Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn (2).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.79 KB, 77 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Đứng trước những thách thức của tiến trình hội nhập, và xu thế toàn
cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam, và đặc biệt là hệ thống Ngân Hàng Thương
Mại nói riêng phải tìm kiếm những hướng đi mới phù hợp để vừa có thể
đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của khách hàng, vừa khẳng định vị thế của
mình trên thị trường. Đặc biệt trong năm 2006 vừa qua khi nước ta gia
nhập WTO, năm đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của ngành Ngân
hàng Việt Nam, các hoạt động tín dụng phát triển mạnh và phát huy hết thế
mạnh để làm động lực thúc đẩy nền kinh tế quốc dân vận động theo hướng
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa. Việc khai thông nguồn vốn đối với hoạt
động huy động vốn của các Ngân Hàng Thương Mại đặt ra rất cấp thiết.
Các ngân hàng hiện nay hoạt động đòi hỏi phải có hiệu quả cao chính vì
vậy vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm “từ đâu?” mà phải
“như thế nào?” và “bằng cách gì?” để có hiệu quả cao nhất.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt
động của Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thục tế tại Chi
nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn,
em đã chọn đề tài : “Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
Chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông
Sài Gòn.”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.
Dựa vào cơ sở phân tích thực trạng công tác huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn
để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại từ đó đưa ra các giải pháp và kiến
Trang 1
nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của Chi nhánh Ngân
Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn.


Phạm vi nghiên cứu: Các số liệu trong bảng tổng kết tài sản và báo
cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn từ năm 2008 đến năm 2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Sử dụng phương pháp: So sánh, phân tích, lý luận.....
5. BỐ CỤC.
Kết cấu của Khóa Luận gồm 3 phần chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động vốn trong hoạt động kinh
doanh của Ngân Hàng Thương Mại.
Chương 2: Phân tích thực trạng công tác huy động vốn của Chi
nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Sài Gòn.
Trang 2
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
  
Trang 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1. Khái niệm về Ngân Hàng Thương Mại.
Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta
thường phải dựa vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Theo Luật của các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam: “Ngân hàng là tổ

chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán”.
“Ngân Hàng Thương Mại là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn
bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan
vì mục tiêu lợi nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà
nước”.
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng khi phân tích khai
thác nội dung của các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các Ngân Hàng
Thương Mại đều có chung một tính chất, đó là: việc nhận tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch
vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng.
Trang 4
1.1.2 Vai trò của ngân hàng thương mại.
Từ khái niệm về Ngân Hàng Thương Mại nêu trên áp dụng vào thực
tế nước ta, một nước có hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát
triển sản xuất theo chiều hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa rất cần đến
Ngân Hàng Thương Mại với vai trò to lớn của nó. Nhất là khi quá trình
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa của chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu
cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền,
thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế năm thì vai trò của các
Ngân Hàng Thương Mại càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
 Ngân Hàng Thương Mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân,
doanh nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn
phải tăng thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập
quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy

mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế. Điều đó muốn làm
được lại cần có vốn. Ngân Hàng Thương Mại chính là người đứng ra tiến
hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành
phần kinh tế...
Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi
mới qui trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả
kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh
cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế càng phát triển. Như vậy với
khả năng cung cấp vốn, Ngân Hàng Thương Mại đã trở thành một trong
những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Trang 5
 Ngân Hàng Thương Mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị
trường, giúp cho các nhà kinh doanh trong xây dựng chiến lược quản
lý doanh nghiệp.
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị
trường đầu ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động
kinh doanh nào, doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào
nhằm thực hiện thành công chiến lược 5P: Product (sản phẩm), Price (giá
cả), Promotion (giao tiếp, khuyếch trương), Place (địa điểm) và People
(con người).
Từ đó tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận.
Quy trình đó chỉ được bắt đầu khi doanh nghiệp trang bị được đầy đủ vốn
cần thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài
chính. Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm vốn phục vụ chính họ. Nguồn vốn tín
dụng của Ngân Hàng Thương Mại sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết
những khó khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thoả mãn tối đa
nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng loại, chất
lượng, thời gian, địa điểm... Ngân Hàng Thương Mại sẽ là cầu nối giữa
doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.

