Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

sáng kiến kinh nghiệm rèn viết chữ đúng đẹp cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.75 KB, 30 trang )

Phòng GD&ĐT quỳ Hợp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trờng Tiểu học Yên Hợp Độc lập Tự do Hạnh phúc

Kinh nghiệm rèn viết chữ đúng và đẹp
cho học sinh lớp 5
Họ và tên ngời viết: Nguyễn Thị Hoài Nam
Đơn vị: Trờng Tiểu học Yên Hợp
I. Đặt vấn đề:
Ông cha ta có câu Nét chữ nết ngời nét chữ thể hiện tính cách của con ngời. Chữ đều đặn, rõ
ràng, đúng và sạch đẹp thể hiện đức tính cận thận , và còn thể hiện tính kiên trì, bền bỉ của con ngời.
Đặc biệt là một giáo viên tiểu học,qua những năm giảng dạy tôi thấy chữ viết của giáo viên có ảnh h-
ởng rất nst[í chữ viết của học sinh vì h/s tiểu học hay bắt chớc và các em thờng xuyên xem thầy coo
giáo là tấm gơng để các em học theo.Chữ viết của các em có quan hệ nmaatj thiết tới chất lợng học tập
ở các môn học khác. Nếu viết đúng mẫu, rõ ràng tốc độ nhanh thì h/s có điều kiện ghi bài tốt, nhờ vậy
kết quả học tập sẽ cao hơn. Vì vậy viết rèn chữ đẹp là việc cần thiết đối với giáo viên.
Chữ viết đúng đẹp là một trong những yếu tố quan trọng để góp phần hình thành nhân cách cho h/s đó
cũng là mong muốn, nguyện vọng của toàn nghành đặt ra.
Qua giảng dạy thực tế trên lớp nhiều năm, tôi nhận thấy rằng chữ viết của h/s còn xấu , trìn bày tùy
tiện, cẩu thả. Hởng ứng cuộc vận động phong trào Giữ vở sạch, viết chữ đẹp của Phòng GD huyện
Quỳ Hợp. Bản thân tôi mạnh dạn Đa ra một số kinh nghiệm Rèn viết chữ đúng đẹp cho h/ lớp 5.
II. Giải quyết vấn đề
1. Những yêu cầu cơ bản của việc tập viết:
Muốn viết đợc chữ đúng mẫu, đẹp cho h/s thì trợc hết ngời giáo viên phải nắm đợc yêu cầu cơ bản của
môn tập viết , cụ thể là:
- Về kiến thức: Giáo viên phải có hiểu biết về đờng kẻ, dòng kẻ, độ cao , cỡ chữ, hình dáng vàtên
gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các nét và các con chữ,các chữ ghi tiếng
cách viết chữ thờng chữ hoa, dấu thanh và chữ số.
- Về kĩ năng: viết đúng quy trình viết nét , viết chữ cái và liên kết chữ cái tạo ra chữ ghi tiéng
theo yêu cầu liền mạch . Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ. Ngoài ra giáo viên càn rèn các
kỹ năng nh : T thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở viết
2. Kết quả khảo sát chất lợng chữ viết đầu năm của học sinh.


Tổng số h/s lớp 5c: 18 em.
a. Học sinh viết sai độ cao chữ cái: 8 em
b. Học sinh viết sai các nét chữ: 6 em
c. Học sinh viết sai vị trí dấu thanh : 4 em
d. Học sinh viết sai khoảng cách , nét nối các con chữ.
3. Các biện pháp rèn:
a) Đối với những h/s viết sai độ cao các con chữ cái:
Mỗi nhóm chữ cái có đặc điểm riêng nên khi h/s viết sai độ cao của các chữ cái giáo viên phải
cho h/s nắm vững hình dáng cấu tạo, quy trình viết chữ cái: Cụ thể Giáo viên cho h/s năm vững vị trí
của các đờng kẻ trong vở ô li , tọa độ của các nét chữ, chữ cái trong khung mẫu.
Xác định đờng kẻ

Trong vở ô li (vở luyện viết ) của các em đã có sẵn các đờng kẻ, giáo viên hỡng dẫn cho HS
cách gọi các đờng kẻ. Các chữ cái có độ cao 1 đơn vị đợc xác định bằng đờng kẻ ngang trên và đờng kẻ
ngang dới.
Các chữ cái có độ cao 2 đơn vị đợc xác định bằng đờng kẻ ngang trên, giữa và dới.
Ô vuông trên khung chữ mẫu: các ô vuông này do các đờng kẻ ngang, dọc, cắt nhau tạo thành,
khoảng cách giữa 2 ô vuông nhỏ theo chiều dọc là 1 đơn vị chữ chiều cao (VD: l, b, h ) có chiều cao
là 5 ô vuông (2,5)đơn vị, chữ thờng có chiều cao nhỏ nhất là 2 ô (1 đơn vị chữ).
Từ đó giáo viên có thể phân loại hệ thống chữ cái: Chữ cái viết thờng
+ Các chữ cái b, g,h, l, k, y đợc viết với chiều cao là 2,5 đơn vị chữ.
+ Chữ cái t đợc viết với chiều cao là 1,5 đơn vị.
Chữ cái r, s đợc viết với chiều cao 1,25 đơn vị.
Chữ cái r, đ, q, p đợc viết theo chiều cao 2 đơn vị.
+ Các chữ cái còn lại viết với chiều cao 1 đơn vị.
Viết số: GV cũng chia các chữ số theo nhóm để HS luyện viết.
Chiều cao của các chữ cái hoa là 2,5 ĐV ( Riêng 2 chữ cái hoa Y và G đợc viết với vhieeuf cao
4 ĐV).
b) Đói với những HS viết sai gãy các nét chữ:
- Sai gãy các nét khuyết dới, khuyết trên.

- Sai các nét móc lên, móc xuống.
- Sai nét móc 2 đầu.
- Sai nét vòng nét thắt.
Trớc hết GV phải cho HS nắm chắc tên gọi của từng nét chữ rồi hỡng dẫn kỹ năng viết các nét
chữ.
* Nét thẳng: Điểm đặt bút trên đờng kẻ ngang hoặc dới, đa thẳng sang ngang hoặc đa từ trên
xuống dới, chếch sang phải hoặc trái.
* Nét cong: Điển đặt bút ở phía dới đờng kẻ ngang vòng sang trái hoặc sang phải tạo thành nét
cong kín hoặc cong hở trái hở phải.
* Nét móc:
+ Nét móc lên: Điểm đặt bút xuất phát từ đờng kẻ ngang trên, kéo thẳng xuống gần đờng kẻ ngang
dới thì lợn cong nét bút chạm đờng kẻ ngang dới rồi đa cong lên, độ rộng của nét cong bằng 1/3
ĐV.
Điểm dừng bút cao hơn đờng kẻ ngang một chút ( 1/3 ĐV).
+ Nét móc xuống: Điểm đặt bút thấp hơn đờng kẻ ngang một chút, lợn cong nét bút sang bên phải (
độ rộng bằng 1/3 ĐV) sau đó viết tiếp nét thẳng cham vào đờng kẻ ngang dới.
+ Nét móc 2 đầu: Nét này có phần nét móc xuống phía trên rộng gấp đôi nét móc bình thờng phần
nét móc phía dới bằng độ rộng của nét móc lên. Cách viết phối hợp giữa nét móc dới và nét móc
lên.
Nét khuyết:
+ Nét khuyết trên: Điểm đặt bút thấp hơn đờng kẻ ngang giữa 1/3 ô đa nét bút sang phải và lợn
cong lên cao 2,5 ĐV thì kéo thẳng xuống đờng kẻ ngang dới và dừng
+ Nét khuyết dới: Điểm đặt bút ở đờng kẻ ngang trên kéo thẳng xuống 2,5 ĐV thì lợn cong sang
trái đa tiếp nét bút sang phải, điểm dừng bút cao hơn đờng kẻ ngang giữa một chút.
c) Đối với HS viết sai vị trí dấu thanh.
GV phải hớng dẫn HS các đánh dấu thanh ngay bên trên hoặc bên dới âm chính của tiếng ( nắm
chắc quy tắc chính tả đánh dấu thanh ở trên âm đôi).
d) Đối với các học sinh viết sai khoảng cách các con chữ:
GV cho HS nắm vững khoảng cách giữa các con chữ trong từng tiếng, khoảng cách giữa các tiếng
trong từ.

Muốn để HS viết đúng khoảng cách giữa các con chữ trong từng tiếng, GV phải cho HS nắm vững
đợc cấu tạo của các con chữ dựa vào các ô vuông và các chữ cái đợc chia thành các nhóm chũ. Dựa
vào đắc điểm cơ bản của một số tiếng mà HS cần phải có khoảng cách các con chữ hay giãn khoảng
cáh các con chữ sao cho đẹp.

