Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương địa phương xã Cán Tỷ đến tài nguyên rừng Khu bảo tồn thên nhiên Bát Đại Sơn, tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.33 KB, 65 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NÔNG ĐỨC MẠNH


“NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG XÃ
CÁN TỶ ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
BÁT ĐẠI SƠN, TỈNH HÀ GIANG”



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Lâm Nghiệp
Khoa : Lâm Nghiệp
Khóa học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn : 1. TS. Dương Văn Thảo
2. ThS. Lê Văn Phúc

Khoa Lâm nghiệp – Đại học Nông lâm Thái Nguyên
Thái nguyên, năm 2014


LỜI CAM ĐOAN




Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực. Các loại số liệu, bảng
biểu được kế thừa, điều tra dưới sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền
chứng nhận.

Thái Nguyên, ngày 28 tháng 5 năm 2014
XÁC NHẬN CỦA GVHD
Đồng ý cho bảo vệ kết quả Người viết cam đoan
trước hội đồng khoa học!





TS. Dương Văn Thảo Nông Đức Mạnh



XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên
đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng chấm yêu cầu!
(Ký, họ và tên)


LỜI CẢM ƠN

Đề tài nghiên cứu khoa học này được thưc hiện và hoàn thiện theo
chương trình đào tạo kỹ sư của trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.

Em xin chân thành cảm ơn toàn thể quý thầy cô trường Đại Học Nông
Lâm Thái Nguyên. Quý thầy cô Khoa Lâm nghiệp đã dạy dỗ, truyền đạt những
kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt 4 năm học tập và rèn luyện tại
trường. Em xin bay tỏ lòng biết ơn và cám ơn thầy TS. Dương Văn Thảo cùng
thầy Th.S. Lê Văn Phúc là người hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Em xin được gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên
Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn, anh Giàng Minh Hải người
đã dẫn đường trong các tuyến điều tra, toàn thể các hộ gia đình đã tạo điều
kiện giúp đỡ em trong quá trình điều tra, thu thập thông tin, số liệu và đóng
góp ý kiến xây dựng phục vụ công tác nghiên cứu.
Với vốn kiến thức hạn hẹp, thiếu kinh nghiệm nên khó tránh khỏi sai sót.
Em kính mong được những ý kiến đóng góp của thầy cô, ban chủ nhiệm khoa
cùng những ý kiến của thầy hướng dẫn sẽ giúp em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!



Thái Nguyên, ngày 28 tháng 5 năm 2014

Sinh viên





Nông Đức Mạnh









DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Kí hiệu Ghi chú
KBT Khu bảo tồn
UBND Ủy ban nhân dân
VQG Vườn quốc gia
KBT TN Khu bảo tồn thiên nhiên
TNR Tài nguyên rừng
NLKH Nông lâm kết hợp
LSNG Lâm sản ngoài gỗ
CĐ ĐP Cộng đồng địa phương
UNCED United Nations Conference on Enviroment and
Development (Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và
Phát triển bền vững)
HGĐ Hộ gia đình
BQL Ban quản lý
BVRBảo vệ rừng
IUCN International Union for Conservation of Nature and Natural
Resources (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế)
PRA Papid Rural Appraisal (Phương pháp điều tra nông thôn có
sự tham gia của người dân)



DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn 11
Bảng 2.2. Trữ lượng các loại rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn 12
Bảng 2.3. Dân số và tốc độ tăng trưởng dân số 14
Bảng 4.1. Lâm sản khai thác từ tài nguyên rừng của cộng đồng địa phương 23
Bảng 4.2. Khối lượng trung bình lâm sản khai thác của hộ gia đình 24
Bảng 4.3. Mức độ chăn thả gia súc của các hộ gia đình 26
Bảng 4.4. Cơ cấu đất đai của xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ 27
Bảng 4.5. Kết quả tổng hợp cơ cấu nguồn thu theo nhóm hộ gia đình 28


DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ

Hình 3.1. Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu sự tác động của cộng
đồng người dân địa phương tới tài nguyên rừng 17
Hình 4.1. Bách xanh bị khai thác 25
Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu nguồn thu theo nhóm hộ gia đình 29
Sơ đồ 3.2: Các bước thực hiện nghiên cứu 22




MỤC LỤC
Trang

PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.4. Ỹ nghĩa của đề tài 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4

2.1. Khái niệm cộng đồng địa phương và vùng đệm 4
2.1.1. Khái niệm vùng đệm (Buffer Zone) 4
2.1.2. Khái niện cộng đồng địa phương (Local Community) 4
2.2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu trên thế giới 4
2.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam 6
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu 9
2.4.1. Đặc điểm và điều kiện tự nhiên 9
2.4.2. Đặc điểm dân sinh kinh tế 13
PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
3.1. Đối tượng nghiên cứu 15
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu 15
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 15
3.2.2. Thời gian tiến hành nghiên cứu 15
3.3. Nội dung nghiên cứu 15
3.4. Phương pháp nghiên cứu 15
3.4.1. Phương pháp luận 15
3.4.2. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin, số liệu 20
3.4.3. Xử lý, tổng hợp và phân tích số liệu 21
PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 23
4.1. Hình thức tác động bất lợi của cộng đồng địa phương tác động đến tài
nguyên rừng 23
4.2. Cơ cấu đất canh tác và cơ cấu thu nhập của các cộng đồng địa phương
vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn 27


4.3. Các nguyên nhân cơ bản dẫn tới những tác động bất lợi của các cộng đồng
địa phương tới tài nguyên rừng Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn 29
4.3.1. Các nguyên nhân về kinh tế 29
4.3.2. Các nguyên nhân về xã hội 31
4.3.3. Tổ chức cộng đồng 32

4.4. Đề xuất giải pháp kinh tế - xã hội 33
4.4.1. Đào tạo nghề giải quyết việc làm cho người dân địa phương 33
4.4.2. Phát triển rừng cộng đồng tại các thôn, bản 33
4.4.3. Đầu tư cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng 33
4.4.4. Khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm củi và hướng tới các
nguồn chất đốt thay thế 34
4.4.5. Trách nhiệm các cấp chính quyền và Ban quản lý khu bảo tồn 34
4.4.6. Phát triển du lịch 35
4.4.7. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hộ gia đình 35
4.4.8. Hỗ trợ vay vốn 36
4.5. Đề xuất một số một số giải pháp bảo tồn lâm sản quý hiếm 36
PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 37
5.1. Kết luận 37
5.2. Kiến nghị 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1

1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong
mối quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường. Rừng có vai trò rất quan
trọng đối với cuộc sống của con người cũng như môi trường: cung cấp nguồn
gỗ, củi, điều hòa, tạo ra oxy, điều hòa nước, là nơi cư trú của động thực vật và
tàng trữ các nguồn gen quý hiếm, bảo vệ và ngăn chặn gió bão, chống xói
mòn đất, đảm bảo cho sự sống, bảo vệ sức khỏe của con người…. Vai trò của
rừng là rất to lớn, tuy nhiên có một số nguyên nhân dẫn đến diện tích rừng
ngày càng thu hẹp, đó là do tác động của chiến tranh, áp lực về dân số ở các
vùng tăng nhanh, nghèo đói, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài
nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp kiến thức bản địa