 Ngân Hàng Thương Mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với
nền tài chính quốc tế.
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò này
ngày càng thể hiện rõ rệt hơn. áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc
gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là
tiềm lực về tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền tài chính
của một quốc gia với phần còn lại của thế giới ? Câu hỏi đó sẽ được giải
đáp nhờ vào hệ thống các Ngân Hàng Thương Mại vì hệ thống này có khả
năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ
nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp
Trang 6
vụ hối đoái, cho vay uỷ thác đầu tư... giúp cho luồng vốn ra, vào một cách
hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là
một trong những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các
quốc gia trên thế giới.
 Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế vì hoạt động Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm
phát qua con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ
tăng tỉ lệ vào dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị
trường mở để thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền
trong lưu thông. Các Ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông
qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Ngân hàng xác định được hướng đầu
tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hưởng đến nền
kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà
lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.1.3. Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có của Ngân Hàng Thương Mại.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình tạo vốn của mà cụ thể là hình
thành nên nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại. Nguồn vốn của Ngân
Hàng Thương Mại bao gồm:

*Vốn tự có:
Vốn tự có là vốn riêng có của Ngân Hàng Thương Mại. Vốn này tuy
chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn của Ngân Hàng Thương Mại song lại là
điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Mặt khác, với
chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như là tài sản đảm bảo gây lòng tin
đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân
hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có cũng là căn cứ để tính toán các tỷ lệ đảm bảo
an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Trang 7
Trong thực tế, vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt
động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng
góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng
Thương Mại, đồng thời góp phần vào nâng cao vị thế của Ngân Hàng
Thương Mại trên thương trường.
Như vậy, vốn tự có là nguồn vốn ổn định, ngân hàng sử dụng một
cách chủ động. Do đó vấn đề đặt ra là ngân hàng phải bảo toàn và không
ngừng tăng vốn tự có của mình theo yêu cầu của sự phát triển hoạt động
kinh doanh theo đúng chính sách, chế độ. Đồng thời phải sử dụng vào các
mục đích đã định.
* Nghiệp vụ huy động vốn:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được
từ các TCKT (Tổ chức kinh tế) và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh
doanh.
Vốn huy động là công cụ chính đối với các hoạt động kinh doanh
của các Ngân Hàng Thương Mại. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng và giữ vị trí quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn,
song nếu các Ngân Hàng Thương Mại sử dụng tốt nguốn vốn này thì không
những nguồn lợi của ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng uy

tín ngày càng cao. Qua đó ngân hàng có thể mở rộng được vốn và mở rộng
qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn huy động của
ngân hàng bao gồm: Tiền gửi doanh nghiệp, tiền gửi dân cư, phát hành giấy
tờ có giá.
* Nghiệp vụ vốn đi vay:
Trang 8
Đối với nghiệp vụ này các Ngân Hàng Thương Mại tiến hành tạo
vốn cho mình bằng cách vay của các TCTD (Tổ chức tín dụng) trên thị
trường tiền tệ và NHTW (Ngân Hàng Trung Ương) dưới hình thức tái chiết
khấu hay vay có bảo đảm, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản
thân Ngân Hàng Thương Mại khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở
khai thác tại chỗ. Thực tế cho thấy, chi phí của vốn đi vay thường cao hơn
chi phí của vốn huy động tại chỗ. Tuy nhiên, tính chủ động của vốn đi vay
lại cao hơn vốn huy động tại chỗ.
* Nghiệp vụ tạo vốn khác:
Trong quá trình là trung gian thanh toán, các Ngân Hàng Thương
Mại cũng tạo được một khoản gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài
khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các
khoản tiền phong toả do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại...
Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản
khác chờ sử dụng, tạm thời coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, ngân hàng thu hút được một lượng vốn
đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các
TCTD khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư...
Do đó ngân hàng có thể sử dụng tạm thời những tài khoản đó vào kinh
doanh.
Để mở rộng nghiệp vụ này các Ngân Hàng Thương Mại cần chú
trọng đến phát triển các dịch vụ và không ngừng nâng cao uy tín của mình
trên thương trường.
 Nghiệp vụ tài sản có:

Trang 9
Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích
nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các Ngân Hàng
Thương Mại. Nội dung nguồn vốn này gồm:
* Nghiệp vụ ngân quỹ
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của ngân hàng đảm bảo
an toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do
NHTW đề ra. Vì một trong những chức năng của Ngân Hàng Thương Mại
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả. Khoản dự trữ này
do NHNN (Ngân Hàng Nhà Nước) qui định theo một tỷ lệ nhất định trên
tổng tiền gửi. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc này thay đổi theo từng thời kỳ nhằm
thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Những khoản này gồm: tiền mặt tại quĩ, tiền gửi tại NHNN (dự trữ
bắt buộc và tiền gửi đảm bảo khả năng thanh toán), các chứng khoán có
tính thanh khoản cao.
* Nghiệp vụ cho vay
Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng sinh lời cao cho
ngân hàng. Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Nghiệp vụ cho vay bao gồm các khoản sinh lời thông qua cho vay
ngắn hạn, trung và dài hạn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay nhằm giải quyết thiếu hụt
vốn tạm thời trong kinh doanh của khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu
đầu tư vào tài sản lưu động. Ở Việt Nam hiện nay thường cho vay ngắn hạn
theo hai phương thức:
+ Cho vay theo hạn mức: áp dụng cho những khách hàng vay trả
thường xuyên có vòng quay vốn nhanh.
Trang 10
+ Cho vay từng lần: áp dụng cho những khách hàng vay trả thường
xuyên và có vòng quay vốn chậm.
+ Cho vay trung - dài hạn: là hình thức cho vay mà tiền vay được cấu

tạo vào tài sản cố định. Đây là loại cho vay có thể nhận trức tiếp bằng tiền
hoặc cho vay thông qua tài sản - nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận cơ bản cho ngân hàng, nhưng
đồng thời nó cũng mang lại rủi ro rất cao cho nên ngân hàng luôn xem xét
kỹ lưỡng tới từng món vay và từng đối tượng khách hàng vay để chỉ đảm
bảo an toàn cho các khoản vay.
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Các Ngân Hàng Thương Mại thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn
của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng
khoán trên thị trường... với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa
dạng hoá các hoạt động kinh doanh.
* Nghiệp vụ tài sản có khác
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: uỷ thác, đại lý, kinh
doanh và dịch vụ bảo hiểm, thực hiện các dịch vụ tư vấn, ngân quĩ... và các
dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như dịch vụ bảo quản hiện
vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ và nhiều dịch vụ khác theo qui
định của NHNN Việt Nam giúp cho Ngân hàng thu được những khoản lợi
đáng kể.
 Nghiệp vụ khác
* Nghiệp vụ trung gian
Trang 11
Là nghiệp vụ của ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng
thông qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Nền kinh
tế càng phát triển thì dịch vụ này càng mở rộng. Gồm có:
- Ngân hàng tiến hành chuyển tiền cho khách hàng, thanh toán hộ
khách hàng về các khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi
hộ khách hàng bằng hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín
dụng...
- Ngân hàng đóng vai trò làm trung gian trong việc mua bán hộ cho
khách hàng.

- Ngân hàng làm đại lý phát hành và bán chứng khoán cho công ty.
* Nghiệp vụ ngoại bảng
Là những khoản dùng để phản ánh những tài sản tạm thời để ở ngân
hàng nhưng không thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Ngoài ra, các khoản
này còn phản ánh một số chỉ tiêu kinh tế đã được phản ánh ở các tài khoản
trong bảng cân đối kế toán những đơn vị cần theo dõi để phục vụ yêu cầu
quản lý nợ khó đòi đã xử lý, chi tiết ngoại tệ...
Về nguyên tắc, các tài khoản thuộc loại này đều ghi “đơn” tức là chỉ
ghi vào bên nợ hoặc bên có của tài khoản mà không ghi quan hệ đối ứng
hoặc giá qui định trong biên bản giao nhận, trong hoá đơn, chứng từ. Tài
sản nhận giữ hộ, tài sản gán nợ, xiết nợ chờ xử lý...
Những tài sản phản ánh trên các tài khoản này đều phải được tiến
hành kiểm kê, bảo quản như với tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp.
1.2. VỐN VÀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trang 12
1.2.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng
thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân
hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng bao
gồm:
* Vốn tự có của Ngân Hàng Thương Mại là những giá trị tiền tệ do
ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định
và căn cứ để quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của
ngân hàng.
* Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được
từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để
kinh doanh. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân

hàng chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn.
Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng
đối với mọi hoạt động của ngân hàng.
* Vốn đi vay là phần vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn
hoạt động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi
phí tương đối cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng.
* Vốn khác là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện nghiệp
vụ thanh toán…
1.2.2. Vai trò của vốn huy động
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được
thì phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
Trang 13
kinh doanh. Riêng đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một
loại hàng hoá đặc biệt là “Tiền tệ” với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi
vay để cho vay” nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng lại càng có vai trò hết sức quan trọng.
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Ngoài
vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì để bắt đầu
hoạt động kinh doanh của mình, việc đầu tiên mà ngân hàng phải làm là
huy động vốn. Vốn huy động sẽ cho phép ngân hàng cho vay, đầu tư... để
thu lợi nhuận. Nói cách khác, nguồn vốn mà ngân hàng huy động được
nhiều hay ít quyết định đến khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Nguồn
vốn huy động được nhiều thì cho vay được nhiều và mang lại lợi nhuận cao
cho ngân hàng.
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh
tế, một nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho ngân hàng điều kiện để mở
rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ
cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động của ngân hàng quyết định đến khả

năng cạnh tranh. Nếu nguồn vốn huy động lớn sẽ chứng minh rằng qui mô,
trình độ nghiệp vụ, phương tiện kĩ thuật của ngân hàng hiện đại.
Các ngân hàng thực hiện cho vay và nhiều hoạt động khác đều chủ
yếu dựa vào vốn huy động. Còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những trường
hợp cần thiết. Vì vậy, khả năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện thuận lợi
đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần
kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều
đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân
hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong
hoạt động kinh doanh, đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường.
Trang 14
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các ngân hàng luôn tìm
cách đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ
những người gửi tiền và những người cho vay khác nhau đến việc sử dụng
nguồn vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng
cũng luôn tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp với tình hình
chung của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa
ngân hàng đến thành công.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn
 Tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân
trong và ngoài nước có quan hệ gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của
Doanh nghiệp và Tổ chức kinh tế, Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
* Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
-Tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và
ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản

tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực
hiện các khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
của khách hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi chờ thanh toán mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách
hàng đây là một tài sản mà họ ký thác uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và
thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của khách hàng. Do vậy
khách hàng không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó.
Trang 15
Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai và bất kỳ thời gian
nào. Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện
thanh toán dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền…
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ
thực hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi
suất thường thấp hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác.Nhưng
khi khách hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng
cung ứng các loại dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn
ở tài khoản thanh toán thường chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn
trong việc bảo quản vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá
dịch vụ, ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và
một số dịch vụ miễn phí.
Đối với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo
dõi và nghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và một số
dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi vì
trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không cùng một
lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của mình trên tài
khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong một thời gian dài
số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số doanh
nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận. Như vậy

đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch không
những bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ
mới được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh
nghiệp, cá nhân mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền
gửi này ngày càng gia tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết
Trang 16
sức quan trọng của ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này
cũng ngày càng tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp,
chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này
được xác định trước. Do đó cá doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng
dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất
phát từ nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách
hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền
gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng, các Ngân Hàng Thương Mại cho phép khách hàng rút
tiền ra trước thời hạn. Trong trường hợp này khách hàng không được
hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thê sử
dụng phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu
nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo
điều kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh,
các Ngân Hàng Thương Mại thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng.
Hiện tại các Ngân Hàng Thương Mại có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1
tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng 9 tháng, 1 năm, 2 năm. Với mỗi một kỳ
hạn khác nhau thì ngân hànng áp dụng một loại lãi suất khác nhau. Thông

thường thì thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các Ngân Hàng Thương
Mại thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền
này tương đối ổn định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút
được nhiều nguồn vốn dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn
định, giá trị đồng tiền được đảm bảo, lạm phát vừa phải (thường là một con
số một năm) và tình hình hoạt động kinh doanh các ngân hàng có hiệu quả.
Trang 17
* Tiền gửi tiết kiệm dân cư:
Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi
vào Ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ
phận thu nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ
chức tín dụng. Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng
cá nhân. Khi gửi tiền người gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một
giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền
ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ
số tiền gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người
gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người
gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong
tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn
trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi
suất theo qui định và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng
trong thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các Ngân
Hàng Thương Mại vẫn cho khách hàng rút ra trước thời hạn và được hưởng
lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (thông thường bằng lãi suất tiền

gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho
nên các Ngân Hàng Thương Mại thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác
Trang 18
nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng… nhằm thu hút càng
nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ hạn khác nhau. Thông thường kỳ
hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày càng cao (lãi suất tiền gửi có
kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán).
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn
thứ hai trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất
lớn vào thu nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu
nhập của dân cư, chất lượng phục vụ của Ngân Hàng Thương Mại, sự ổn
định đồng tiền và nền kinh tế tăng trưởng vững chắc.
 Tạo vốn qua phát hành công cụ nợ.
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông
qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết
kiệm. Mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn.
Nguồn vốn này được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn
hạn, trung hạn, dài hạn. Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở
Việt nam các Ngân Hàng Thương Mại thường huy động nguồn vốn này
dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung, dài hạn.
* Phát hành kỳ phiếu có mục đích.
Khi các Ngân Hàng Thương Mại có nguồn vốn tài chính dồi dào để
tài trợ cho các nguồn vốn có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa
phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc liên doanh, liên kết với các tổ
chức kinh tế mà các nguồn vốn tự có chưa đáp ứng được, Ngân Hàng
Thương Mại trình ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo
nguồn vốn tín dụng tương đối lâu dài cho các hoạt động này.
Trang 19

Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có
thời hạn, người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng
nhận của ngân hàng, vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu
ngân hàng được phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh
hoạt có tác dụng thu hút cá nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, góp phần
kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng tiền, tạo nguồn vốn trung dài
hạn để đầu tư các dự án phát triển kinh tế.
* Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân
hàng đối với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các
Ngân Hàng Thương Mại hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy
động vốn cho chính bản thân ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng có liên
quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm. Lãi suất của trái
phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các Ngân
Hàng Thương Mại phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn
thông qua các dự án đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết
cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các
Ngân Hàng Thương Mại như kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới
trong công tác huy động vốn của Ngân Hàng Thương Mại ở cá nước đang
phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để đầu tư cho các dự
án trung và dài hạn.
Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992.
Nhưng cho đến nay khối lượng vốn huy động của Ngân Hàng Thương Mại
qua hình thức này vẫn còn thấp so với các hình thức huy động vốn truyền
thống. Để phát huy được thế mạnh của công cụ huy động vốn này đòi hỏi
phải có thị trưòng vốn hoàn chỉnh (thị trưòng chứng khoán). Ở nước ta thị
Trang 20
trường này mới được thành lập cho nên hoạt động của nó chưa ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.

 Vốn vay từ các Tổ chức tín dụng khác và Ngân Hàng Trung
Ương.
Khi các Ngân Hàng Thương Mại có sự mất cân đối giữa nguồn vốn
huy động và sử dụng vốn, xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay
vốn của nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho Ngân
Hàng Thương Mại bổ sung nguồn vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng
thiếu hụt vốn trong thanh toán. Hoạt động của thị trường này nhằm tận
dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để của các tổ
chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của ngân hàng Trung ương.
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các Ngân Hàng Thương Mại
phải được tiến hành theo nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả
thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng, vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp,
cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các chứng từ có giá trị), hay Ngân Hàng
Thương Mại đi vay có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn
các ngân hàng khác. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy
chế dự trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán
hoạt động thường xuyên tại NHTW.
Khi các Ngân Hàng Thương Mại đã hết khả năng vay mượn của
nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất khả năng thanh toán, các Ngân Hàng
Thương Mại thực hiện vay vốn tại ngân hàng Trung ưng để tạo thêm nguồn
vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc ngân hàng Trung
ương cho các Ngân Hàng Thương Mại vay đã làm tăng khả năng thanh
toán cho các Ngân Hàng Thương Mại. Nguồn vốn của ngân hàng Trung
ương là nguồn vốn cuối cùng, làm cho khả năng thanh toán của nền kinh tế
Trang 21
được bình thường. Nếu như thiếu nguồn vốn này thì sẽ xuất hiện các cuộc
khủng hoảng tài chính khi các Ngân Hàng Thương Mại mất khả năng thanh
toán.
Các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng

Trung ương để đảm bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần
thiết. Cho nên thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình
thức huy động vốn khác của Ngân Hàng Thương Mại.
 Tạo vốn từ nguồn vốn khác.
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các Ngân Hàng Thương Mại
cũng có thể khai thác nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là
nguồn vốn lớn, có thời hạn tương đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất
tương đối ưu đãi. Khi các Ngân Hàng Thương Mại nhận các nguồn vốn này
thường có các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng
nội dung chương trình của các dự án tài trợ.
Ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà
nuớc ta đã sáng suốt lựa chọn các đường lối ngoại giao đúng đắn, trên tinh
thần mở cửa của nền kinh tế, làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, thu
hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam. Các nguồn vốn
này có đóng gỏp rất quan trọng vào công cuộc đổi mới công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và Ngân Hàng Thương
Mại phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó tranh
thủ và tiếp nhận các nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của Ngân Hàng
Thương Mại, tuy nhiên chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn
chịu ảnh hưởng tác động rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ
mô, đến các yếu tố mang tính chât vi mô của nền kinh tế, cũng như các yếu
tố liên quan tới chính Ngân Hàng Thương Mại.
Trang 22
1.3. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN.
1.3.1. Các nhân tố khách quan
 Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các Ngân Hàng Thương Mại chịu sự
điều chỉnh rất lớn của môi trường pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực
tiếp mà chúng ta thường thấy như: Luật các Tổ Chức Tín Dụng, Luật Ngân

Hàng Nhà Nước... Những Luật này qui định tỉ lệ huy động vốn của ngân
hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài khoản tiền gửi...
Có những Bộ Luật tác động gián tiếp đến hoạt động ngân hàng như Luật
đầu tư nước ngoài hoặc các Ngân Hàng Thương Mại không được nhận tiền
gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do
Ngân Hàng Nhà Nước đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định
mà Ngân hàng Nhà Nước cho phép...
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một
quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của Ngân Hàng
Thương Mại. Nó được thể hiện ở mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng
hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ
bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó Ngân
Hàng Thương Mại huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp lí
là nhân tố khách quan có tác động rất lớn tới quá trình huy động vốn của
Ngân Hàng Thương Mại. Mục tiêu hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại
được xây dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn
và nâng cao niềm tin từ khách hàng.
 Môi trường kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động
không nhỏ đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng
Trang 23
trưởng hay suy thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của Ngân
Hàng Thương Mại.
Mọi biến động của nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ trong
việc tăng, giảm nguồn vốn huy động từ bên ngoài của ngân hàng. Nền kinh
tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn,
do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của Ngân Hàng Thương Mại
thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng, người dân
không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hoá, việc thu hút
vốn gặp khó khăn.

 Tâm lý, thói quen khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại
ngân hàng và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các
nước phát triển, khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được
chuyển vào tài khoản của họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu
dùng tiền mặt thường lớn hơn. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố
quan trọng tác động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập
ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong
tương lai.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền.
Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định
lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về
đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn
là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối
tượng khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ
ngân hàng. Mức độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở
rộng việc huy động vốn.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
Trang 24
 Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa
dạng hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày
càng phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế
càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu và
tâm lí của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức huy động
càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều
tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy
các Ngân Hàng Thương Mại thường cân nhắc rất kĩ lưỡng trươc khi đưa
vào áp dụng một hình thức mới.
 Chính sách lãi suất cạnh tranh

Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau
đã trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và
duy trì tiền gửi hiện có. Điều này đặc biệt đúng khi lãi suất thị trường đã ở
vào mức tương đối cao.
Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các ngân hàng
khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm khác, các thị trường tiền tệ và với
những người phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong thị trường
tiền tệ. Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy định,
việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Đặc biệt trong
giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi
suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ
ngân hàng này sang ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác.
 Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
* Về phương diện quản lí, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có
khả năng tư vấn phù hợp cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu
hút được khách hàng đến với mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được
Trang 25

×