Để HS có chữ đẹp GV phải quan tâm hớng dẫn cho HS t thế ngồi viết cách cầm bút cụ thể:
+T thế ngồi viết: Khi viết phải ngồi ngay ngắn.
- lng thẳng đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 20 - 30cm.
- Ngồi không tì vào cạnh bàn, hai chân để thoải mái.
- Tay trái tì giữa vở, tay phải cầm bút viết.
+ Cách cầm bút: Cầm bút bằng tay phải ( ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa giữ bút).
- Khi viết các ngón tay, và khuỷu tay di chuyển mền mại thoải mái từ trái sang phải.
- Các chữ viết liền mạch ( trong một chữ ghi tiếng).
* Những điều kiện về cơ sở vật chất đáp ứng việc luyện viết chữ đẹp:
- Phòng học đủ ánh sáng.
- Bảng lớp đẹp chất lợng.
- Bàn ghế HS đủ khoảng cách 2 em một bàn.
- Phấn không bụi, mềm.
- Bút ( Bút mực Thiên Long, Hồng Hà).
- Vở ô ly: Giấy vở Hải Tiến.
- Vở luyện viết chữ đẹp: do nhà xuất bản ấn hành.
2. Kết quả thu đợc qua quá trình áp dụng thực tế:
HS viết sai gãy các nét chữ: 2em.
Không còn HS viết sai độ cao, sai vị trí dấu thanh.
HS viết sai khoảng cách giữa các con chữ: 1 em.
Số HS viết chữ nét thanh nét đậm: 4 em ( 2em đạt giải 3 cấp huyện về chữ viết đep).
3. Bài học kinh nghiệm:
+ Về phía GV:
- Bản thân tự rèn luyện.
- Viết chữ mẫu mực ở mọi lúc mọi nơi ( ở vở HS khi chấm điểm, lời phê; trên bảng lớp.).

- Lập kế hoạch khảo sát trên thực tế đa ra danh sách luyện viết chữ cho từng giờ luyện viết.
+ Về phía học sinh:
- Rèn viết ở lớp ( vở thực hành viết đúng viết đẹp).
- Rèn ở nhà ( vở ô ly).
- Kiên trì bền bỉ, khác phục khó khăn.
III. Kết thúc vấn đề.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi khi rèn HS lớp 5 viết chữ đúng đẹp. Sáng kiến đợc
áp dụng vào việc giảng dạy lớp 5 B ngay từ đầu năm học kết quả khá khả quan. Tôi rất mong sự giúp
đỡ cảu các cấp trên và sự trao đổi góp ý của bè bạn đồng nghiệp để bổ sung cho sáng kiến của tôi đợc
tốt hơn./.
Yên Hợp, ngày 05 tháng 04 năm 2010.
Ngời trình bày
Nguyễn Thị Hoài Nam
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT
CHO HỌC SINH TRONG PHÂN MÔN TẬP VIẾT LỚP MỘT
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐÒ
Trong môn Tiếng Việt thì Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu
học, nhất là đối với học sinh lớp Một. Phân môn Tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ cái và
những yêu cầu kĩ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Như chúng ta đã
biết Học vần, Tập đọc giúp HS đọc thông thì Tập viết giúp cho việc rèn luyện năng lực viết
thạo. Đọc thông và viết thạo có quan hệ mật thiết với nhau; cả ba phân môn Tập viết, Học vần,
Tập đọc không thể tách rời nhau mà ngược lại nó bổ trợ lẫn nhau. Tập viết giúp nâng cao chất
lượng học tập các môn học khác và góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của
việc học Tiếng Việt trong nhà trường, đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng chữ mẫu, rõ ràng,
tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn.
Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Ngoài ra, phân môn Tập
viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như
tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mĩ.
Những năm trước đây mẫu chữ viết trong trường Tiểu học là mẫu chữ theo chương
trình cải cách, các chữ cái trong một chữ không có sự liên kết nên không mềm mại, đặc biệt

giảm kĩ năng viết nhanh. Từ thực tế đó, nhiều giáo viên đã trăn trở góp nhiều công sức để cải
tiến kiểu chữ cũng như cải tiến nội dung, phương pháp dạy Tập viết. Tuy vậy, học sinh vẫn viết
sai, viết xấu và viết rất chậm. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học Tiếng Việt nói
riêng và các môn học khác nói chung. Ngày 14 / 6 / 2002, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ban hành Quyết định số 31/ 2002 / QĐ - BDG & ĐT về '' Mẫu chữ viết trong trường tiểu học''.
Mong rằng các thầy, cô giáo dạy tốt hơn và học sinh học giỏi hơn, chữ viết ngày một đẹp hơn.
Để đạt được điều này quả là không dễ chút nào.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp Một của nhiều năn nay, tôi ý thức rằng '' để xây nên
ngôi nhà đẹp và tốt thì trước hết phải có một nền móng vững chắc''. Chính vì vậy tôi đã cố gắng
dành nhiều thời gian, đem hết khả năng và lương tâm, trách nhiệm của mình vào công việc
luyện cho các em kĩ năng viết chữ đúng mẫu và đẹp thông qua dạy môn Tập viết, phân môn
chính tả. Nhằm góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự phát triển của xã hội.
PHẦN II: NỘI DUNG
Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp Một thường hiếu
động, thiếu kiên trì, hay bị chi phối, trí nhớ không bền, khó thực hiện các động tác đòi hỏi sự
khéo léo, cẩn thận. Mặt khác học sinh lớp Một xem chữ viết mẫu của giáo viên là chuẩn mực.
Trái lại một số giáo viên hướng dẫn thì rất cụ thể, chi tiết nhưng không chú ý đến chữ viết mẫu
của mình. Công sức của giáo viên bỏ ra thì nhiều mà kết quả thu được ở học sinh thì ít. Một số
giáo viên khác lại thiếu tính kiên trì, chịu khó trong cả quá trình dạy học nên dẫn đến tình trạng
học sinh viết tự do, không đúng mẫu chữ, viết xấu, viết chậm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học
tập môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Xuất phát từ thực trạng trên nên tôi mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp mà tôi đã áp dụng thành công khi dạy viết chữ cho học sinh lớp Một
trong những năm qua để đồng nghiệp cũng như bạn đọc tham khảo và có thể áp dụng.
Năm học 2011 - 2012 tôi được phân công giảng dạy lớp 1E, trường Tiểu học Yên Hợp, số
học sinh: 19 em. Hầu hết bố mẹ các em đều làm nông nghiệp, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.
Nên việc học ở nhà chưa có chất lượng, chủ yếu nhờ vào thầy cô trong thời gian ở trường. Song
thời gian ở trường có hạn, một số học sinh chưa thạo tiếng phổ thông, lớp 100% là học sinh dân
tộc thiểu số nên tôi gặp không ít khó khăn. Nhưng được sự giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu
nhà trường, các đồng nghiệp, cùng với sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh trẻ đã giúp tôi tự tin
và giảng dạy tốt hơn.

I. Khi dạy tập viết cho học sinh tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp sau:
1. Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường: kết hợp mắt
nhìn, tai nghe, tay luyện tập. điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích thước và
cấu tạo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái đang học với chữ cái đã học trước
đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh tương đồng. Mẫu chữ là hình thức trực quan ở
tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức mẫu chữ:
chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng, chữ mẫu trong vở Tập viết, hộp chữ mẫu… Tiêu chuẩn
cơ bản của chữ mẫu là phải đúng chữ quy định, rõ ràng và đẹp. Chữ mẫu có tác dụng:
- Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện để các
em phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học.
- Chữ mẫu của giáo viên viết tiếp trên bảng giúp cho học sinh nắm được thứ tự viết
các nét của từng chữ cái, các điểm đặt bút đầu tiên, điểm kết thúc, cách nối các chữ cái trong
một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
- Chữ viết của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được HS quan sát như một loại
chữ mẫu, vì thế GV cần có ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng, trong chấm bài cũng như
trong viết bảng. Ngoài ra, để việc dạy chữ viết không đơn điệu GV cần coi trọng việc xử lý
quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa Đọc và Viết. Do đó trong tiến trình dạy Tập viết, nhất là tập
viết đúng âm mà địa phương hay lẫn, GV cần đọc mẫu. Việc viết đúng sẽ củng cố việc dạy đọc
đúng, ngược lại đọc đúng đóng vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng.
2. Phương pháp đàm thoại gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. GV dẫn dắt HS
tiếp xúc với các chữ sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ
cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học
với các chữ cái đã phân tích. Ví dụ khi dạy chữ cái a cỡ vừa, GV có thể đặt câu hỏi “chữ a cấu
tạo bằng những nét nào? (một nét cong hở phải và một nét móc lên). Chữ a cao mấy đơn vị,
rộng mấy đơn vị (cao 2 đơn vị, rộng 1,5 đơn vị) nét nào viết trước, nét nào viết sau (nét cong hở
phải viết trước, nét móc lên viết sau). Điểm đặt bút đầu tiên và điểm kết thúc của nét cong hở
phải là ở đâu? (Điểm đặt bút đầu tiên của nét cong hở phải ở dưới đường kẻ thứ hai kể từ đường
kẻ đậm dưới lên, điểm kết thúc trên đường kẻ đậm một chút…)”. Vai trò của người GV ở đây là

