Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghiên cứu sử dụng chế phẩm nấm có ích Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae trong phòng trừ sâu xanh bướm trắng (Peieris rapae) hại rau họ hoa thập tự.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.51 MB, 65 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



BẠCH THỊ ĐIỆP


Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG CHẾ PHẨM NẤM CÓ ÍCH
PAECILOMYCES JAVANICUS VÀ METARHIZIUM ANISOPLIAE
TRONG PHÒNG TRỪ SÂU XANH BƯỚM TRẮNG (PEIERIS
RAPAE) HẠI RAU HỌ HOA THẬP TỰ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Ngành : Công nghệ sinh học
Khoa : CNSH - CNTP
Lớp : LTK8-CNSH
Khóa : 2012-2014



Thái Nguyên, 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




BẠCH THỊ ĐIỆP


Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG CHẾ PHẨM NẤM CÓ ÍCH
PAECILOMYCES JAVANICUS VÀ METARHIZIUM ANISOPLIAE
TRONG PHÒNG TRỪ SÂU XANH BƯỚM TRẮNG (PEIERIS
RAPAE) HẠI RAU HỌ HOA THẬP TỰ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Ngành : Công nghệ sinh học
Khoa : CNSH - CNTP
Lớp : LTK8-CNSH
Khóa : 2012-2014
Giáo viên hướng dẫn : 1 PGS.TS. Phạm Thị Vượng
2. TS. Nguyễn Văn Duy


Thái Nguyên, 2014
LỜI CẢM ƠN

Qua một thời gian nỗ lực học tập và nghiên cứu, tới nay em đã hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp: “Nghiên cứu sử dụng chế phẩm nấm có ích
Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae trong phòng trừ sâu
xanh bướm trắng
(Peieris rapae)
hại rau họ hoa thập tự”. Trong quá trình

học tập và nghiên cứu, em đã nhận được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô,
đồng thời cũng nhận được sự giúp đỡ và động viên của gia đình, bạn bè.
Trước hết, em xin gửi lời chân thành cảm ơn tới tất cả các quý thầy cô
trong khoa CNSH - CNTP, Trường Đại học nông lâm Thái Nguyên. Cảm ơn
Viện Bảo vệ thực vật đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu đề tài luận văn này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô PGS. TS. Phạm Thị
Vượng, người đã tận tâm truyền đạt kiến thức cho em và hơn cả là tấm gương
về lòng say mê nghiên cứu khoa học. Xin gửi lời cảm ơn tới thầy TS. Phạm
Văn Duy, giảng viên khoa CNSH - CNTP đã tận tình dạy bảo, hướng dẫn em
hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn Th.s. Nguyễn Thị Chúc Quỳnh cùng toàn
thể anh, chị trong nhóm nghiên cứu Nấm côn trùng, Trung tâm Đấu tranh sinh
học đã truyền đạt cho em tính chính xác, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa
học cũng như tinh thần trách nhiệm với những công việc mình làm. Cuối cùng
em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới những người thân trong gia đình, bố,
mẹ, anh chị em đã động viên, giúp đỡ em cả về vật chất lẫn tinh thần trong
quá trình học tập.
Hà Nội, ngày 7 tháng 6 năm 2014
Sinh viên



Bạch Thị Điệp

MỤC LỤC

Phần 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2

1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học việc sử dụng chế phẩm nấm có ích trong phòng trừ sâu
hại 4
2.2. Tình hình phát sinh, gây hại của sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae) 5
2.3. Sơ lược về Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae 7
2.3.1. Sơ lược về Paecilomyces javanicus 7
2.3.2. Sơ lược về Metarhizium anisopliae 9
2.4. Quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học từ nấm để phòng trừ
sâu hại 12
2.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng chế phẩm nấm có
ích 13
2.5.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 13
2.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 14
Phần 3. ĐỐI TƯƠNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 17
3.1. Đối tượng, vật liệu và phạm vi nghiên cứu 17
3.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 17
3.1.2. Thiết bị thí nghiệm 17
3.1.3. Hóa chất 17
3.1.4. Môi trường nuôi cấy 17
3.1.5. Phạm vi nghiên cứu 18
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu 18
3.3. Nội dung nghiên cứu 18
3.4. Phương pháp nghiên cứu 18
3.4.1. Đánh giá khả năng ký sinh gây chết SXBT hại rau của một số
nguồn nấm đã được phân lập tại Viện bảo vệ thực vật 18
3.4.2. Phân lập lại, làm thuần và tuyển chọn dòng có độc lực cao 19
3.4.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của nấm Paecilomyces javanicus

và Metarhizium anisopliae 21
3.4.4. Đánh giá hiệu quả gây chết sâu ở nấm Paecilomyces javanicus và
Metarhizium anisopliae ở các liều lượng khác nhau. 23
3.5. Các chỉ tiêu theo dõi 25
3.5. Tính toán và xử lý số liệu 25
Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26
4.1. Đánh giá khả năng ký sinh sâu hại của một số nguồn nấm đã thu thập
được tại Viện Bảo vệ thực vật. 26
4.2. Đánh giá tuyển chọn chủng nấm Metarhizium anisopliae và Peacylomyces
javanicus có độc tính cao sau khi đã phân lập lại và làm thuần. 29
4.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của nấm Paecilomyces javanicus và
Metarhizium anisopliae 35
4.3.1. Xác định môi trường tối ưu nhân sinh khối nấm Paecilomyces
javanicus 35
4.3.2. Xác định nhiệt độ thích hợp để nhân sinh khối chế phẩm 39
4.4. Nghiên cứu liều lượng diệt sâu thích hợp với nấm Paecilomyces
javanicus và Metarhizium anisopliae trong phòng thí nghiệm và nhà lưới 41
4.4.1. Thí nghiệm trong phòng 42
4.4.2. Thí nghiệm ngoài nhà lưới 45
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 48
5.1. Kết luận 48
5.2. Kiến nghị 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Các ký hiệu, chữ viết tắt Diễn giải
T