chưa được phát huy, các hoạt động khuyến nông khuyến lâm chưa được phát
triển, chính sách nhà nước về quản lý bảo vệ rừng còn nhiều bất cập cơ cấu xã
hội truyền thống có nhiều thay đổi
Hệ thống các khu bảo tồn đã và đang gặp không ít khó khăn từ phía
người dân và cộng đồng địa phương. Điều khó khăn lớn nhất gặp phải trong
việc quản lý khu bảo tồn là số dân sinh sống phía trong và ngoài sát với khu
bảo tồn, thậm chí ngay cả trong khu bảo tồn đã tạo sức ép nặng nề lên khu
bảo tồn. Bắt đầu từ những thay đổi của họ về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm
hữu đất đai canh tác, phát nương làm rẫy, săn bắt động vật, chặt gỗ, lấy củi,
thu lượm các sản phẩm từ rừng và do đó ảnh hưởng đến công tác bảo vệ. TNR
là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần rừng từ bao đời nay,
giờ đây dường như đã không còn là của họ. Họ đa số là người nghèo, dân trí
thấp, họ cho rằng việc thành lập khu bảo tồn, không đem lại lợi ích gì cho họ,
mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên
nhiên như trước nữa. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho
người dân địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì
vậy, đã gây ra mâu thuẫn giữa khu bảo tồn với người dân địa phương - những
người đã và đang sống phụ thuộc một phần vào nguồn TNR. Do đó, việc tồn
tại những tác động bất lợi của người dân vào TNR là một tất yếu. Vì vậy đề
tài được thực hiện nhằm đánh giá mức độ tác động của cộng đồng địa phương
2
đến tài nguyên rừng KBT. Từ đó đưa ra biện pháp giảm thiểu tác động của
người dân đến tài nguyên rừng, giúp họ có một cuộc sống tốt hơn bằng những
tác động tích cực vào rừng.
Từ khi chính phủ có chỉ thị 286/TTg (02/05/1997) về tăng cường các
biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng, cấm khai thác rừng tự nhiên,
tốc độ phục hồi rừng trở nên khả quan hơn. Để đạt được kết quả đó, Chính
phủ đã giao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình trồng,
chăm sóc quản lý và bảo vệ. Những chính sách này đã góp phần tích cực
trong việc làm tăng diện tích rừng, giảm diện tích đất trống đồi núi trọc và

rừng đã dần phục hồi trở lại. Có được kết quả đó là do những cơ chế chính
sách trên của Chính phủ đã bước đầu tạo được sự chuyển biến theo hướng xã
hội hóa nghề rừng, làm cho rừng có chủ và người dân đã chủ động tham gia
quản lý bảo vệ rừng (Chỉ thị số 286/TTg Thủ Tướng Chính Phủ, 1997) [14].
Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn được thành lập theo quyết định số
2601/QĐ-UB ngày 06/10/2000 của UBND tỉnh Hà Giang, có nhiệm vụ chính
là bảo vệ hệ động, thực vật trên núi đá vôi, bảo vệ nguồn gen và cảnh quan
môi trường, phát huy tính phòng hộ đầu nguồn khu vực (Quyết định số
2601/QĐ-UB UBND tỉnh Hà Giang, 2000) [19].
Bát Đại Sơn là khu vực thuộc vùng núi phía bắc, người dân sinh sống ở
đây chủ yếu là người dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, sống phụ
thuộc vào rừng. Hoạt động sống của người dân nơi đây ít nhiều ảnh hưởng tới
hệ động thực vật trong khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn. Vì vậy chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu tác động của người dân địa phương địa phương xã Cán Tỷ đến
tài nguyên rừng Khu bảo tồn thên nhiên Bát Đại Sơn, tỉnh Hà Giang”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những tác động của người dân địa phương đến tài nguyên
rừng khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn làm cơ sở từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm giảm thiểu những tác động của người dân địa phương đến tài
nguyên rừng.
3
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định những tác động tiêu cực và tích cực của người dân địa
phương tới tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn – Hà
Giang.
- Đề xuất biện pháp làm giảm thiểu tác động tiêu cực và phát huy
những tác động tích cực của người dân tới tài nguyên rừng.
1.4. Ỹ nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học

Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được thực hành nghiên cứu
khoa học, biết phân bổ thời gian một cách hợp lý và khoa học trong công việc
để đạt được kết quả cao trong quá trình làm việc, đồng thời là cơ sở khoa học
để củng cố những kiến thức đã học tại nhà trường vào hoạt động thực tiễn.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiến sản xuất
- Qua đề tài biết được mức độ tác động của người dân tới tài nguyên
rừng từ đó đưa ra các giải pháp bảo tồn tránh sự suy giảm đa dạng sinh học.
- Đưa ra các biện pháp giúp người dân sống trong rừng, gần rừng và
phụ thộc vào rừng cải thiện sinh kế, tránh những tác động tiêu cực đến tài
nguyên rừng.

