ tiêu này đánh giá năng lực mở rộng hoạt động đầu tư, đa dạng hóa
hoạt động kinh doanh của đơn vị. Tăng trưởng dư nợ đầu tư góp vốn, đầu tư chứng
khoán, mua cổ phần nhưng phải đảm bảo tuân thủ các giới hạn theo quy định tại
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của NHNN ban hàng quy
định về việc góp vốn mua cổ phần của TCTD. Cụ thể: Mức đầu tư góp vốn, mua cổ
phần của TCTD vào một khoản đầu tư thương mại tối đa không vượt quá 11% vốn
điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá trị dự án đầu tư.
Mỗi loại chỉ tiêu trên, trên từng góc độ nhất định đều phản ánh hiệu quả
sử dụng vốn tại NHTM. Tùy từng trường hợp cụ thể mà các NHTM vận dụng chi
tiêu nào để đánh giá trên từng gốc độ khác nhau cho thích hợp và nhấn mạnh chỉ
tiêu này hay chỉ tiêu khác.
1.2.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM
NHTM hoạt động kinh doanh muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi hoạt động
phải có hiệu quả. Trong đó hoạt động sử dụng vốn là một trong những hoạt động
kinh doanh chủ yếu của NHTM. Vì vậy, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn phải
đảm bảo các nội dung chủ yếu sau:
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
23
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ nhất, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn do yêu cầu hoạt động kinh
doanh của NHTM
Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại NHTM là nhằm đảm bảo cho
NHTM thực hiện tốt chức năng kinh doanh tiền tệ gắn liền với các nghiệp vụ trong
kinh doanh, đảm bảo ngân hàng tồn tại và phát triển. Để thực hiện được mục tiêu
này đòi hỏi NHTM phải đảm bảo được các yêu cầu:
- Hoạt động sử dụng vốn tại NHTM vừa phải đảm bảo tính khách quan, phù

hợp với các chức năng vốn có của NHTM trong nền kinh tế, vừa phải thể hiện được
tính chủ quan, gắn với hoạt động của NHTM theo định hướng của Nhà nước trong
từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
- Đảm bảo những lợi ích hài hòa trong mối quan hệ giữa các NHTM, các tổ
chức tín dụng, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư, gắn liền với lợi ích của Nhà
nước.
- Đảm bảo cho NHTM thực thi các chính sách tiền tệ, tín dụng của Ngân hàng
Nhà nước một cách có hiệu quả, hoạt động kinh doanh có lãi…
- Đảm bảo cho các NHTM đề phòng, hạn chế được những rủi ro trong kinh
doanh có nguồn gốc từ nhiều phía đưa lại.
Thứ hai, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn là đòi hỏi của phát triển nền
kinh tế - xã hội
Lịch sử hình thành và phát triển kinh doanh của ngân hàng cho ta thấy
vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa đang
ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa,
kinh doanh ngân hàng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện
giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch trong xã hội. Trong điều kiện đó, tăng
cường hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề ngày càng được quan tâm.
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
24
Khóa luận tốt nghiệp
- Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn làm cho hoạt động kinh doanh ngân hàng
ngày càng được mở rộng về khối lượng; đồng thời chất lượng cũng ngày càng được
nâng cao.
- Đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện để ngân hàng làm tốt chức năng
trung tâm thanh toán, vì khi chất lượng sử dụng vốn được đảm bảo sẽ tăng vòng
quay vốn tín dụng; nó tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín
dụng trong nền kinh tế quốc dân. Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần điều
hòa vốn trong nền kinh tế.
- Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa

trong lưu thông; nó góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh
tế, tăng uy tín quốc gia. Đồng thời, thông qua các công trình đầu tư vốn phát huy
tác dụng, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh tế, làm tăng uy tín quốc gia.
- Ngân hàng là một trong những công cụ đển thực hiện các chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội theo từng nghành, từng lĩnh vực.
Nâng cao chất lượng sử dụng vốn trên cơ sở tăng cường hiệu quả sử dụng vốn sẽ
góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các
nghành, các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế.
- Hoạt động kinh doanh ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế -
xã hội. Để có chất lượng hoạt động kinh doanh ngân hàng, hiệu quả sử dụng vốn
ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM, đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và phải
có một cơ chế chính sách phù hợp, sự phối kết hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các
cấp, các nghành tạo một trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các NHTM
Khi tăng cường hiệu quả sử dụng vốn không những nó có tác dụng với
phát triển kinh tế - xã hội mà còn đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Bời
vì thông qua nó :
Sinh viên: Phan Thị Diệu Huyền Líp TCDN A – K8
25

×