0
C Nhiệt độ
A% Ẩm độ tương đối của không khí
bt Bào tử
VBVTV Viện Bảo vệ thực vật
CT Công thức
ĐC Đối chứng
CS Cộng sự
TB Trung bình
SXBT Sâu xanh bướm trắng
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1. Kết quả đánh giá khả năng diệt sâu của một số nguồn nấm đã
thu thập được tại Viện Bảo vệ thực vật 26
Bảng 4.2. Tỷ lệ ký sinh trở lại gây chết SXBT của một số nguồn nấm đã
thu thập được tại Viện Bảo vệ thực vật 28
Bảng 4.3. Đặc điểm hình thái cơ bản của P. javanicus và M. anisopliae ký
sinh trên sâu hại 30
Bảng 4.4. Hiệu lực phòng trừ SXBT của các chủng nấm Peacilomyces
javanicus đã tuyển chọn 33
Bảng 4.5. Hiệu lực phòng trừ SXBT của các chủng nấm Metarhizium
anisopliae đã tuyển chọn 34
Bảng 4.6. Số lượng bào tử nấm P. javanicus sau 10 ngày nhân sinh khối
trên các loại môi trường nhân sinh khối khác nhau 36
Bảng 4.7. Số lượng bào tử nấm M. anisopliae sau 10 ngày nhân sinh khối
trên các loại môi trường nhân sinh khối khác nhau 37
Bảng 4.8. Số lượng bào tử nấm P. javanicus sau 10 ngày nuôi cấy ở các
mức nhiệt độ không khí khác nhau 39
Bảng 4.9. Số lượng bào tử nấm M. anisopliae sau 10 ngày nuôi cấy ở các
mức nhiệt độ không khí khác nhau 40

Bảng 4.10. Hiệu quả diệt sâu của chế phẩm nấm P. javanicus (Pae-
SXBT
1
) với các liều lượng khác nhau 42
Bảng 4.11. Hiệu quả diệt sâu của chế phẩm nấm M. anisopliae (Ma-
SXBT
1
) với các liều lượng khác nhau 43
Bảng 4.12. Hiệu quả diệt sâu của chế phẩm nấm P. javanicus với các liều
lượng khác nhau 45
Bảng 4.13. Hiệu quả diệt sâu của chế phẩm nấm M. anisopliae với các liều
lượng khác nhau 46

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1. Bắp cải bị sâu xanh bướm trắng gây hại 6
Hình 2.2. Khuẩn lạc Paecilomyces spp. (A) và bào tử nấm P. javanicus
(B) (nguồn ) 8
Hình 2.3. Khuẩn lạc Metarhizium anisopliae (A) và bào tử nấm
Metarhizium anisopliae (B) (nguồn ) 10
Hình 4.1. Khả năng diệt sâu của một số nguồn nấm thu thập được tại Viện
Bảo vệ thực vật. 27
Hình 4.2. Tỷ lệ ký sinh trở lại trên SXBT của một số nguồn nấm thu thập
được tại Viện Bảo vệ thực vật 28
Hình 4.3. Sâu nhiễm nấm M. anisopliae chuyển màu vàng xuất hiện vết
đen (A) và bào tử có màu xanh lục (B) 31
Hình 4.4. SXBT gây hại trên rau (A) và sâu bị nhiễm nấm P. javanicus (B) 31
Hình 4.5. Khuẩn lạc P. javanicus sau 3 ngày (A), 5 ngày (B) và 7 ngày (C) 31
Hình 4.6. Khuẩn lạc của nấm M. anisopliae đã phân lập, làm thuần sau 3
ngày (A) và 7 ngày (B) 32

Hình 4.7. Bào tử của nấm Paecilomyces javanicus 32
Hình 4.8. Bào tử nấm Metarhizium anisopliae 32
Hình 4.9. Hiệu lực gây chết sâu của chủng nấm Paecilomyces javanicus
đã tuyển chọn. 33
Hình 4.10. Hiệu lực gây chết sâu của các chủng nấm Metarhizium
anisopliae đã tuyển chọn. 35
Hình 4.11. Sinh khối nấm P. javanicus sau 10 ngày trên môi trường khác nhau 36
Hình 4.12. Sinh khối nấm M. anisopliae sau 10 ngày trên 3 loại môi
trường khác nhau 38
Hình 4.13. Nhiệt độ thích hợp nhân sinh khối nấm P. javanicus. 39
Hình 4.14. Nhiệt độ thích hợp cho nhân sinh khối nấm M. anisopliae. 41
Hình 4.15. Liều lượng diệt sâu xanh bướm trắng của nấm P. javanicus sau
các ngày phun 42
Hình 4.16. Liều lượng diệt sâu xanh bướm trắng của nấm M. anisopliae
sau các ngày phun 44
Hình 4.17. Liều lượng diệt sâu SXBT của nấm P. javanicus sau các ngày phun 45
Hình 4.18. Liều lượng diệt sâu thích hợp của nấm M. anisopliae sau các
ngày phun 47
1
Phần 1. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang
chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa, nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm
lớn, chất lượng cao, an toàn thực phẩm phục vụ tiêu dùng, cung cấp đủ
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Cây rau đã và đang trở
thành cây trồng quan trọng trong cơ cấu cây trồng nông nghiệp. Những cây
rau họ hoa thập tự (Crucirea) là nhóm thực phẩm quan trọng, chiếm 50% tổng
sản lượng rau. Rau thập tự có thời gian sinh trưởng ngắn, nhóm rau này có
thân lá mềm yếu và chứa nhiều chất dinh dưỡng [15].

Kết hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm, rau họ hoa thập tự ở nước ta bị
nhiều loài sâu phá hại như sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, muội, bọ
nhảy…. Trong đó, sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae) là đối tượng gây hại
nguy hiểm nhất trên rau họ hoa thập tự nói chung và bắp cải nói riêng ở khắp
các vùng trồng rau, đặc biệt là ở phía Bắc, ảnh hưởng đến năng suất và chất
lượng rau [12]. Sâu xanh bướm trắng gây hại mạnh nhất từ tháng 10 năm
trước đến tháng 5 năm sau và nặng nhất trong tháng hai trên bắp cải cuộn.
Với đặc tính vòng đời ngắn, sinh sản nhiều, đặc biệt là tính kháng thuốc phát
triển rất nhanh dẫn đến vấn đề dịch hại đã, đang nảy sinh nhanh chóng trên
diện rộng, nhất là ở các vùng sản xuất rau tập trung, gây thiệt hại lớn về năng
suất, chất lượng, kinh tế cho người nông dân. Công tác phòng trừ sâu hại gặp
nhiều khó khăn. Để phòng trừ chúng, người nông dân đã thường xuyên sử
dụng các loại thuốc hóa học bảo vệ thực vật trên đồng ruộng [9].
Hàng năm, có tới hàng ngàn trường hợp bị ngộ độc và nhiều trường
hợp tử vong. Ngoài ra, việc lạm dụng thuốc hóa học còn làm giảm số lượng
thiên địch, sinh vật có ích giảm 70 - 100%, sâu hại kháng thuốc 20 - 1000 lần
so với bình thường, dẫn đến mất cân bằng sinh thái [12].
Việc lạm dụng thuốc hóa học trong bảo vệ thực vật của người dân đã và
đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và sức khỏe con
người…. Không những vậy, nhiều loại thuốc hóa học đã bị cấm sử dụng vẫn
được nông dân sử dụng tràn lan trên đồng ruộng. Song song việc đối mặt với
2
tác hại của sâu bệnh trên đồng ruộng thì nông dân còn phải chịu tác động
không nhỏ của sự ô nhiễm đất, nước, không khí. Cùng với việc các loại rau ăn
hàng ngày tồn dư lượng thuốc hóa học cao gấp nhiều lần cho phép đã dẫn đến
nhiều hậu quả nghiêm trọng với sức khỏe con người.
Xây dựng những vùng rau sản xuất an toàn đã và đang là yêu cầu cấp
bách đối với thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Trong những hướng phòng trừ
sâu bệnh hại rau thì việc áp dụng biện pháp sinh học là cơ sở để hình thành
nên các vùng sản xuất rau an toàn. Do đó, biện pháp phòng trừ sinh học cần