4
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Khái niệm cộng đồng địa phương và vùng đệm
2.1.1. Khái niệm vùng đệm (Buffer Zone)
- Theo tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế IUCN định nghĩa vùng đệm
như sau:
“Vùng đệm là những vùng được xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc
không có rừng, nằm ngoài ranh giới của khu bảo tồn và được quản lý để nâng
cao việc bảo tồn của khu bảo tồn và chính vùng đệm đồng thời mang lại lợi ích
cho nhân dân sống quanh khu bảo tồn. Điều này có thể thực hiện được bằng
cách áp dụng các hoạt động phát triển cụ thể, đặc biệt góp phần vào việc nâng
cao đời sống kinh tế – xã hội của các cư dân sống trong vùng đệm” (Võ
Nguyên Huân, 2009) [16].
- Theo khái niệm về vùng đệm ở Việt Nam như sau:
“Vùng đệm là vùng được xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có
rừng, nằm liền kề ngoài khu bảo tồn và bao quanh khu bảo tồn, có tác động
ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm khu bảo tồn. Mọi hoạt động trong
vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác bảo tồn ở khu bảo tồn và

vùng đệm, không di dân từ bên ngoài vào vùng đệm với bất cứ hình thức nào;
tích cực phát triển kinh tế góp phần ổn định và từng bước nâng cao đời sống
vật chất – văn hoá – tinh thần của dân cư sống trong vùng đệm” (Võ Nguyên
Huân, 2009) [16].
2.1.2. Khái niện cộng đồng địa phương (Local Community)
Cộng đồng địa phương là một nhóm người sống trong cùng một môi
trường, một không gian, có lãnh thổ xác định, có những điểm tương đối giống
nhau, có mối quan hệ nhất định với nhau (Phạm Hoàng Hải và cs, 2014) [15].
2.2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu trên thế giới
Năm 1872, Vườn quốc gia đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Mỹ, đó
là vườn quốc gia Yellowstone. Vườn quốc gia này nằm trên vùng đất do
người Crow và người Shoshone sinh sống trên cơ sở sử dụng bạo lực ép buộc
hai cộng đồng tộc người này phải rời bỏ mảnh đất của họ. Nhiều khu bảo tồn
thên nhiên và vườn quốc gia được thành lập sau đó ở các nước khác nhau trên
thế giới và cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này, có nghĩa là
ngăn cấm người dân địa phương thâm nhập vào khu bảo tồn thiên nhiên và
5
vườn quốc gia và tiếp cận tài nguyên trong đó. Điều đó dẫn đến những hiệu
quả tất yếu là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa cộng đồng địa phương và
khu bảo tồn và mục đích bảo tồn tài nguyên đã không đạt được (Võ Quý,
1997) [7].
Trên thế giới, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực
làm thay đổi chiến lược bảo tồn từ đầu thập kỷ 1980. Một chiến lược bảo tồn
mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia với các hoạt động sinh kế của các
cộng đồng địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng
trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định.
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các
khu bảo tồn và vườn quốc gia khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa
trên mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của

cộng đồng địa phương. Ở Vườn quốc gia Kakadu (Australia), những người
thổ dân chẳng những được chung sống với vườn quốc gia một cách hợp pháp
mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của vườn quốc gia và được tham
gia quản lý vườn quốc gia thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý.
Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với
săn bắn cổ truyền (Võ Quý, 1997) [7], (Hoàng Hoè, 1995) [1].
Ở Thái lan, vào khoảng những năm 1945, độ che phủ của rừng đạt tới
60%, nhưng đến năm 1995 giảm xuống còn 26%. Hơn 170.000 km
2
rừng bị
tàn phá. Năm 1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái lan (The Royal
Forest Department) thành lập khu bảo tồn để bảo vệ diện tích rừng còn lại.
Điều này dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa phương sống trong vùng
đệm. Một thử nghiệm của Dự án “ Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng
tác” (Sustainable Forest Management through Collaborative efforts’ Project)
thực hiện tại Phu Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở miền Đông-
Bắc Thái lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài
nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải
bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu
nhập của họ (Colin McQuist) [11].
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở
thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những
năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi
6
trường và Phát triển bền vững (UNCED) ở Rio de janeiro, vấn đề này đã
chính thức được công nhận (Trần Ngọc Lân, chủ biên, 1999) [5].
Các nghiên cứu trên thế giới mới chỉ có những phân tích định tính về sự
phụ thuộc của các cộng động dân cư vào tài nguyên và khẳng định cần thiết
phải có sự tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy nhiên
chưa có các nghiên cứu định lượng xác định những tác động của cộng đồng