người tổ chức hướng dẫn HS phân tích cấu tạo chữ cái, chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết
chữ tiếp theo.
3. Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn HS
luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao giúp cho HS dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết
đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy
định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở
phân môn Tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác.
Khi HS luyện tập viết chữ, GV cần chú ý uốn nắn để các em cầm bút đúng (cầm bút
bằng ba ngón: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa; khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút từ trái
sang phải, cán bút nghiêng về bên phải cổ tay, khủy tay và cánh tay cử động theo mềm mại,
thoải mái; không nên cầm bút tay trái) và ngồi đúng tư thế ( Lưng thẳng; không tì ngực vào bàn;
đầu hơi cúi; mắt cách vở khoảng 25 - 30 cm; tay phải cầm bút; tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ,
hai chân để song song thoải mái). Bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng, rèn cho trẻ viết đẹp
mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của GV. Cần lưu ý các hình thức
luyện tập cơ bản sau:
- Tập viết chữ trên bảng lớp:
Hình thức này có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ
năng viết chữ của HS. Hình thức này thường dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích
cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Qua đó, GV phát hiện chỗ sai của HS (về hình
dáng, kích thước, thứ tự viết các nét…) để uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá cho điểm.
- Tập viết chữ vào bảng con của HS:
HS luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con trước khi viết vào vở. HS có thể tập
viết chữ cái, viết các vần, các chữ hoặc từ vào bảng con. Khi sử dụng bảng con GV cần hướng
dẫn các em cả cách lau bảng từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản phấn, cách lau tay sau khi
viết để giữ vệ sinh (phải có giẻ ẩm để lau bảng). Viết vào bảng xong, cần cho HS đưa bảng lên
để GV kiểm tra. Cần chú ý giữ trật tự trong lớp khi dùng hình thức luyện tập này và nên tận
dụng hai mặt bảng khi viết ( cách đưa bảng: hai tay cầm vào hai góc bảng phía dưới; cùi tay đặt
trên mặt bàn; GV gõ lần 1, HS đưa mặt trước; gõ lần 2, quay mặt sau, chéo tay; gõ lần 3, quay
trả lại mặt trước; gõ 2 tiếng, HS đặt bảng xuống bàn nhẹ nhàng). Đối với lớp Một, cần phải có

mẫu trình bày bảng từng nội dung ( GV viết mẫu ) để HS nhìn vào đó mà viết theo.
- Luyện tập viết chữ trong vở tập viết:
Muốn cho HS sử dụng có hiệu quả vở Tập viết, GV cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu
về kỹ năng viết của từng bài viết (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách chữ, dấu vị trí đặt bút, thứ
tự viết nét… ) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết (HS khá
giỏi), viết ít nhất mỗi chữ một lần (số HS còn lại). Việc đảm bảo các công việc trên sẽ giúp cho
các em viết tốt hơn những dòng sau. Lưu ý: GV chuẩn bị một vở Tập viết, khi dạy đến bài nào
thì GV viết mẫu bài đó; sau khi đã cho HS luyện viết tốt ở bảng con, GV cho HS quan sát bài
viết mẫu để HS biết được cách trình bày, khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ, giữa các
chữ với nhau.
- Luyện tập viết chữ khi học các môn khác:
Cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn học khác để HS tập viết. Đối với HS
lớp Một nói riêng, bậc Tiểu học nói chung, sự nghiêm khắc của GV về chất lượng chữ viết ở
các môn học là cần thiết. Có như thế, việc luyện viết chữ mới được củng cố đồng bộ, thường
xuyên. Việc làm này đòi hỏi GV ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự kiên trì,
cẩn thận, lòng yêu nghề, mến trẻ.
II. Khi dạy HS tập viết cần đảm bảo một số nguyên tắc sau:
1. Đảm bảo sự phối của các bộ phận cơ thể tham gia vào việc viết chữ:
Quá trình tập viết có quan hệ đến nhiều bộ phận trong cơ thế của HS. Tư thế ngồi viết có
quan hệ đến cột sống, phổi, lưng. Cách cầm bút có quan hệ đến cả ngón tay, bàn tay và cánh
tay. Hình dáng kích thước chữ trong vở tập viết có quan hệ đến mắt các em. Việc tập viết không
đảm bảo đúng các quy định được xây dựng trên cơ sở khoa học sẽ đem lại nhiều di hại suốt đời
cho HS như cận thị, cột sống bị vẹo, lưng gù… do ngồi không đúng tư thế , hoăc thiếu ánh sáng
. Vì vậy khi hướng dẫn HS tập viết cần coi việc phối hợp đồng bộ là một nguyên tắc đặc thù.
2. Coi việc dạy tập viết là dạy hình thành một kỹ năng:
Việc rèn luyện kỹ năng đòi hỏi người học phải tri giác chính xác sản phẩm, nắm vững
các thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại thao tác đó. Chữ viết Tiếng Việt là hệ thống chữ
cái La Tinh ghi âm. mỗi nhóm chữ cái có những đặc điểm riêng nên quy trình thực hiện các
thao tác ở từng nhóm cũng không giống nhau. Do đó, khi rèn kỹ năng viết chữ, HS phải nắm
được hình dáng, đặc điểm từng chữ cái, các thao tác viết các nhóm chữ cái và từng chữ (thao

tác viết nhóm chữ nét cong khác thao tác viết nhóm chữ nét khuyết) và phải luyện tập liên tục
nhiều lần trên vở tập viết. Trong rèn luyện kỹ năng viết chữ HS nhỏ tuổi gặp các khó khăn sau:
- Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát đối tượng. Trong khi đó, để viết
được chữ, người viết phải tri giác cụ thể, chi tiết từng nét chữ, từng động tác kỹ thuật tỉ mỉ. Do
vậy khi tiếp thu kỹ thuật viết chữ, HS không tránh khỏi những lúng túng khó khăn.
- Học sinh lớp Một thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hiện các động tác đòi
hỏi sự khéo léo, cẩn thận.
Để giúp HS khắc phục nhược điểm trên, GV phải có đức tính kiên trì. Sự nhiệt tâm
chu đáo của GV là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của giờ dạy tập viết. Kỹ
năng viết chữ được rèn luyện ở hai mức độ.
+ Tập viết các chữ cái: Viết đúng hình dáng, cấu tạo, quy trình viết.
+ Tập viết ứng dụng hướng dẫn HS viết liền mạch các chữ cái. Viết dấu phụ, dấu
thanh trên hoặc dưới chữ cái. HS chỉ có được kỹ năng viết chữ thật sự khi sản phẩm viết của các
em đúng mẫu, rõ ràng đúng tốc độ quy định, có thẩm mĩ và thực hiện đúng các quy trình về tư
thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở, cách trình bày trên bảng con, trên vở tập viết. Để hình thành
kỹ năng viết chữ cho HS việc dạy tập viết phải trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn này hình thành và xây dựng biểu tượng về chữ viết, giúp các em hiểu và
ghi nhớ được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp HS viết
chữ một cách tự giác. Nhờ vậy kết quả đạt được sẽ nhanh và chắc hơn.
Giai đoạn 2: Đây là giai đoạn củng cố, hoàn thiện biểu tượng về chữ viết thông qua các hình
thức luyện tập viết chữ. Giai đoạn này hướng dẫn các em luyện tập viết các chữ cái, liên kết các
chữ cái để luyện viết từ, cao hơn là viết câu ứng dụng.
III. Một số giải pháp khi dạy HS học tập viết:
1. Xác định đường kẻ, dòng li trên vở tập viết:
Toạ độ chữ (vị trí các nét) được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết (nét chữ
được thể hiện trên dòng kẻ ngang, độ rộng trên đường kẻ đứng. Giúp HS viết đúng vị trí, không
nhầm dòng. GV hướng dẫn các em nắm vững một quy ước về cách gọi: Đường kẻ đậm để các
con chữ ngồi lên thẳng cùng một dòng .( số 1) Đường kẻ ngang phía trên đường kẻ đậm ( số
2), đường kẻ ngang dưới đường kẻ đậm. ( số 1 ) ( Khi dạy viết chữ thuật ngữ thường dùng
là: Cao mấy ô li, đường kẻ thứ mấy kể từ dưới lên )

2. Tên gọi các nét và quy trình viết:
Trước khi dạy HS viết chữ GV cần phải cho HS nhớ kỹ tên gọi và quy trình viết các
nét cơ bản một cách chắc chắn. Đây là vấn đề rất quan trọng giúp HS viết đúng, đẹp theo mẫu
chữ quy định. Vì tất cả các chữ cái, được viết kết hợp bởi các nét cơ bản. Ví dụ: Chữ h được kết
hợp hai nét đó là nét khuyết trên và nét móc hai đầu. Chữ r được kết hợp nét thắt trên và nét
móc ngược v.v. Nếu GV làm tốt vấn đề này thì rất thành công trong quá trình dạy HS viết chữ.
Khi hướng dẫn học sinh viết Gv vừa viết vừa nêu cách viết,2 thao tác đó phối hợp thật nhuần
nhuyễn với nhau. Vì đây là điều kiện để HS viết đúng mẫu đảm bảo không gây nhầm lẫn giữa
các chữ cái với nhau . Đó là cơ sở để viết nhanh, từ đó nâng cao tính thẩm mĩ của quá trình viết
chữ. Các nét cơ bản như sau:
Nét thẳng đứng; Nét thẳng ngang: ; Nét xiên phải: ; nét xiên trái ; nét cong kín: ;
nét cong hở phải; nét cong hở trái; nét móc xuôi; nét móc ngược; nét móc hai đầu ; nét móc hai
đầu có thắt ở giữa; nét khuyết trên; nét khuyết dưới ; nét xoắn:
3. Xác định chiều cao, rộng của từng con chữ:
Trong hướng dẫn của chương trình của Bộ quy định tên gọi về chiều cao của các con
chữ là đơn vị ( 1 đơn vị tương ứng với 2 dòng li trong vở Tập viết). Để cho các em dễ hiểu, dễ
nhớ tôi đã cho học sinh xác định và nhớ chữ cái đó cao mấy li, rộng mấy li. Các chữ có độ cao
bằng nhau được xếp thành nhóm như sau:
- Các chữ: a, ă, â, o,ô, ơ, c, e, ê, i, v, u, ư, x, n, m cao 1 đơn vị (2 dòng li)
a, ă, â, o, ô, ơ, c, e,
ê, i, v, x, u, ư, n, m
- Các chữ: d, đ, p, q cao 2 đơn vị ( 4 dòng li)
d đ p q
- Các chữ: h, k, l, g, y cao 2,5 đơn vị ( 5 dòng li)
h k l, y, g
- Chữ: t cao 1,5 đơn vị ( 3 dòng li)
t
- Các chữ: r, s cao hơn 1 đơn vị một chút ( 2,5 dòng li)
r, s
4. Một số kỹ thuật, thuật ngữ cần áp dụng khi dạy học tập viết:

- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái. Điểm đặt bút có
thể nằm trên đường kẻ ngang (i, h, r, s…) hoặc không nằm trên đường kẻ ngang (a, c, e, n,
v…).
- Điểm dừng bút là điểm kết thúc của nét chữ khi viết một chữ cái. Điểm dừng bút có
thể trùng với điểm đặt bút (o, ô, ơ…), hoặc nằm trên đường kẻ ngang như (i, t, p…), hoặc
không nằm trên đường kẻ ngang như (e, v, x, c…).
- Vị trí của điểm đặt bút hoặc dừng bút về cơ bản, hai điểm này nằm ở vị trí (trên hay
dưới) ½ đơn vị chữ.
+ Các chữ cái có cấu tạo với nét móc hay nét cong thì điểm đặt bút ở vị trí cao hơn
đường kẻ ngang dưới hoặc thấp hơn đường kẻ ngang giữa khoảng ¼ đơn vị chữ.
+ Các chữ cái có cấu tạo bởi nét cong ở phần cuối chữ thì điểm dừng bút ở vị trí cao
hơn đường kẻ ngang dưới (hay đường kẻ chân chữ) khoảng 1/4 đơn vị.
Ví dụ: Điểm đặt bút của chữ e cao hơn đường kẻ ngang dưới (hay đường kẻ chân chữ “một
chút”; điểm dừng bút của nó cũng cao hơn đường kẻ ngang dưới “một chút”.
e
- Viết liền mạch là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước
tới điểm bắt đầu của nét tiếp sau.
Ví dụ: Khi viết chữ Minh, cần nối liền nét cuối chữ m với nét đầu chữ i, nét cuối chữ i
với nết đầu chữ n, nết cuối chữ n với nét đầu chữ h. Hoặc là chữ chiều các con chữ được viết
nối liền mạch
minh chiếu
- Kỹ thuật “lia bút” để đảm bảo tốc độ viết trong quá trình viết một chữ cái hay nét nối
các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút,
phấn…) không được chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng…) thao tác đưa bút trên không ấy
gọi là “lia bút”.
Ví dụ: Khi viết chữ Hà Nội, sau khi kết thúc chữ h, cần lia bút đến điểm đặt bút của chữ a tiếp
theo, …
hà nộ i
- Kỹ thuật “rê bút”: Rê bút là thao tác viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ
vừa viết, ở đây xẩy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn…) “chạy nhẹ” từ điểm kết

thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
Ví dụ: n, m, p, h,…
n, m, p, h
- Kĩ thuật viết nối các chữ cái: Khi viết một chữ ( ghi vần , ghi tiếng ) gồm từ hai chữ
cái nối lại với nhau , để đảm bảo tốc độ viết, ta không thể viết rời từng chữ cái mà phải di
chuyển bút đưa nét chữ liên tục theo kĩ thuật viết liền mạch. Viết xong chữ cái đứng trước, viết
tiếp chữ cái đứng sau (Không nhấc bút khi viết).
- Kĩ thuật viết dấu phụ : Quy trình viết dấu phụ và dấu thanh là một khâu không thể
thiếu trong quy trình chung viết chữ ghi âm tiếng việt.
a. Dấu phụ chữ cái : Như dấu phụ ở các chữ cái ă, â, ê, ô …đặt ở vị trí trên đầu các
chữ cái . Điểm cao nhất của dấu không quá 1/3 đơn vị, điểm thấp nhất của dấu không chạm vào
đầu các chữ cái . GV vừa viết vừa hướng dẫn cụ thể từng dấu liên quan đến chữ cái .
b.Viết dấu thanh : Dấu huyền ( \ ) là một nét xiên trái, viết từ trên xuống hơi chéo sang
phải, độ dài bằng 1/3 đơn vị . Dấu sắc ( / ) là một nét xiên phải được viết từ trên xuống hơi chéo
sang sang trái, độ dài bằng 1/3 đơn vị .Dấu hỏi là một nét cong phải biến dạng ở phần cuối nét.
Khi viết kéo dài đoạn cuối nét cong hơi chéo về bên trái, độ cao bằng 1/3 đơn vị . Dấu ngã gồm
nét cong trên và nét cong dưới xếp liền nhau theo chiều ngang , chiều rộng 1/3 đơn vị. Dấu
nặng (.) là một dấu chấm đặt phía dưới các âm chính của vần. Hiện nay thống nhất dấu thanh
đặt trên hoặc dưới âm chính .
Chú ý: Liên kết giữa phần vần của chữ với dấu thanh xảy ra ngoài vùng liên kết. Vì vậy sau khi
viết xong các chữ trong vùng liên kết phải lia bút trên không từ điểm dừng bút của phần vần
đến điểm đặt bút của dấu thanh. Quy trình viết dấu thanh được thực hiện sau khi viết dấu phụ .
IV. Giải pháp cụ thể :
1. Hướng dẫn phụ huynh chuẩn bị đồ dùng học tập :
Tôi liệt kê những đồ dùng cần thiết cho học sinh lớp một vào giấy rồi gửi học sinh mỗi em
một bản đem về cho phụ huynh ngay trong buổi gặp mặt đầu tiên . Để có sản phẩm tốt thì phải
có dụng cụ tốt .
2. Hướng dẫn cho học sinh tư thế ngồi và tay cầm bút viết :.
- Những buổi đầu tiên ngoài hướng dẫn cho học sinh một số nội quy, quy định của
trường, của lớp tôi cho học sinh xem một số hình ảnh của một số bạn có thân hình không cân

đối, như cong vẹo cột sống, mắt bị cận thị nhìn không rõ. Bên cạnh đó cho học sinh quan sát
những bạn có thân hình cân đối, rất xinh đẹp. Rồi cho học sinh nhận xét, sau đó nói rõ nguyên
nhân vì sao như thế. Học sinh sẽ ghi nhớ điều đó sâu sắc hơn.
- Tiếp đó tôi mới hướng dẫn cụ thể tư thế ngồi viết. Đó là: Lưng thẳng; không tỳ ngực vào
bàn; đầu hơi cúi; mắt cách vở khoảng 25 - 30cm; tay phải cầm bút; tay trái tỳ nhẹ lên mép vở để
giữ; hai chân để song song, thoải mái(GV làm mẫu, học sinh làm theo), GV đến từng em chỉnh
sửa. Cách cầm bút: Cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa); khi viết dùng
ba ngón tay di chuyển bút sang trái, trái sang phải , cán bút nghiêng về phía bên phải cổ tay,
khuỷu tay và cánh tay cử động theo mềm mại , thoải mái; không nên cầm bút tay trái. ( Theo
Hướng dẫn vở Tập viết ) Kỷ năng này được nhắc nhở thường xuyên trong quá trình học tập của
các em, tất nhiên phải luôn kiên nhẫn và nhẹ nhàng. Làm sao cho việc ngồi viết đẹp, cầm bút
đẹp, viết chữ đẹp trở thành niềm vui và tự hào cho các em.
3. Kết hợp với dạy học vần:
Quan trọng nhất là khi dạy âm, giáo viên vừa hướng dẫn đọc vừa hướng dẫn viết
( Đọc viết hỗ trợ cho nhau ). Phần này tôi cho học sinh luyện tập nhiều để các em nắm một cách
chắc chắn cấu tạo các nét của các con chữ, quy trình viết chữ cái, sang phần vần chỉ hướng dẫn
các em kỷ thuật nối giữa các con chữ là các em tự làm được.
4. Hướng dẫn một cách cụ thể, tỉ mỉ và phải biết kiên nhẫn:
* Giai đoạn đầu đến hết học kỳ I: học sinh viết bằng bút chì, viết cỡ chữ vừa ( Ví dụ : chữ
a cao một đơn vị, chữ h cao 2,5 đơn vị …).
- Khi dạy cho HS chữ gì trước tiên tôi giới thiệu chữ sẽ viết, GV viết mẫu ở bảng lớp,
cho học sinh đọc lại, hướng dẫn phân tích cấu tạo các nét, cho HS biết điểm đặt bút, điểm dừng
bút của chữ, nét nào viết trước, nét nào viết sau, tiếp đến học sinh tô khan trên không theo cô
( cô dùng bút chỉ, tô theo chữ mẫu đã viết ở bảng ) để học sinh biết cách viết và xác định được
điểm đặt bút và điểm kết thúc của từng chữ viết.
- Học sinh thực hành viết chữ lên bảng con ( viết bằng phấn ), GV đi đến từng em
theo dõi, giúp đỡ, cầm tay đưa từng nét, chỉnh sửa tay cầm bút, tư thế ngồi viết. Kiểm tra, nhận
xét (cho HS nhận xét trước), tuyên dương những em viết đúng, đẹp; nhắc nhở nhẹ nhàng, động
viên cho những em viết chưa đúng, đẹp tự chỉnh sửa lại chữ của mình. Nhắc nhở cách lau bảng.
- Khi HS viết đúng ở bảng con tôi hướng dẫn HS viết vào vở Tập viết. Tôi cho các em