được ưu tiên sử dụng nhằm quản lý dịch hại bền vững, giảm thiểu số lượng sử
dụng cũng như tác hại của thuốc bảo vệ thực vật. Rất nhiều chế phẩm sinh
học đã và đang sử dụng trong phòng trừ sâu hại phổ biến trên các vùng trồng
rau như: MPV, NPV, B.t, Delfin…. Trong đó, hướng sử dụng chế phẩm nấm
có ích là hiệu quả, an toàn với môi trường và đáp ứng được nhu cầu cấp thiết.
Vấn đề nghiên cứu sử dụng nấm có ích Peacilomyces javanicus và
Metarhizium anisopliae để sản xuất chế phẩm sinh học trừ sâu hại rau họ hoa
thập tự đã có nhiều thành công và có ý nghĩa to lớn về kinh tế…. Việc thu
thập, phân lập và thử nghiệm các dòng nấm có khả năng diệt sâu xanh bướm
trắng là yêu cầu cấp thiết. Những năm gần đây, Viện Bảo vệ thực vật đã tuyển
chọn được nhiều chủng nấm. Hai loài Paecilomyces javanicus và
Metarhizium anisopliae đã nghiên cứu, ứng dụng trên rầy nâu hại lúa, sâu tơ,
sâu khoang…. nhưng chưa có nhiều nghiên cứu trên đối tượng sâu xanh
bướm trắng. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu
sử dụng chế phẩm nấm có ích Peacilomyces javanicus và Metarhizium
anisopliae trong phòng trừ sâu xanh bướm trắng (Peieris rapae) hại rau
họ hoa thập tự”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tuyển chọn chủng nấm Paecilomyces javanicus và Metarhizium
anisopliae có hoạt lực cao diệt sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae) từ nguồn
nấm đã thu thập được tại Viện Bảo vệ thực vật. Nghiên cứu sử dụng hai loài
nấm Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae để sản xuất chế phẩm
sinh học phòng trừ sâu xanh bướm trắng (SXBT) hại rau họ hoa thập tự.
3
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định một số đặc điểm sinh học, sinh thái chính của loài nấm
Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae làm cơ sở trong việc tạo chế
phẩm sinh học trong phòng trừ SXBT (Pieris rapae) hại rau họ hoa thập tự.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp dữ liệu khoa học cần thiết góp phần

làm cơ sở cho việc xây dựng biện pháp sinh học phòng trừ SXBT có hiệu quả.
- Đề tài là cơ sở khoa học, định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo
trong phòng trừ SXBT ngoài đồng ruộng.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Nghiên cứu sử dụng chế phẩm Paecilomyces javanicus, Metarhizium
anisopliae trong phòng trừ SXBT, giảm sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, góp
phần bảo vệ môi trường sinh thái.
- Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế kỹ thuật của
biện pháp phòng trừ sinh học trong hệ thống quản lý tổng hợp sâu hại rau họ
hoa thập tự (IPM), bảo vệ môi trường, thiên địch trên đồng ruộng, tạo sản
phẩm rau an toàn cho người tiêu dùng, chế biến và xuất khẩu.









4
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học việc sử dụng chế phẩm nấm có ích trong phòng trừ
sâu hại
Trong sinh quần nông nghiệp có nhiều tác nhân sinh học là nhân tố
điều hòa tự nhiên, duy trì cân bằng sinh thái của quần thể sinh vật trên đồng
ruộng [6]. Trong số các tác nhân sinh học gây chết sâu hại cây trồng, nấm ký
sinh côn trùng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bằng quá trình đấu tranh
sinh học, các nấm diệt sâu trong thiên nhiên đã làm được nhiệm vụ điều hoà

và tiêu diệt một lượng lớn các côn trùng gây hại [16].
Nước ta là một nước khí hậu nhiệt đới gió mùa, với khí hậu nóng ẩm
quanh năm, độ ẩm cao nên rất thuận lợi có sự phát sinh và lây nhiễm của nấm bệnh.
Thành phần nấm ký sinh trên các sinh vật trong tự nhiên rất đa dạng và phong phú.
Trong đó, có hai loài nấm Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae.
Nấm Spicaria javanica (tên cũ của nấm Paecilomyces javanicus) lần
đầu tiên được tác giả Friederichs và Bally - Meded phát hiện, ghi nhận vào
năm 1923 trên sâu non bộ cánh vẩy. Đến năm 1957, tác giả A.H.S. Brown. và
G. Smith, đưa vào hệ thống chi Paecilomyces và đặt tên là Paecilomyces
javanicus. Sau đó tên của nấm đã được thay đổi 3 lần vào các năm: 1959 với
tên khoa học là Spicaria formosensis (tác giả Sowoda người Đài Loan), 1993
là Cordyceps scarabaeicola (tác giả Liang Z. Q, Trung Quốc) và vào năm
2005 là Isaria javanicus (Samson và Hywel). Tuy nhiên, danh pháp
Paecilomyces javanicus vẫn là tên nấm được dùng thông dụng và phổ biến
nhất hiện nay [25; 30; 37].
Nấm Paecilomyces javanicus đã được ứng dụng để phòng trừ nhiều loại
côn trùng bộ cánh vảy (Lepidoptera) và bộ hai cánh (Diptera) hại cây trồng như
sâu tơ Plutella xyllostella, sâu khoang (Spodoptera litura), sâu ăn lá (Trilocha
varians) và một số loại côn trùng thuộc bộ hai cánh [20; 27; 37].
Nấm Metarhizium anisopliae là loài phổ biến, chúng phân bố và có phổ
ký chủ rất rộng. Vào năm 1879, tác giả Metchnikov đã phân lập được loài
nấm trên từ bọ cánh cứng Anisopliae austrinia và ông đặt tên là
Entomophtora anisopliae và khuyến cáo nên sử dụng nấm này để phòng trừ
5
các loại côn trùng hại cây trồng. Năm 1883, tác giả Sorokin đổi lại nấm này
thành tên Metarhizium anisopliae Sorokin. Vì nấm có màu lục hoặc xanh lục
nên người ta thường gọi là nấm lục cương hay nấm xanh. Năm 1976, nhà
khoa học Tulloc đã phân loại nấm và rút ra kết luận trong chi Metarhizium chỉ
có hai loài nấm đó là Metarhizium anisopliae và Metarhizium flavoviride,
trong đó loài Metarhizium anisopliae chiếm khoảng 70%. Sau đó, tác giả đặt