vào tài nguyên rừng và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tác động đó
vào tài nguyên rừng.
2.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Cùng hoà nhịp sự quan tâm về bảo tồn TNR với cộng đồng thế giới, năm
1962, vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam được thành lập – Vườn quốc gia
Cúc Phương. Nhưng do chiến tranh nên cho tới năm 1983 công việc này mới
lại được tiếp tục và cho tới nay Việt Nam đã có 105 khu bảo tồn thiên nhiên
và vườn quốc gia (Richard B. Primack, 1999) [12].
Vùng đệm của các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia đã chính
thức được đề cập đến ngay sau khi có Quyết định số 194 –CT ngày 9/8/1986
quy định danh mục 73 khu rừng cấm và quyết định số 1171/QĐ ngày
30/11/1986 của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN &PTNT) ban hành các loại
quy chế rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và quy định về vùng
đệm các vườn và khu bảo tồn thiên nhiên, tuy nhiên cho đến nay việc thực
hiện quản lý vùng đệm còn rất hạn chế. Theo Ts. Nguyễn Bá Thụ, những khó
khăn gặp phải trong việc quản lý vùng đệm nói chung là (VNRP – VU –
ALA/VIE/94/24, 2001) [9]:
Hầu hết các vùng đệm đều có đông dân cư sinh sống.
Vùng đệm thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương (xã, huyện,
tỉnh) nhưng thường chính quyền địa phương ít quan tâm đến khu bảo tồn
thiên nghiên và vườn quốc gia vì họ không hiểu rõ tầm quan trọng của khu
bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia đối với địa phương, và coi việc bảo vệ
các khu rừng đặc dụng là việc của ban quản lý các khu rừng đó.
Đa số nhân dân địa phương nghèo, dân trí thấp, dân số tăng nhanh, họ
cho rằng việc thành lập khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia không
mang lại lợi ích cho họ.
Hầu hết ban quản lý các KBT TN và VQG chưa có giải pháp hữu hiệu
để lôi kéo người dân vùng đệm tham gia vào công tác bảo tồn.
7
Tập quán canh tác của người dân trong vùng đệm ở một số nơi quá lạc