xác định lại vị trí các đường kẻ, xác định chữ mình viết nằm trên đường kẻ nào, đặt bút ở vị trí
nào, khoảng cách giữa các co chữ trong một chữ, khoảng cách giữa các chữ với nhau trong một
hàng. GV lại quan sát tổng thể cả lớp để kịp thời giúp đỡ những em gặp khó khăn. Tạo cho các
em một tâm thế thoải mái khi viết cũng như khi cần sự hỗ trợ của cô khi các em chưa rõ hoặc
gặp trắc trở gì sẽ mạnh dạn bày tỏ ý kiến.
* Giai đoạn sang giữa học kì II: Bước đầu tập cho HS viết bằng bút mực, đây cũng là một vấn
đề khó khăn đối với HS nên GV lại phải hướng dẫn cách sử dụng bút mực, cách giữ vệ sinh,
cách bảo quản bút…; phải đến từng em cầm tay viết mẫu đưa từng nét chữ cho các em quen
dần, hằng ngày như thế cho đến khi tất cả các em viết thành thạo, trơn nét mới thôi.
* Giai đoạn học kì II ( phần Tập đọc): Để tạo tiền đề cho lớp 2, GV phải hướng dẫn các em
viết chữ cỡ nhỏ khi thực hành viết Chính tả, ghi vở ô li Toán, vở Ghi chung. Đây như một bước
ngoặt đối với các em, cấu tạo chữ không thay đổi nhưng kích thước thay đổi( đều được giảm 1/
2 tỉ lệ). Cái khó ở đây là học sinh không xác định được chính xác chiều cao, độ rộng của các
con chữ nên chữ viết không đều, to nhỏ lẫn lộn. Phần này đòi hỏi GV phải chịu khó, tỉ mỉ, cẩn
thận từng tí chút và được luyện vào bảng con nhiều lần rồi mới thực hành viết vào vở. GV cũng
phải cầm tay giúp các em viết tốt hơn. Giai đoạn này HS đồng thời phải viết cả hai chữ ( vừa và
nhỏ) nên dễ nhầm lẫn, vì vậy GV phải nhắc nhở thường xuyên.
Giai đoạn này, chương trình phân môn Tập viết cho HS làm quen chữ viết hoa, các
em được tô theo mẫu chữ trong vở Tập viết. GV cũng phải hướng dẫn thật cụ thể từng nét, cho
các em tập viết trên bảng con trước ( mặc dầu chưa thật chính xác như yêu cầu nhưng cũng
khuyến khích HS viết còn GV thì cố gắng chỉnh sửa đến mức có thể). Bên cạnh đó, trong các
tiết luyện Tiếng Việt tôi dành thời gian cho các em luyện viết chữ hoa đã được tô theo chương
trình quy định.Trong vở Tập viết, vở Thực hành viết đúng, viết đẹp. Tôi đã hướng dẫn các em
viết theo nhóm các chữ có nét giống nhau ( B, R, P; C, L, S; K,H; …) trước hết tôi cho các em
luyện một số nét cơ bản sau đó ghép các nét thành chữ hoa cần viết. Ví dụ các nhóm nét như:
B, R, P, C, S, K, H
Nếu viết tốt các nét cơ bản, giúp các em dễ dàng hơn khi ghép các nét lại thành chữ
hoa cần viết, các em sẽ viết được đẹp hơn. Ví dụ: B, S
5. Kết hợp với giáo viên bộ môn:
Chúng tôi thảo luận và đi đến thống nhất về phương pháp, cách hướng dẫn viết cũng

như cách trình bày cho HS nên bài mới hay luyện tập của cô bộ môn cũng như chủ nhiệm đều
rất nhịp nhàng, không gây ra sự khập khễnh điều này giúp các em yên tâm không phải băn
khoăn khi phải lựa chọn theo cách của cô bộ môn hay theo cô chủ nhiệm . Chính vì thế nên kĩ
năng viết chữ của các em phần lớn rất tốt.
6. Hình thức ngoại khóa:
Tôi thường xuyên tổ chức cho các em thi viết chữ đẹp, viết nhanh trong lớp mỗi
tháng một lần( có thể viết vào giấy riêng, viết vở hay bảng con), bài viết có thể là một số chữ
bất kì đã học hay chính bài viết của các em hôm đó. …Tổ chức hoạt động này với hình thức
nhẹ nhàng, thoải mái và hiệu quả. Kết quả những bài viết đẹp, nhanh được đưa lên trưng bày ở
Góc học tập, Góc thi đua ở phần sản phẩm đẹp của lớp để các bạn khác học tập, đồng thời
những bài viết đẹp được thưởng những bông hoa điểm 10 ghi vào bảng Hoa điểm 10. để động
viên, khuyến khích HS tập viết.
7. Phối kết hợp với phụ huynh:
- Vào đầu năm học, qua cuộc họp phụ huynh tôi phổ biến cho phụ huynh về kế hoạch
thực hiện trong học kì, trong năm; nội dung, phương pháp, hình thức dạy học của mình.
- Phổ biến nội quy, quy định chung của chương trình và quy định riêng cho phân môn
Tập viết lớp Một: Tư thế ngồi, cách cầm bút, mẫu chữ viết, cỡ chữ, cách trình bày., ….Các giai
đoạn tập viết, đồ dùng cần thiết, phù hợp cho việc học Tập viết.
- Dạy mẫu cho phụ huynh xem ( khi phụ huynh yêu cầu).
- Trong suốt quá trình học thường xuyên giữ mỗi liên hệ với phụ huynh để nắm bắt kĩ
năng viết ở nhà so với ở lớp để từ đó có các giải pháp điều chỉnh phù hợp giúp các em viết tốt
hơn.
8. Xếp chỗ ngồi hợp lí:
- Sắp xếp HS khá, giỏi ngồi cùng bàn với HS yếu ghép thành một đôi bạn cùng tiến,
đôi bạn này sẽ hỗ trợ cho nhau để cùng nhau tiến bộ.
- Thường xuyên thay đổi chỗ ngồi mỗi tuần một lần để không ảnh hưởng đến thị lực
của các em.
9. Chú ý đến từng đối tượng học sinh:
- Đối với HS khá, giỏi: Yêu cầu cao hơn về tốc độ viết, kĩ thuật thẩm mĩ từng nét,
cách trình bày, số lượng cũng nhiều hơn, điểm chấm khắt khe hơn.

- Đối với HS yếu: GV quan tâm nhiều hơn, thường xuyên theo dõi giúp đỡ, chỉnh sửa
kịp thời ( GV - HS và HS - HS), động viên khuyến khích để các em ngày càng tự tin và sẽ học
tốt hơn. Phần còn lại chưa hoàn thành ở tiết học chính sẽ được hoàn thành trong các tiết luyện
hoặc giờ tự học.
PHẦN III:KẾT LUẬN
Những giải pháp, cách thức tổ chức đã trình bày trên đây tôi đã áp dụng trong các tiết dạy tập
viết của lớp tôi và đã phổ biến rộng ra trong, tổ được đồng nghiệp đồng tình ủng hộ và áp dụng.
Với cách dạy như thế tôi thấy kỹ năng viết chữ của HS đúng mẫu, đẹp, nhanh, kể cả những HS
học còn chậm về các môn. Tạo cho các em sự hứng thú, yêu thích khi học tập viết.
I. Kết quả các lần khảo sát chữ viết của HS lớp 1E trong năm học 2011 - 2012 như sau:
Lớp Số
HS
Đầu năm Giữa kì I Giữa kì II
G K TB Y G K TB Y G K TB Y
1E 19 1 5 7 6 4 8 4 3 7 10 1 1
Kết quả thi chữ viết đẹp cấp trường, lớp có 10 em tham gia thi được công nhận 6 em . có 3
em tham gia chữ viết đẹp cấp huyện đều đoạt giải.
Vậy qua khảo sát về chữ viết, chấm vở sạch chữ đẹp của học sinh trong lớp cho thấy
chất lượng về chữ viết ngày càng được nâng lên rõ rệt, tuy nhiên vẫn còn 1 em đạt kết quả còn
thấp( do thiểu năng trí tuệ ).
II. Bài học kinh nghiệm:
Về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học viết đúng, đẹp thì thầy, cô nào cũng biết
nhưng để đạt được kết quả tốt không phải dễ, đòi hỏi GV phải kiên trì thực hiện. Đó là sự tỉ mỉ
uốn nắn từng nét cho cả lớp và cho từng bàn tay nhỏ xíu. Đó là tính kiên nhẫn làm đi làm lại
( từ 1 đến n lần vẫn không thừa ), lần nào cũng với tất cả lòng yêu thương và đầy trách nhiệm.
Đó là nguyên tắc đi từ dễ đến khó( từ dùng bút chì đến bút mực; từ viết tô đến viết buông; từ
nét đơn giản đến nét phức tạp; từ cỡ chữ vừa đến cỡ chữ nhỏ; từ chữ thường đến chữ hoa…).
Đó là phương pháp làm mẫu - bắt chước và còn là sự làm gương của thầy cô mỗi khi cầm bút,
ngồi viết trước học trò. Để dạy cho HS lớp Một viết đúng, viết đẹp không phải ngày một, ngày
hai mà là một cả quá trình khổ luyện. Muốn vậy người giáo viên cần phải:

- Có kĩ năng viết chữ mẫu đúng chuẩn, một gương mẫu chuẩn về tư thế ngồi viết, tay
cầm bút khi viết.
- Có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm, chịu khó, khéo léo, cẩn thận và kiên trì, quan
tâm đến tất cả mọi đối tượng học sinh, đặc biệt hơn đối với học sinh còn gặp khó khăn trong
học tập.
- GV phải nắm vững chữ mẫu, cấu tạo của các chữ cái.
- Biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp đối
tượng.
- Nắm vững nguyên tắc dạy Tập viết; các thuật ngữ gọi tên các nét, kĩ thuật viết( lia
bút, rê bút…)
- GV tạo được không khí thoải mái, khích lệ cho HS khi học tập viết.
- Tận dụng thời gian cho HS được luyện tập nhiều.
- Kết hợp chặt chẽ mỗi liên hệ giữa nhà trường, gia đình, xã hội.
- Ngoài ra trong quá trình dạy HS tập viết, GV phải thường xuyên nhắc nhở, chỉnh sửa
tư thế ngồi viết, cách đặt vở, cách cầm bút, khoảng cách giữa mắt với vở,… Đồ dùng học tập
đầy đủ, phù hợp.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng dạy Tập viết cho lớp tôi đã được tổ
chuyên môn ủng hộ trong những năm qua và cũng đem lại kết quả tương đối khả quan. Tôi
mạnh dạn trình bày lên đây mong nhận được mọi ý kiến đóng góp quý báu từ đồng nghiệpvà
hội đồng bộ môn. Tôi chân thành cảm ơn !
Yên Hợp, tháng 4 / 2012.
Người viết
Nguyễn Thị Hoài Nam
MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC THÀNH TIẾNG
CHO HỌC SINH LỚP MỘT
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐÒ
Giáo dục tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển
toàn diên nhân cách con người, cho giáo dục phổ thông và cho toàn hệ thống giáo dục
quốc dân.Bước vào Tiểu học, học sinh đến với dạng hoạt động mới: Hoạt động học tập.
Nhờ đó mà học sinh Tiểu học hình thành được cách học với hệ thống kĩ năng cơ bản tạo

thành năng lực học tập của các em. Trong hệ thống các kĩ năng mà học sinh được học ,
thì kĩ năng quan trọng hàng đầu đó là đọc thành tiếng: Đọc đúng và trơn tiếng; đọc liền
từ, đọc cụm từ và câu: ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. Đây là kĩ năng then chốt tạo tiền đề cho
việc học tất cả các môn học của học sinh.
PHẦN II:THỰC TRẠNG
Do học sinh ghi nhớ âm và chữ ghi âm còn chậm, khả năng tổng hợp các âm vần,
tiếng, từ, chưa được nhanh, vì thế khi đọc học sinh còn phải dịch lâu dẫn tới học sinh
đọc rời rạc từng tiếng.
Học sinh chưa phân biệt được những điểm giống và khác nhau của các vần trong
một nhóm vần có một đặc điểm giống nhau cho nên khi đọc học sinh còn đọc lẫn lộn
giữa vần này với vần kia.
Học sinh đọc sai từ do chưa hiểu nghĩa của từ.
Giáo viên chưa linh hoạt khi sử dụng các phương pháp dạy học : Chưa biết bố trí
lượng thời gian cho phù hợp với từng phần bài dạy; tiết dạy còn dàn trải, thiếu trọng
tâm: cò rối rắm vào các thao tác sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên , thao tác sử
dụng đồ dùng học tập của học sinh dẫn tới tiết dạy chưa khắc sâu được các kiến thức, kĩ
năng theo yêu cầu một cách khoa học.
Khi dạy học sinh đọc câu, giáo viên không chú ý luyện cho học sinh cách đọc
theo quy trình: Tiếng, từ, cụm từ, câu- cho nên học sinh sẽ gặp khó khăn khi luyên đọc
liền từ, liền cụm từ, liền câu; ngắt nghỉ hơi chưa đúng chỗ.
Một số phụ huynh chưa biết cách hướng dẫn con em học ở nhà dẫn đến các em
còn đọc vẹt hoặc đánh vần sai ( Cam: cờ- a-m –am cờ -am cam)
Đó là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng đọc thành tiếng của học
sinh.
PHẦN III: CÁC BIỆN PHÁP
1. Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh :
Phân loai học sinh theo 3 mức:
• Học sinh tiếp thu bài nhanh
• Học sinh tiếp thu bài ở mức trung bình.
• Học sinh tiếp thu bài chậm .

Sắp xếp chỗ ngồi học sinh một cách hợp lí: Cứ một em tiếp thu bài chậm ngồi xen
kẽ với một em tiếp thu bài nhanh hoặc tiếp thu bài ở mức trung bình để các em giúp đỡ
nhau trong học tập.
2. Phổ biến cho phụ huynh hướng dẫn các em học ở nhà:
Thông báo rõ khả năng học tập của từng em và phổ biến cho phụ huynh cách
hướng dẫn học sinh cách đánh vần ở nhà (tránh tình trạng đọc vẹt- bố mẹ đọc trước con
đọc theo sau) ví dụ HD đọc tiếng :cam là; cờ -am – cam thông qua cuộc họp phụ huynh
đầu năm,để phu huynh nắm bắt ngay cách dạy con học ở nhà.
GV thường xuyên thông báo kết quả học tập của học sinh cho phụ huynh rõ vào
cuối tuần, khi phụ huynh đến đón con hay qua điện thoại( Thông dụng với xã hội hiện
giờ) và phải giữ mối liên hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh nhất là
những em chểnh mảng trong việc tiếp thu bài hay không chuẩn bị bài ở nhà.
3. Hướng dẫn học sinh ghi nhớ âm và chữ ghi âm:
Cho học sinh nhận diện kĩ chữ ghi âm trên bảng bằng cách so sánh chữ ghi âm
mới với những đồ vật, hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của các em
Ví dụ: Chữ h giống cái ghế tựa
Chữ t giống dấu +
Sau khi nhận diện kĩ chữ ghi âm , Gv cho học sinh tìm chữ ghi âm trong bộ đồ dùng
Thực hành Tiếng việt 1.
Giáo viên phát âm chuẩn sau đó chi học sinh thực hành phát âm nhiều lần,
HS đọc nối tiếp theo dãy( dọc hoặc ngang) em này đọc rồi đến em kia còn cả lớp cứ
nhẩm thầm theo.Còn khi học sinh gặp khó khăn trong việc phát âm ,vần thì khi đó giáo
viên phải dùng biện pháp phân tích cấu âm.GV đọc mẫu cho em đó đọc lại theo cách
nhìn miệng cô để uốn lưỡi theo.
4. Hướng dẫn học sinh đọc vần ,đọc tiếng:
Khi dạy vần Gv cần cho HS quan sát , phân tích vần kĩ sau đó hướng dẫn học
sinh đọc bằng cách Giáo viên đọc mẫu chuẩn hoặc cho 1 – 2 học sinh khá giỏi đọc mẫu
trước sau đó cho học sinh thực hành luyện đọc nhiều lần. Nếu học sinh đọc còn sai hoặc
khó khăn khi đọc GV cần phân tích cấu âm để giúp học sinh hiểu rõ cơ chế phát âm.
Ví dụ: vần oa : âm o đứng trước phát âm tròn môi, âm a đứng sau phát âm không

tròn môi. Vì vậy khi đọc vần oa bắt đầu là tròn môi và kết thúc không tròn môi. ( GV
làm mẫu).
Cho học sinh so sánh đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa các vần trong một
bài học, sau đó cho học sinh đọc phân biệt ngay, để tránh được sự nhầm lẫn ngay cho
học sinh.
Hướng dẫn học sinh đọc tiếng bằng cách tách nhẩm tiếng thành âm đầu – vần-
thanh sau tổng hợp lại và đọc.
Nếu học sinh tách tiếng thành âm đầu nhưng không đọc được vần , Gv hướng dẫn
học sinh tách vần thành các âm , sau đó đọc tổng hợp âm đầu- vần- thanh để đọc.
Việc hướng dẫn học sinh đánh vần chủ yếu khi dạy vần, tiếng khóa còn khi học
sinh luyện đọc từ ứng dụng thì nên hạn chế việc đánh vần. Chỉ nên áp dụng với học tiếp
thu bài chậm.Giáo viên nên khuyễn khích học sinh đọc trơn tiếng để giúp học sinh đọc
liền từ, liền cụm từ và câu.
Để giúp học sinh ghi nhớ cầu tạo của tiếng một cách chắc chắn, Giáo viên nên áp
dụng những cahs làm sau:
+ Yêu cầu học sinh đọc những tiếng bất kì trên bảng không theo thứ tự bài học
mà theo lệnh chỉ bất kì của giáo viên.
+ Yêu cầu học sinh nhắm mắt , phân tích cấu tạo của một tiếng nao đó theo yêu
cầu của giáo viên.
Cách làm này vừa phát triển tư duy cho học sinh, vừa thay đổi không khí lớp học
, tạo sự hấp dẫn lôi cuốn học sinh vào bài học tiết học tránh được sự khô khan, nhàm
chán cho học sinh.
5. Hướng dẫn học sinh đọc liền từ, liền cụm từ, liền câu; ngắt, nghỉ ( hơi)
đúng chỗ.
- Giáo viên phải phân biệt từ- cụm từ- câu trong bài đọc.
- chú ý luyện cho học sinh ngay từ giai đoạn học vần.
- hướng dần học sinh đọc theo quy trình: tiếng- từ- cụm từ- câu.
Ví dụ: Câu ứng dụng bài 40:iu, êu
“ cây bưởi, cây táo nhà bà đều sai trĩu quả”
Với học sinh yếu chỉ yêu câu học sinh đọc từ, học sinh trung bình đọc cụm từ, học sinh