lại tên cho loài nấm gây bệnh côn trùng Metarhizium anisopliae là nấm
Mertarhizium album và Mertarhizium brunneum. Hiện nay, nhiều nước trên
thế giới đã sản xuất thành công thuốc nấm Metarhizium anisopliae với số
lượng lớn và đã sử dụng rộng rãi để phòng trừ nhiều loại côn trùng hại cây
trồng đạt hiệu quả cao [13].
Vấn đề sử dụng nấm có ích trong phòng trừ sinh học được quan tâm
nghiên cứu. Người đi tiên phong trong lĩnh vực này chính là nhà khoa học
người Nga Ilya Ilich Mechnikov (1884). Ông cùng người học trò của mình là
nhà côn trùng học Isac Krasirsik đã tiến hành sản xuất bào tử nấm
Metarhizium anisopliae thuần khiết, trộn với đất bột để rải ra đồng ruộng diệt
sâu non và trưởng thành bọ đầu dại hại củ cải đường (Bothinoderes
punctiventris) và đã đạt được hiệu quả gây chết đến 55 - 80% sau 10 - 14
ngày. Tiếp đó, rất nhiều công trình nghiên cứu sản xuất và ứng dụng nấm có
ích phòng trừ sâu hại cây trồng.
Do có sự phân bố rộng rãi với phổ ký chủ rộng, nấm M. anisopliae và
P. javanicus đã được ứng dụng hiệu quả trong phòng trừ sinh học đối với côn
trùng có hại [30; 34].
2.2. Tình hình phát sinh, gây hại của sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae)
Sâu xanh bướm trắng có tên khoa học là Pieris rapae, thuộc họ Pieridae,
bộ Lepidoptera gây hại chủ yếu trên rau họ hoa thập tự, đặc biệt trên bắp cải
[26]. Đối với ruộng rau mới trồng, sâu thường chui vào phần ngọn cây để phá
hại làm các lá khi lớn bị cong queo, thủng lỗ chỗ. Với bắp cải đã cuốn, sâu non
đục sâu vào trong bắp và thải phân loang lổ, làm giảm chất lượng, mẫu mã sản
phẩm. Sâu xanh bướm trắng phát sinh gây hại quanh năm, trong đó có 2 đợt gây
hại chính trên rau xuân (tháng 3 - tháng 6) và rau đông (tháng 10 - tháng 11) [38].
6
Nghiên cứu về tình hình gây hại của các đối tượng sâu hại trên rau đã
được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam, kết quả điều tra 3
năm 1995 - 1997 ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng của Lê văn Trịnh đã xác
định được 31 loài côn trùng gây hại trên rau thập tự, trong đó 3 đối tượng

quan trọng nhất là: sâu tơ, sâu khoang và sâu xanh bướm trắng. Sâu xanh
bướm trắng tập trung gây hại chủ yếu trên bắp cải, su hào, súp lơ [15].
Theo số liệu thống kê, nông dân vùng ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh phải phun thuốc bảo vệ thực vật 20 - 30 lần trong một vụ bắp cải [10].
Còn ở vùng ngoại thành Hà Nội nông dân phun trung bình từ 9,7 đến 15,1 lần
thuốc/vụ rau với lượng phun cao gấp 1,7 đến 2,4 lần so với khuyến cáo. Hơn
nữa, người nông dân phải sử dụng hỗn hợp 2 - 3 loại thuốc với hy vọng thuốc
mới có phổ tác động rộng, trừ được nhiều loại sâu bệnh, nâng cao hiệu quả
của thuốc. Có đến 80% nông dân các vùng trồng rau sử dụng hỗn hợp hai loại
thuốc với nhau và 6,6 - 12,2% hỗn hợp trên 3 loại thuốc [9]. Nhưng do những
hạn chế về hiểu biết nên hỗn hợp thuốc không có tác dụng hỗ trợ nhau mà
ngược lại làm giảm tác dụng và là nguyên nhân gây nên tính kháng thuốc của
sâu, ngộ độc thực phẩm và ô nhiễm môi trường [5; 9].



Hình 2.1. Bắp cải bị sâu xanh bướm trắng gây hại
(nguồn )

7
2.3. Sơ lược về Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae
2.3.1. Sơ lược về Paecilomyces javanicus
2.3.1.1. Vị trí phân loại của Paecilomyces javanicus
Theo Samson (1974), Paecilomyces có vị trí phân loại dựa vào cấu trúc
cơ quan sinh sản hữu tính thì chi nấm Paecilomyces thuộc giới (Kingdom)
Fungi, ngành (Phylum) nấm túi Ascomycota, ngành phụ Pezizomycotina, lớp
(Class) Eurotiomycetes, bộ (Order) Eurotiales, họ (Family) Trichocomaceae,
chi (Genus), Paecilomyces, loài (Species) Paecilomyces sp. [30].
2.3.1.2. Đặc điểm, độc tố và cơ chế lây nhiễm, gây bệnh của nấm
Paecilomyces javanicus trên cơ thể côn trùng