hậu, năng suất mùa mang thấp.
Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc
nâng cao hiệu quả của các KBT TN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát
triển. Đó là làm sao dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên và phát triển kinh tế - xã hội các CĐ ĐP . Một số nghiên cứu trong
những năm gần đây được trình bày dưới đây.
Trong 2 năm (1998 – 1999), Bùi Minh Vũ đã tiến hành một nghiên cứu
lớn tại 2 khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia. Đề tài đánh giá điều kiện
tự nhiên, tính đa dạng sinh học và kinh tế - xã hội của các điểm điều tra và đề
xuất 3 tiêu chuẩn xác định vùng đệm, đó là: Đường ranh giới phía trong và
phía ngoài vùng đệm tối thiểu là 1 km và tối đa là 10 km; Quy mô đất đai của
vùng đệm; Về dân số, lao động và dân tộc. Các đề xuất và khuyến nghị của
nghiên cứu mang tính phương hướng, chưa cụ thể (Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam, 2001) [10].
Trong 3 năm (1995 –1998), Trần Ngọc Lân và các đồng sự đã tiến hành
một nghiên cứu tại vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát và dựa trên nghiên cứu
này cuốn sách “Phát triển bền vững vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên và
vườn quốc gia’’ được ra đời vào năm 1999. Nghiên cứu đã đánh giá áp lực
của vùng đệm lên khu bảo tồn và hệ thống nông hộ tại vùng đệm Pù Mát. Tác
giả kết luận rằng các nông hộ trong vùng đệm Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ
với rừng, nguồn thu nhập từ khai thác lâm sản và canh tác nương rẫy chiếm
vị trí quan trọng trong tổng thu nhập của mỗi nông hộ. Hiện tại, các nông hộ
đang có sự chuyển đổi về sinh kế, song mới chỉ rất ít ở các hộ có sự hiểu biết
và có vốn đầu tư (Trần Ngọc Lân (chủ biên), 1999) [5].
Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm cũng tại Vườn
quốc gia Pù mát cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các CĐ ĐP
và thái độ của họ về các chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay
đổi sinh kế của người dân địa phương do sự ảnh hưởng của khu bảo tồn và
mức độ chấp nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa
cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết người dân địa phương

vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu,
trung bình, 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng đệm
và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là
8
từ rừng. Việc thành lập KBT TN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện
tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương. Mặc dù
đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại khu bảo tồn thiên nhiên,
nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập khu bảo tồn thiên
nhiên (Đo Anh Tuan, 2001) [13].
Vấn đề giảm đất đai canh tác của các cộng đồng do hình thành vườn
quốc gia là một thực tế diễn ra ở nhiều nơi. Đỗ Thị Hà cho rằng sau khi thành
lập VQG Tam Đảo, đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm nghiệp
tập trung vào một số chủ rừng, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trong hộ gia
đình (Trần Ngọc Lân (chủ biên), 1999) [5].
Các nghiên cứu đã thực hiện chủ yếu được phân tích, đánh giá tác động của
khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia đối với cộng đồng địa phương. Nhưng
vấn đề ngược lại, nhìn nhận từ góc độ cộng đồng địa phương đối với các khu
bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia còn chưa được nghiên cứu sâu sắc.
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu về khả năng
thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại
khu phục hồi sinh thái. Các tác giả cho rằng hệ thống chính sách hiện nay là
đầy đủ để có thể thu hút cộng đồng địa phương vào quản lý, sử dụng các khu
rừng đặc dụng, không thể loại trừ cộng đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ vườn
quốc gia và đề xuất mô hình quản lý đất đai trong khu phục hồi sinh thái của
vùng đệm (Nguyễn Bá Ngãi và cộng tác viên, 2002) [6].
Trần Ngọc Hải và cộng sự đã đánh giá vai trò kinh tế của lâm sản ngoài gỗ
ở 2 thôn người Dao tại xã Ba Vì. Tác giả cho rằng, LSNG, đặc biệt là nhóm tre
bương và cây dược liệu đóng vài trò rất quan trọng trong hộ gia đình Hạt kiểm
lâm (Vườn quốc gia Ba Vì, 2002) [2].
Tại vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia còn có một số

nghiên cứu khác, nhưng chủ yếu là đánh giá về hiện trạng hệ động, thực vật
và các biện pháp bảo tồn loài, quy hoạch sử dụng đất, các nghiên cứu về cây
thuốc và tình hình khai thác sử dụng cây thuốc của đồng bào Dao.
Như vậy, tại KBT TN và VQG các đề tài nghiên cứu mới chỉ đề cập đến
một số vấn đề chính sách quản lý, sử dụng đất khu phục hồi sinh thái và vai
trò của LSNG đối với người Dao. Sự tác động của cộng đồng vào VQG luôn
được xem là những vấn đề hiển nhiên, mang tính tất yếu. Chính vì vậy chưa
có nghiên cứu nào đề cập một cách sâu sắc về vấn đề này.
9
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu
Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn huyện Quản Bạ nằm ở phía bắc
tỉnh Hà Giang có diện tích tự nhiên 4.531,1 ha. Bao gồm 4 xã ( Bát Đại Sơn,
Thanh Vân và một phần xã Nghĩa Thuận và xã Cán Tỷ). Đây là một khu Bảo
tồn thiên nhiên được thành lập ngày 06 tháng 10 năm 2000.
2.4.1. Đặc điểm và điều kiện tự nhiên
2.4.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi ranh giới.
- Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn nằm ở vùng biên giới phía bắc
tỉnh Hà Giang có tọa độ địa lý:
Từ 23
0
04
'
27
''
đến 23
0
11
'
27
''