khá , giỏi đọc câu, cả bài.
Để trành việc học sinh đọc vẹt, giáo viên dùng thước chỉ đảo trật tự câu (nhưng
vẫn phải phù hợp nội dung của bài)
Ví dụ ở câu ứng dụng trên có thể đảo: Cây táo, cây bưởi nhà bà đều sai trĩu
quả.
Hoặc ở Bài 66: uôm, ươm Câu:
- Những bông cải nở rộ nhuộm vàng cả cánh đồng. Trên trời, bướm bay
lượn từng đàn.
* Có thể đổi trật tự câu:
- Trên trời, bướm bay lượn từng đàn.Những bông cải nở rộ nhuộm vàng cả
cánh đồng.
Khi học sinh đọc sai từ do chưa hiểu nghĩa của từ giáo viên nên dừng lại và
giải nghĩa từ đó cho học sinh hiểu sau đó mới cho học sinh khác đọc tiếp.
Giáo viên không giải nghĩa từ bằng cách di danh định nghĩa mà giải nghĩa
từ một cách dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh.
Giải nghĩa từ bằng nhiều cách: có thể bằng lời, có thể câu nói chứa từ đó,
hoặc tranh ảnh, vật thật.
Hướng dẫn học sinh cách đọc ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ: Đọc trôi chảy, ngắt
hơi ở đấu phẩy (,), Nghỉ hơi ở dấu chấm (.) Và cho học sinh thực hành thường xuyên.
Với những học sinh đã đọc trôi chảy, Gv nên hướng dẫn( chủ yếu là làm
mẫu) và khuyến khích học sinh luyện đọc diền cảm. Yêu cầu này nên khuyến khích học
sinh thể hiện sau khi học sinh đã tìm hiểu bài.
IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Năm
học
Số HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6
Điểm 4 trở
xuống
SL % SL % SL % SL %
2010-

2011
23 7 30,5 9 39.1 5 21.7 2 8.7
2011-
2012
18 6 33,3 10 55,5 1 5,6 1 5,6
2012-
2013
19 8 42,1 7 36,8 4 21,1 0 0
V.KẾT LUẬN
Hướng dẫn học sinh phương phát ghi nhớ âm và chữ ghi âm bằng cách quan sát ,
so sánh chữ ghi âm với các đồ vật, hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống hăng ngày của
các em và các em tự tìm , ghép,tái hiện lai trên đồ dùng.
Hướng dẫn học sinh kĩ năng đọc ghép âm thành vần, kĩ năng đọc tiếng bằng cách
tách âm đầu, vần, thanh sau đó đọc tổng hợp.
Ở những cắp vần có cùng một đặc điểm giống nhau khiến cho học sinh hay lẫn
lộn, giáo viên phải cho học sinh so sánh, đọc phân biệt vần ngay khi giới thiệu vần mới
thứ hai để khắc sâu về cấu tạo vần cũng như cách phát âm.
Hướng dẫn học sinh cách đọc ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ ở các dấu câu và các ý
trong bài.
Giáo viên phải thường xuyên suy nghĩ tìm tòi để thay đổi các hình thức tổ chức
dạy học , tạo sự hứng thú hấp dẫn lôi cuốn học sinh vào tiết học.
Phổ biến cho phụ huynh cách hướng dẫn học sinh học ở nhà. Thường xuyên phối hợp
chặt chẽ với phụ huynh học sinh.
Luôn động viên khích lệ học sinh để giúp các em phấn khởi , tin tưởng trong học
tập.
Ở những từ học sinh đọc sai do không hiểu nghĩa của từ, giáo viên phải dùng lại
giải nghĩa từ, sau đó mới cho học sinh khác đọc. Khi giải nghĩa, không giải nghĩa bằng
cách di danh định nghĩa mà giải nghĩa từ một cách dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm nhận
thức của học sinh.
Để hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng đọc liền từ, cụm từ câu giáo viên phải

phân biệt được từ, cụm từ, câu trong bài đọc. Khi hướng dẫn học sinh đọc câu, giáo viên
phải hướng dẫn học sinh đọc theo quy trình : Tiếng- từ- cụm từ- câu và tiến hành ngay
từ giai đoạn học vần.
Để tránh học sinh đọc vẹt giáo viên cho học sinh đọc đảo trật tự câu nhưng phải
phù hợp với nội dung bài
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng rèn kĩ năng đọc thành tiếng cho học
sinh lớp tôi dạy trong những năm qua đã được tổ chuyên môn ủng hộ và cũng đem lại kết quả
tương đối khả quan. Tôi mạnh dạn trình bày lên đây mong nhận được mọi ý kiến đóng góp quý
báu từ đồng nghiệpvà hội đồng bộ môn. Tôi chân thành cảm ơn !
Yên Hợp, tháng 3 / 2013
Người viết
Nguyễn Thị Hoài Nam
Phòng GD&ĐT quỳ Hợp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tr ờng Tiểu học Yên Hợp Độc lập Tự do Hạnh phúc

Kinh nghiệm rèn viết chữ đúng và đẹp
cho học sinh lớp 5
Họ và tên ngời viết: Nguyễn Thị Hoài Nam
Đơn vị: Trờng Tiểu học Yên Hợp
A- Đặt vấn đề
Đọc thông ,viết thạo là kĩ năng cần đạt đợc của học sinh tiểu học nói chung và của học sinh
lớp 1 nói riêng. Viết thạo sẽ giúp trẻ ghi nhanh ghi rõ ràng và ghi đúng những điều thầy giảng
và những gì trẻ nghĩ. Nhng muốn viết thạo trẻ phải gắng công khổ luyện dới sự chăm sóc nhiệt
tình của thầy cô giáo với những quy tắc chặt chẽ trớc những mẫu chữ đẹp. Trong nhà trờng dù
một em giỏi toán hay văn mà chữ viết sai mẫu, sai cỡ, đặc biệt là sai lỗi chính tả thì kết quả
bài văn , bài toán kia sẽ bị hạn chế không ít. Chữ viết đối với ngời học sinh, nhất là đối với học
sinh Lớp Một lại thật quan trọng Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng tốc độ nhanh thì học sinh có
điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn.
Ngoài ra Tập viết nó không chỉ dừng lại ở bài làm, tác phẩm hay báo cáo điển hình mà nó còn
thể hiện đức tính, tính cách ,nhân cách cuả con ngời. Nh cố Thủ tớng Phạm Văn Đồng nói:

Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết ngời. dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp
là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng nh đối với
thầy với bạn.
Tiểu học là bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và Tập viết Tiếng Việt là chúng ta đã trao cho
các em chìa khóa để cho các em mở ra những cánh cửa bớc vào tơng lai, là công cụ để các em
vận dụng suốt đời.
Là một giáo viên dạy lớp Một, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để học sinh của mình viết
đúng ,viết đẹp. Chính vì vậy bản thân tôi đã mạnh dạn chọn đề tài Rèn chữ Viết đúng Viết
đẹp cho học sinh lớp Một để nâng cao chất lợng vở sạch, chữ đẹp .
B. Nội dung:
I. Thực trạng
Dạy tốt phân môn Tập viết không những tạo nền móng cho việc học tốt môn Tiếng Việt mà nó
còn là cơ sở cho học sinh viết chữ đẹp.
Vậy nên mấy năm lại đây Phòng giáo dục huyện Quỳ Hợp đã tổ chức thi Viết chữ đẹp cho
GV, HS tiểu học Và Phong trào Giữ vở sạch Viết chữ đẹp. Đang đợc nhân rộng cho nên
chất lợng chữ viết hiện nay của học sinh tiểu học, là một vấn đề rất đáng quan tâm.
ở lớp tôi thời gian đầu khoảng 15/ 22 em không có kĩ năng viết: liền nét, liền mạch. Điểm đặt
bút , điểm kết thúc, rê bút cha đúng. Dẫn đến sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các
chữ cái cha chuẩn, tốc độ viết còn chậm. Bên cạnh đó học sinh sử dụng nhiều loại bút ( bút chì
ngòi, bút chì cứng Bút bi, bút chữ A, ) để viết bài nên hạn chế trong việc giữ gìn Vở sạch-
Chữ đẹp. Cá biệt hơn có 2 em viết rồi không đọc nổi chữ mình viết.
Sở dĩ các em viết chữ kém nh vậy theo tôi thấy hầu nh khi học mẫu giáo các em cha có ý thức
học tập, cha thực sự học viết chữ, viết số, đếm số. Rồi khi vào lớp Một các em phải làm quen
với các nét cơ bản. Khi viết phải biết điểm đặt bút ở đờng kẻ thứ mấy, cao mấy, rộng mấy ô
vuông, đến đờng kẻ thứ mấy thì vòng qua trái,(qua phải) Các em cha thấy đợc tầm quan
trọng của chữ viết trong quá trình học tập.
( Cha nói đến những em không qua lớp mẫu giáo các em cha biết chữ cái.)
II. Các biện pháp:
Từ thực trạng chữ viết của học sinh Tiểu học hiện nay, Đồng thời bản thân giáo viên cũng
nhận thức rõ tầm quan trọng của chữ viết ở lớp Một. Nên trong quá trình dạy học tôi đã chú ý