Đặc điểm hình thái
Kết quả nghiên cứu của tác giả Samson R. A. (1974, 2004) [29; 30] cho
thấy, nấm Paecilomyces javanicus phát triển tương đối tốt trên môi trường
Malt - Agar. Đường kính khuẩn lạc đạt trên 3 cm sau 14 ngày nuôi cấy ở
25
0
C. Bề mặt khuẩn lạc có dạng bột ghồ ghề đến bông xốp, ban đầu có màu
trắng sau chuyển màu kem rồi chuyển màu tím xám. Sợi nấm mịn, ngăn vách,
trong suốt, đường kính 0,5 - 2,2 µm. Cành bào tử mọc trực tiếp từ sợi nấm
dinh dưỡng hoặc sợi nấm khí sinh với chiều dài lên đến 50 µm. Trên cành bào
tử hình thành các điểm sinh thể bình, tại mỗi điểm có khoảng 2 - 3 thể bình.
Thể bình có kích thước 8 - 14 x 2 - 2,8 µm. Thể bình có hình dạng thuôn nhọn
tại đỉnh, đầu thuôn nhọn nhỏ tới 0,7 - 1,4 µm. Bào tử đính đa số hình trụ, đôi
khi hình thoi, mịn, trong suốt, kích thước 3,2 - 5,6 × 1,6 - 2,8 µm. Trên côn
trùng, nấm thường có dạng bột trắng tím và hình thành nhiều cành bào tử
phân sinh. Cành bào tử phân sinh thường tăng về chiều cao, với thể bình gần
như hình cầu. Các bào tử khi nuôi cấy trên môi trường agar có thể sinh bào tử
nhỏ, hình thoi với kích thước từ 3 - 3,5 x 1,2 - 1,7 µm [29; 30].
Khuẩn lạc P. javanicus trên môi trường MEA (Malt Extract Agar) phát
triển chậm, đường kính khoảng 30 mm trong 14 ngày ở 25
0
C. Bào tử trần thường
có hình trụ điển hình, trong suốt và có kích thước 5 - 7,4 x 1,4 - 1,7 µm [2].
8


Hình 2.2. Khuẩn lạc Paecilomyces spp. (A) và bào tử nấm P. javanicus (B)
(nguồn )

Đặc điểm sinh lý, sinh hóa

Trong quá trình phát triển, nấm Paecilomyces spp. nói chung cần nhiều
dưỡng chất, nếu thiếu chất dinh dưỡng sẽ làm hạn chế khả năng gây bệnh của
nấm đối với côn trùng. Nhiệt độ và ẩm độ ảnh hưởng đến quá trình hình thành
và phát triển của bào tử nấm Paecilomyces spp. [29].
Theo Tạp chí Bảo vệ thực vật, Lê Thị Kim Oanh (2002), nấm
Paecilomyces javanicus thích hợp ở nhiệt độ 28
0
C và ẩm độ trong phạm vi 80
- 90%. Độ ẩm cao có lợi cho bào tử nảy mầm và sinh trưởng của sợi nấm, độ
ẩm thấp lại có lợi cho sự duy trì sự sống của nấm. Bào tử phân sinh của nấm
Paecilomyces spp. có khả năng sống lâu trong điều kiện độ ẩm từ 0 - 34% hơn
là ẩm độ 75%. Nấm côn trùng nói chung rất cần ánh sáng cho sự phát triển và
nấm Peacilomyces spp. cũng không ngoại lệ. Vì vậy, ánh sáng là nhân tố
không thể thiếu trong sự hình thành bào tử nấm Peacilomyces spp. [9].
Cơ chế xâm nhiễm và gây bệnh của Paecilomyces javanicus
Nấm Paecilomyces sp. có một cơ chế lây nhiễm duy nhất là tấn công
vào xoang máu thông qua lớp biểu bì hoặc có thể thông qua đường miệng côn
trùng. Côn trùng chết là sự kết hợp từ các yếu tố như tổn thương mô cơ do sự
xâm chiếm, suy giảm nguồn dinh dưỡng và nhiễm độc tố do nấm tiết ra khi ở
trong cơ thể côn trùng. Quá trình bám vào cơ thể côn trùng là một quá trình
thụ động với sự giúp đỡ của gió và nước [20].
A
B
9
Bào tử nấm được phát tán trong tự nhiên, rơi trên thân côn trùng và
dính chặt vào da côn trùng theo cơ chế bám dính không chuyên biệt thông qua
tính kỵ nước của vách tế bào bào tử. Lớp kỵ nước này xuất hiện đặc biệt ở
giai đoạn bào tử. Độ bám dính của các bào tử trên bề mặt biểu bì là nhờ lớp
kỵ nước. Lectins, một loại cacbohydrate glycoprotein được phát hiện trên bào
tử, giúp cho việc bám vào bề mặt biểu bì của bào tử. Sau 24 giờ, gặp điều

kiện thuận lợi bào tử nảy mầm và mọc thành sợi nấm đâm qua vỏ kitin và các
lỗ thông hơi của côn trùng. Trong quá trình đó, sợi nấm tiết ra phức hệ enzym
phân huỷ protein, lipit, kitin của côn trùng. Các enzyme đó là exoproteases,
endoproteases, esterases, lipase, chitinases và chitobiases. Trong đó,
chitinases và endoprotease là hai emzym giữ vai trò quan trọng nhất [31]. Sau
đó, sợi nấm phát triển ngay trong cơ thể côn trùng cho đến khi xuất hiện tế
bào nấm đầu tiên. Ở giai đoạn này, lympho của côn trùng chứa đầy sợi nấm,
các hồng cầu bị phá vỡ, dinh dưỡng bị đình trệ. Đồng thời, độc tố nấm tác
động vào hệ thần kinh và làm tê liệt hoạt động của côn trùng. Các ngoại độc
tố với bản chất hóa học là destruxin A (C
29
H
47
O
7
N
5
) và destruxin B
(C
30
H
51
O
7
N
5
) và Boverixin (C
45
H
57

O
9
N
3
), gây hiện tượng tê liệt thần kinh,
phá huỷ quá trình hô hấp, làm cho côn trùng có những thay đổi về bệnh lý và
chết. Sau khi côn trùng chết, nấm vẫn tiếp tục sinh trưởng phát triển trên xác
của vật chủ, vì đây là nguồn cơ chất giàu hữu cơ [36].
2.3.2. Sơ lược về Metarhizium anisopliae
2.3.2.1. Vị trí phân loại của Metarhizium anisopliae
Xếp theo hệ thống phân loại nấm của G.C. Anisworth, 1966, 1970,
1971 thì loài nấm Metarhizium anisopliae thuộc giới nấm Fungi hay Mycota,
ngành nấm thật Eumycota, ngành phụ Mastigomyedina, ngành phụ lớp nấm
bất toàn Deuteromycetes, chi Metarhizium, loài Metarhizium anisopliae [13].
2.3.2.2. Đặc điểm, độc tố, cơ chế xâm nhiễm và gây bệnh của nấm
Metarhizium anisopliae
Đặc điểm hình thái của Metarhizium anisopliae
Sợi nấm phát triển trên bề mặt côn trùng có màu từ trắng đến hồng,
cuống sinh bào tử ngắn mọc tỏa tròn trên đám sợi dày đặc. Bào tử trần hình
que có kích thước 3,5 x 6,4 x 7,2 µm, màu từ lục xám đến ôliu - lục, bào tử
10
xếp thành chuỗi khá chặt chẽ và nhìn bằng mắt thường có thể thấy bào tử
được tạo ra trên bề mặt côn trùng một lớp phấn khá rõ màu xanh lục. Sợi nấm
khi phát triển bên trong côn trùng có chiều rộng 3 - 4 µm, dài khoảng 20 µm,
chia thành nhiều tế bào ngắn, trong tế bào có thể thấy rõ nhiều giọt mỡ [33].
Nấm Metarhizium anisopliae có khuẩn lạc màu xanh, đôi khi có màu
tối hoặc màu hồng vỏ quế, chúng phát triển chậm trên môi trường không có
peptone, ví dụ như PDA, Czapek - Dox và thích hợp trên môi trường có
peptone như Sabouraud, nấm phát triển tốt trong điều kiện 25
0

C, ẩm độ 80%
sau 7 - 10 ngày nuôi cấy đường kính khuẩn lạc đạt 4 - 6 cm [33].



Hình 2.3. Khuẩn lạc Metarhizium anisopliae (A) và bào tử nấm
Metarhizium anisopliae (B) (nguồn )
Đặc điểm sinh lý, sinh hóa của M. anisopliae
Metarhizium anisopliae không sinh trưởng tốt trên nền cơ chất không
có kitin, chúng sống được ở nhiệt độ thấp 8
0
C, nơi tích lũy nhiều CO
2
và thiếu
O
2

có biên độ về độ ẩm rộng, có thể sống đến 445 ngày. Ở nhiệt độ dưới 10
0
C
và trên 45
0
C nấm thường không hình thành bào tử. Nhiệt độ thích hợp cho sự
nảy mầm của bào tử nấm từ 25

- 30
0
C và bào tử chết khi ở 49 - 55
0
C, nhiệt độ

nấm Metarhizium anisopliae phát triển tốt nhất là 25
0
C. Độ pH có thể dao
động khoảng 3,3 - 8,5 và pH thích hợp cho nấm phát triển là 6. Nấm M.
anisopliae có khả năng phân giải tinh bột, xenluloza và kitin của côn trùng gây
hại cây trồng. Nấm có thể đồng hóa được nhiều nguồn thức ăn cacbon khác
nhau và chúng phát triển tốt trên môi trường chứa glucogen và lipit. Để tạo bào
tử, nấm M. anisopliae đòi hỏi độ ẩm không khí khá cao trên 80% [14].
A
B
11
Độc tố của nấm Metarhizium anisopliae
Gồm một số ngoại độc tố Destruxin A, B, C, D, E, các ngoại độc tố là
sản phẩm thứ cấp, vòng peptit, L - leucine, anhydride, L - prolyn - L - valine
anhydride và Desmethyl Destruxin B.
Độc tố Destruxin A có công thức nguyên là C
29
H
47
O
7
N
5
, có điểm sôi là
188
0
C. Độc tố Destruxin A có bản chất hóa học là D - 2 hydroxy - 4 -
pentenoy - L - prolyl - L - isoleucyl - N - methyl - L- valyl - N - methyl - L -
alanyl - β - alanyl lacton. Đây là những Depxipeptit vòng.
Độc tố Destruxin B có công thức nguyên là C

30
H
51
O
7
N
5
, có điểm sôi là
234
0
C, có bản chất hóa học là D - α - hydroxy - γ - methylvaleryl - L - prolyl - L -
isoleucyl - N - methyl - L - valyl - N - methyl - L - alanyl - β - alanyl lacton.
Destruxin A và B thường gây ra triệu chứng tê liệt thần kinh trên một số
sâu non của côn trùng hại cây trồng. Hai độc tố này chỉ độc đối với côn trùng hại
cây trồng khi chúng ăn phải mà không độc khi xâm nhập qua da [28].
Độc tố Destruxin E có tác động như một chất ức chế miễn dịch ngăn cản
phản ứng phòng vệ tế bào và thể dịch của một số côn trùng hại bộ hai cánh Diptera
và độc tố này có hiệu quả hơn loại A và B. Destruxin E có tác dụng như một chất
kháng sinh.
Nấm lục cương M. anisopliae có thể tạo ra các enzyme phân hủy
protein độc và các chất ức chế phản ứng kháng men protease trong tế bào máu
của côn trùng. Ngoài ra, còn tạo ra Chytochalasin có tác dụng ngăn cản sự
kéo dài sợi actin (protein cấu thành sợi lông côn trùng) [14].
Cơ chế xâm nhiễm và gây bệnh của M. anisopliae
Metarhizium anisopliae, tên khoa học cũ là Entomophthora anisopliae,
là một loại nấm mọc tự nhiên trong đất trên toàn thế giới và gây bệnh ở loài
côn trùng bằng cách ký sinh. Trong tự nhiên, khi bào tử nấm M. anisopliae rơi
vào cơ thể côn trùng, gặp điều kiện thời tiết thích hợp. Những bào tử vô tính
(gọi là conidia) của nấm tiếp xúc với cơ thể của ký chủ côn trùng 24 giờ thì sẽ
nảy mầm tạo ống mầm xuyên qua vỏ kitin côn trùng, sau đó phân nhánh tạo

nên mạng sợi nấm chằng chịt bên trong cơ thể côn trùng. Côn trùng phải huy
động các tế bào bạch huyết để chống đỡ nhưng nấm M. anisopliae tiết ra các
độc tố Destruxin A, B… có chứa protease và một số chất khác, chúng phá hủy
12
tế bào bạch huyết, cuối cùng gây chết côn trùng. Nếu độ ẩm môi trường xung
quanh đủ cao, mốc trắng sau đó sẽ phát triển trên xác côn trùng và tạo nên màu
xanh lá cây do bào tử được sản xuất. Nấm M. anisopliae rất cần các điều kiện
nhiệt độ, ánh sáng… thích hợp cho quá trình bệnh lý và sự hình thành, phát
triển của các loại độc tố [13].
2.4. Quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học từ nấm để phòng
trừ sâu hại
Hiện nay, có 2 công nghệ chính được sử dụng rộng rãi để nhân sinh
khối nấm đó là công nghệ lên men chìm và công nghệ lên men xốp. Mỗi công
nghệ có những lợi thế khác nhau tùy vào quy mô sản xuất, điều kiện trang
thiết bị, nguồn nguyên liệu sẵn có và sản phẩm cần đạt.
Công nghệ lên men chìm có thể sản xuất chế phẩm ở quy mô lớn, tuy
nhiên đòi hỏi phải có trang thiết bị hiện đại. Đồng thời với một quy trình tự
động khép kín nên dễ dàng chuyển sang sản xuất trong nhà máy sản xuất chế
phẩm sinh học với quy mô lớn nhưng nhược điểm là chỉ thu được chế phẩm ở
dạng bào tử chồi (Plastospore) có cấu trúc không bền vững nên có thời gian
sống ngắn.
Công nghệ lên men xốp thu nhận được chế phẩm nấm dạng đính bào tử
(Conidiospore), ổn định và bền vững hơn dạng bào tử chồi (Plastospore), vì
vậy công nghệ này đã được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong
phòng trừ sâu hại cây trồng. Trong quy trình nhân sinh khối nấm thì việc lựa
chọn và tạo được một thành phần dinh dưỡng thích hợp có ý nghĩa quan
trọng: làm tăng độc tính diệt sâu của nấm và tăng số lượng bào tử nấm [12].
Nhóm tác giả Ma J. và CS., (2007) [27] cũng đã thử nghiệm một số
môi trường lên men xốp để nhân sinh khối nấm P. javanicus, đó là các môi
trường gạo, ngô có bổ xung pepton. Kết quả thử nghiệm cho thấy, nấm phát