đến các điều kiện : phơng tiện, phơng pháp, hình thức dạy học để nhằm nâng cao chữ viết đẹp
cho học sinh.
1)Về điều kiện cơ sở vật chất
Một ngời thợ thủ công dù lành nghề đến mấy thì trong quá trình làm ra sản phẩm ngời đó
cũng cần phải lựa chọn nguyên vật liệu, chú ý đến từng chi tiết nhỏ, đến sự bền đẹp
Vậy thì hoạt động của giáo viên , học sinh có đạt hiệu quả cao hay không, nó còn phụ thuộc
vào điều kiện cơ vật chất nh lớp học, ánh sáng, bảng, phấn, vở , bút
- Lớp học phải thoáng mát, sạch sẽ,diện tích phòng học phù hợp với số lợng các em học sinh
tạo điều kiện tốt cho việc dạy và học. Đầu năm học lớp tôi chỉ có 3 bóng nêong, tôi đã xin ý
kiến và đợc nhà trờng bổ sung thêm bóng để đủ độ ánh sáng cho lớp học.
- Về bảng lớp đã đợc nhà trờng lắp bảng chống lóa đảm bảo yêu cầu về cả màu sắc và dòng
kẻ.
- Bàn ghế cũng đợc nhà trờng đóng đã phù hợp với độ cao trung bình của đối tợng của học
sinh, giúp các em ngồi thẳng khuỷu tay ngang với mặt bàn.
- Về bảng con: Trong thực tế hiện nay cha thể có phơng tiện nào u việt hơn để thay thế bảng
con cho học sinh luyện viết. Vì vậy tôi đã yêu cầu phụ huynh mua bảng dùng phấn để viết. bên
cạnh đó phấn viết cũng phải là phấn Míc hộp 100 viên, vừa mềm, không bụi, dễ lau. Khăn lau
bảng cần phải sạch sẽ và có độ ẩm, độ dày thích hợp.
- Còn về vở ô li do nhà trờng đặt (Lô gô của trờng) đảm bảo độ dày không thấm.
- Khi HS dùng bút, là bút chì thì các em dùng bút chì ngòi, còn sang kì 2 dùng bút mực là bút
chữ A hãng Thiên Long ngòi nhỏ ( Bút mực Bút luyện chữ đẹp- hãng Hồng Hà).
2. Dạy học sinh t thế ngồi và cách cầm bút:
T thế ngồi không hợp lí làm ảnh hởng đến chất lợng kết quả của viêc luyện viết chữ đẹp và
là một trong những nguyên nhân làm các em chóng mệt mỏi ảnh hởng trực tiếp đến sự phát
triển thể lực của học sinh. Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trớc hết các em
phải biết kĩ thuật cầm bút, bàn tay phải có điểm tựa, cầm bút phải tự nhiên.
Từ đó tôi luôn nhắc các em ngồi đúng t thế; Ngồi ngay ngắn, lng thẳng, không tỳ ngực vào
cạnh bàn, đầu hơi cúi hai mắt cách mặt vở từ 25cm 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên
trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở không xê dịch khi viết, không để quăn mép vở. Cánh tay phải
cũng để nằm ngay trên mặt bàn khi viết cần điều khiển phấn, (bút )viết bằng 3 ngón tay (Ngón

trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển ngòi bút dịch
chuyển linh hoạt. Ngoài ra các động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, khuỷu tay
và cả cánh tay. (đồng thời cho các em xem tranh hớng dẫn ngồi viết ở vở tập viết.)
3. Rèn chữ viết đẹp cho học sinh.
a) Xác định đờng kẻ ngang, đờng kẻ dọc, ôli.
Đây là giai đọan quan trọng nên tôi hớng dẫn các em viết một cách tỉ mỉ, cẩn thận, hớng
dẫn kĩ đến từng học sinh. Đối với HS kém thì phải cầm tay,(Phụ đạo thêm ngoài giờ).
Trong luyện viết có 3 yếu tố về chuẩn chữ viết đẹp: Chữ tròn đều, thẳng nét chân chéo gọn.
muốn thực hiện tốt 3 yếu tố này nên tôi đã chú trọng dạy thật kĩ và chắc các nét cơ bản và
muốn đợc nh vậy thì thời gian đầu GV phải tốn khá nhiều thời gian với các em, cho các em
học vẹt(Bởi trong thì gian này toán cũng mới chỉ học : Nhiều hơn , ít hơn, hình vuông,hình
chữ nhật ) đếm và xác định đờng kẻ, ô vuông(Thậm chí giờ ra chơi Gv dùng gạch lát nền nhà
để cùng chơi và đố các em số ô vuông tơng ứng với viên gạch )
-Chữ viết đợc xác định trên đờng kẻ ngang của vở ô li, vở Tập viết. Đờng kẻ trong vở gồm có
4 dòng kẻ ngang,(Kể từ dới lên: Dòng 1 là đậm, dòng 2,3,4 in nhạt hơn) Từ đó giáo viên dùng
vào làm kí hiệu trong dòng kẻ khi viết.
Ngoài ra trong khung chữ phải dựa vào đờng kẻ dọc, đờng kẻ ngang, ô vuông(li) làm định h-
ớng. Đây là một trong điều kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. Không những thế mà khi
dạy giáo viên còn dùng một số thuật ngữ có liên quan trong khi hớng dẫn viết.(Điểm đặt bút,
điểm kết thúc, đặt ở đờng kẻ, hay nửa ô )
b. Các nét móc cơ bản
Chữ viết đợc viết trên các nét cơ bản- cho nên giáo viên phải cho học sinh nắm chắc cấu tạo nét
và tên gọi của các nét:
- Nét ngang
- Nét thẳng,
- Nét xiên phải,
- Nét xiên trái,
- Nét móc lên
- Nét móc xuống
- Nét móc hai đầu

- Nét cong hở trái
- Nét cong hở phải
- Nét cong khép kín
- Nét khuyết trên
- Nét khuyết dới
- Nét thắt
Để từ đó các em có kĩ năng phân tích cấu tạo chữ, con chữ đó đợc viết bởi nét nào, rồi nét đó
điểm đặt bút từ đâu đa sang bên nào, cao bao nhiêu, rộng bao nhiêu, điểm kết thúc ở đâu
Chẳng hạn GV:? Chữ a khi viết, đợc viết bởi những nét nào? (Cấu tạo chữ)
HS: Gồm nét cong hở phải và một nét móc lên .
- GV ? Em hãy nêu điểm đặt bút, điểm kết thúc, độ cao, độ rộng của nét cong hở phải, nét
móc lên.(Hớng dẫn viết)
Khi học sinh trả lời đợc thì các em thực hiện viết chữ theo một quy trình hợp lí, chủ động đợc
nét bút của mình. Và đó cũng là cơ sở để các em viết nhanh, đúng và đẹp.
* Ví dụ: +) Nét móc lên:
- Cấu tạo: Độ cao 2 li (2 ô vuông) Rộng1 li ( 1 ô vuông)
- Hớng dẫn viết : Lấy đờng kể đậm làm đờng kẻ thứ nhất kể từ dới lên. Điểm đặt
bút đầu tiên ở đờng kẻ thứ 3 kể từ dới lên- rê bút thẳng xuống đến đờng kẻ thứ nhất thì vòng
sang phải độ rộng 1 ô li, điểm kết thúc ở đờng kẻ thứ 2 kể từ dới lên.
+Khi viết nét congkhép kín:
Nêu cấu tạo : độ cao 2 ô li, bề ngang rộnghơn 1 ô li một chút.
Hớng dẫn viết : Lấy đờng kể đậm làm đờng kẻ thứ nhất kể từ dới lên. Điểm đặt bút bên dới
dòng 3 một chút , đa nét bút sang trái và lợn cong xuống chạm đờng kẻ thứ 1, tiếp tục đa về
bên phải độ rộng hơn một ô li(1,25) và lợn cong lên cho đến khi chạm nét đặt bút (lu ý cho học
sinh viết nét cong kín không nhấc bút , không đa bút ngợc chiều, không xoay tờ giấy, nét bút
không viết nhọn quá).
+ Khi viết nét khuyết trên:
Cấu tạo: độ cao 5 ô li, chiều ngang rộng 1ô li (phần bụng của nét khuyết).

×