triển tốt trên cả hai môi trường gạo và ngô có bổ xung pepton 0,2%, lượng
bào tử đạt tương ứng 8,72 x 10
12
bt/kg và 8,35 x 10
12
bt/kg cao hơn rất nhiều
so với công thức không bổ xung pepton. Kết quả thử nghiệm lên men chìm
nhân sinh khối sợi nấm, trong 2 loại môi trường là Potato Dextrose Agar
(PDA) bổ xung 0,5% pepton và môi trường Czapek - Dox bổ xung 0,5%
13
pepton thì môi trường PDA cho lượng sinh khối nấm cao hơn đạt 461,5 mg
sợi nấm/50ml môi trường, trong điều kiện nhiệt độ 25 - 26
0
C sau 8 ngày [27].
2.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng chế phẩm nấm
có ích
2.5.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trong những năm gần đây, các công trình nghiên cứu ứng dụng nấm
Paecilomyces và Metarhizium rất phong phú và trải rộng khắp thế giới. Trên
thế giới đã ghi nhận được 146 loài nấm thuộc chi Paecilomyces. Tại Trung
Quốc, tác giả Liang Z. Q.(2005), đã thu thập và ghi nhận được 32 loài nấm
thuộc chi Paecilomyces. Trong các loài nấm thuộc chi Paecilomyces thì loài
Paecilomyces javanicus, P. fumosoroseus, P. farinosus đã được sử dụng để
kiểm soát nhiều loại sâu hại cây trồng khác nhau như lúa, ngô, rau, hoa và cây
cảnh trồng trong nhà kính và vườn ươm [25].
Các tác giả ở Mỹ, Bắc Mỹ và châu Mỹ la - tinh là người phải kể đến
đầu tiên trong việc nghiên cứu về nấm có ích. Ramosca trường Đại học
Kansas đã thí nghiệm nhân tạo gây dịch bệnh cho muỗi Culex quiquefaciates
bằng vi khuẩn Bacillus thuringensis và nấm M. anisopliae [26]. Li và CS đã
sử dụng 6 chủng bao gồm: 1 chủng Beauveria bassiana, 2 chủng của

Beauveria sp. (N22 và T27), 3 chủng của M. anisopliae (Tonga, 10B và
MM773) để thử khả năng diệt loài mối nhà Coptotermes fomosanus [24].
Ở Mỹ, các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu và sử dụng nấm
Paecilomyces spp., M. anisopliae và B. bassiana trong việc phòng trừ nhiều
loại sâu hại, bao gồm sâu hại khoai tây, bông, lúa mì, đậu đỗ và ngô [7].
Ở Canada, đã nghiên cứu ứng dụng nấm Paecilomyces farinosus để
phòng trừ châu chấu hại lúa [23] và loài rệp hại vừng [32] và đã nghiên cứu
ứng dụng nấm M. anisopliae để phòng trừ sâu ăn lá khoai tây, ngô (Agriotes
obscurus). Hiệu quả diệt trừ loài sâu này đạt trên 90% trong điều kiện phòng
thí nghiệm [33].
Còn tại châu Mỹ la - tinh, các tác giả Bzasil đã có nhiều công trình
nghiên cứu với xu hướng sử dụng nấm Metarhizium và Beauveria để phòng
trừ côn trùng trong đất [28; 19; 24]. Hiện nay, tại Bzazil các chế phẩm nấm ký
sinh đã được ứng dụng tới vài triệu héc ta cây trồng.
14
Ở châu Âu, các nước như Nga, Đức, Anh, Italy, Sec, Balan và Rumani
hầu như chỉ tập trung nghiên cứu và ứng dụng nấm Metarhizium anisopliae
để diệt côn trùng. Tại Đức ứng dụng trong việc diệt mối đất, sâu vòi voi hại
nho, tại Nga chế phẩm Boverin phòng trừ thành công bọ cánh cứng Colorado
Beetle. Nhiều nước trên thế giới như Úc, Brazil, Pháp, Colompioa, Venezuela,
… đã sản xuất thành công chế phẩm sinh học từ nấm M. anisopliae, với tên
thương mại như Cobican, Bioplast, Metarquino, Biogreen, … [32].
Ở châu Á, các công trình nghiên cứu sử dụng nấm diệt côn trùng trên lúa và
các cây trồng khác nhau ở Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn Độ, Đài Loan. Các tác giả ở
Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản đã sử dụng nấm Paecilomyces farinosus,
Beauveria bassiana và Metarhizium anisopliae để phòng trừ sâu róm thông
Dendrolimus punctate [18; 35], sâu đục thân (Li), châu chấu hại lúa Locusta
migratoria [3]. Tại Malaysia, đã nghiên cứu nấm Metarhizium anisopliae để
phòng trừ mối đất đạt hiệu quả 64,57% sau 14 ngày. Philippines, đã nghiên cứu
sử dụng nấm Metarhizium anisopliae để diệt rầy nâu hại lúa, hiệu lực đạt 60%

sau 10 ngày [3].
Hiện nay, trên thế giới đã sản xuất sử dụng thành công nhiều loại chế
phẩm sinh học có nguồn gốc từ nấm Paecilomyces spp. để phòng trừ nhiều
loại sâu hại cây trồng quan trọng như sâu tơ (Plutella xyllostella) [36], sâu
khoang (Spodoptera litura) hại rau thập tự [27; 20] và các loài bọ phấn
(Bemisia tabaci, Bemisia argentifolii) hại cây trồng [34; 21]. Các chế phẩm
nấm Paecilomyces spp. còn phòng trừ rất hiệu quả đối với rầy nâu
(Nilaparvata lugens) hại lúa [22], rệp hại lúa mì (Diuraphis noxia) và các loại
nhện Tetranychus urticae, Panonychus ulmi, hại cây ăn quả.
2.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu sản xuất ứng dụng nấm
có ích để phòng trừ một số loại sâu hại quan trọng như rầy nâu hại lúa, sâu hại
rau, cây ăn quả và cây công nghiệp [1].
Hướng ứng dụng nấm ký sinh công trùng để phòng trừ sâu hại cây
trồng được đề cập đến trong những năm 70 của thế kỷ trước, nhưng trong 15
năm trở lại đây mới có nhiều công trình nghiên cứu được công bố về lĩnh vực
này. Các công trình nghiên cứu về nấm ký sinh côn trùng tại nước ta chủ yếu
tập trung vào công tác thu thập chủng, phân lập các chủng giống bản địa và
15
phát triển sinh khối tạo chế phẩm sinh học phòng trừ các loại sâu mà bị chính
chủng nấm đó ký sinh. Từ năm 1996 đến nay, Trung tâm Đấu tranh sinh học -
Viện Bảo vệ thực vật đã thu thập, phân lập, tạo thuần và tuyển chọn được 28
chủng (10 chủng Beauveria và 18 chủng Metahizium) trên các loại sâu hại
khác nhau tại các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Trong số đó, đã chọn được 4
chủng có hoạt lực diệt côn trùng rất cao và hiện đang sử dụng để sản xuất chế
phẩm là 2 chủng Beauveria bassiana và Metarhizium anisopliae ở phía Bắc, 2
chủng Beauveria bassiana và Metarhizium anisopliae ở phía Nam. Đã sản
xuất được 2.355kg Beauveria và 3.275kg Metarhizium sử dụng trừ sâu keo da
láng, sâu khoang ăn lá đậu tương và sâu xanh đục quả đậu xanh. Hiệu quả của
Bauveria với sâu xanh là 68,2% - 72,3%, còn Metarhizium đạt 69,2 - 75,1% [7].

Viện Bảo vệ thực vật đã nghiên cứu và sử dụng nấm Metarhizium
anisopliae để phòng trừ sâu hại cây trồng [17]. Bào tử nấm Metarhizium có
khả năng gây chết trên 50% (LT50) cá thể các loại sâu bộ cánh vảy như sâu
xanh da láng Spodoptera exigua, sâu xanh Heliothis armigera với lượng là
10
5
bt/ml sau 48 giờ [3]. Việt Nam cũng đã có sản phẩm với tên thương mại là
Mat chế từ nấm xanh Metarhizium anisopliae trừ bọ cánh cứng hại dừa và
Boverit trừ sâu róm thông và các loại sâu hại cây trồng khác [3].
Trên sâu hại rau, kết quả thí nghiệm trên cây cải bông ở Trà Lóc, Bình
Thủy, Cần Thơ cho thấy hai dòng nấm xanh M. anisopliae chủng OM1 - R và
chủng OM3 - STO có hiệu lực trừ sâu tơ đạt tương ứng 75,3%; 67,4% và
76,1%. Thí nghiệm trên cây cải xanh tại xã Thới Hạnh, huyện Cờ Đỏ, Cần
Thơ cho thấy hai chủng nấm M. anisopliae và B. bassiana có hiệu lực trừ sâu
rất cao tương ứng 97,8% và 96,1%. Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long,
chế phẩm Ometar từ chủng M. anisopliae đã được ứng dụng rộng rãi để trừ
rầy nâu, bọ xít hại lúa, sâu hại rau thu được một số kết quả khả quan. Ngoài
ra, hai chế phẩm Ometar và Biovip (từ nấm B. bassiana) cũng có khả năng
phòng trừ rầy mềm hại khổ qua (60,4%), phấn trắng, sâu xanh sọc hại dưa leo
(83,5% và 61,6%) [8]. Kết quả nghiên cứu tại Kiến Xương, Thái Bình cho thấy
dòng nấm M. anisopliae có hiệu lực trừ rầy lưng trắng đạt 74,7% và 76,1% với
rầy nâu. Hiệu lực trừ rầy nâu của P. javanicus đạt 81,52% sau 17 ngày phun
trong nhà lưới và đạt 57,24% trên đồng ruộng 10 ngày sau phun [17].
Về công nghệ sản xuất, các cơ sở nghiên cứu ở trong nước đã ứng dụng
và phát triển các công nghệ đã có trên thế giới, trong đó chủ yếu là công nghệ
16
lên men xốp. Đồng thời đã cải tiến một số khâu trong quy trình sản xuất cho
phù hợp với điều kiện của nước ta. Đối với nấm M. anisopliae và P. javanicus
các tác giả đã sử dụng với nguyên liệu là tấm gạo, luộc rồi sấy khô, hỗn hợp
với dịch CaCO

3
0,5% để nhân lượng lớn sinh khối với lượng bào tử 3,2 x 10
9
bt/g. Đối với nấm Paecilomyces spp. Trung tâm Đấu tranh sinh học - Viện
Bảo vệ thực vật trong một vài năm trở lại đây đã quan tâm nghiên cứu một số
chủng có tiềm năng trong phòng trừ sinh học đối với một số loại sâu miệng
chích hút [17].

17
Phần 3. ĐỐI TƯƠNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng, vật liệu và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
- Hai loài nấm Paecilomyces javanicus và Metarhizium anisopliae từ
nguồn nấm Viện Bảo vệ thực vật.
- Sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae) hại bắp cải thu thập tại nhà lưới
Viện Bảo vệ thực vật và được nhân nuôi trong phòng thí nghiệm.
3.1.2. Thiết bị thí nghiệm
- Nồi hấp vô trùng (RAYPA, Tây Ban Nha), tủ sấy vô trùng (Nahita, Tây
Ban Nha), buồng cấy vô trùng (BIOBASE, Trung Quốc).
- Tủ lạnh (National, Nhật Bản), tủ định ôn (Nahita, Tây Ban Nha), kính
hiển vi (Carl zeiss, Đức).
- Đèn cực tím, đèn cồn, đĩa petri, bình tam giác, que cấy, micropipet
(TGI, Đức).
- Bông, giấy thấm…. và một số dụng cụ cân đong khác.
3.1.3. Hóa chất
- Agar (Hạ Long, Việt Nam), Tween - 80 (Xilong, Trung Quốc).
- Đường glucose, sacharose … và một số hóa chất khác (Merck, Đức).
3.1.4. Môi trường nuôi cấy
- Môi trường PDA (Potato Dextroza Agar) sử dụng phân lập nấm:

Agar 20 gram
Sacharose 20 gram
Khoai tây 200 gram
H
2
O Bổ sung cho đủ thể tích 1 lít
pH 7
- Môi trường WA (Water Agar) sử dụng tách đơn bào tử nấm:
Agar 20 gram
H
2
O Bổ sung cho đủ 1 lít

×