độ vĩ bắc.
Từ 104
0
54
'
02
''
đến 105
0
02
'
30
''
kinh đông.
- Phía tây bắc là đường biên giới nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
- Phía đông bắc là phần còn lại của xã Bát Đại Sơn và phía đông lấy
dòng sông Miện làm ranh giới.
- Phía nam và phía tây giáp xã Tùng Vài và đường ô tô đi biên giới.
Tổng diện tích khu Bảo tồn là 10.684 ha nằm trên địa phận 4 x
ã:
Trong đó:
- Xã Bát Đại Sơn : 3.825,0 ha
- Xã Thanh Vân : 3.948,0 ha
- Một phần xã Cán Tỷ: 1.396,0 ha
- Một phần xã Nghĩa Thuận: 1.515,0 ha.
2.4.1.2. Địa hình, địa thế.
Là vùng núi đá vôi, phần lớn là núi cao trên 1.000 m và thấp dần theo hướng
tây bắc và đông nam, Bát Đại Sơn có thể chia ra làm 3 kiểu địa hình chính.
- Kiểu địa hình trung bình: Đây là kiểu địa hình phổ biến nhất chiếm
hầu hết diện tích khu bảo tồn do địa hình bị chia cắt tạo ra những đỉnh núi

cao, sườn dốc đứng, các khe suối đều sâu, dốc lòng hẹp, ở đây rừng còn
phong phú đặc trưng cho hệ sinh thái rừng núi đá vôi miền bắc Việt Nam.
- Kiểu địa hình núi đá cao nằm ở phía đông bắc xã Bát Đại Sơn: ở đây
chủ yếu là đồi núi đất, có các đỉnh cao dưới 400m. Địa hình chia cắt mạnh
tạo ra nhiều dòng suối, độ dốc bình quân từ 25
o
- 35
o
, kiểu địa hình này tài
nguyên bị khai thác cạn kiệt, quá trình phát nương làm rẫy lặp lại nhiều lần
nên thực bì chủ yếu là cây bụi, trạng cỏ và một số ít diện tích rừng phục hồi
sau nương rẫy .
10
- Kiểu địa hình thung lũng: Đặc trưng là khu vực xã Thanh Vân, khu
vực này thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và chăn thả gia súc.
2.4.1.3. Địa chất, thổ những.
 Địa chất :
Khu bảo tồn Bát Đại Sơn có lịch sử kiến tạo địa chất vào kỷ đệ tam. Nếu
vật chất chính là đá vôi, các loài đá mẹ khác như: Đá sét, đá sa thạch, phân
bố rải rác trong khu vực với diện tích nhỏ.
 Thổ nhưỡng:
Theo kết quả điều tra có 5 loại đất chính đó là:
- Đất Feralít nâu vàng phát triển đá sa thạch với tầng đất dày kết cấu rời
rạc chiếm 56 ha.
- Đất Feralít màu nâu sám phát triển trên đá sét, tầng đất trung bình, kết
cấu hạt mịn, phân bố phía bắc xã Bát Đại Sơn với diện tích 803 ha.
- Đất Feralít mùn trên núi trung bình thường phân bố ở độ cao ( 700 m
thuộc phía bắc xã Bát Đại Sơn, loại này còn chất mùn kết cấu hạt mịn và giữ
ẩm, phát triển trên núi đá vôi với diện tích 319 ha và phát triển trên núi sét
610 ha.

- Đất Feralít màu nâu vàng trên sơn nguyên, phát triển trên đá sét: 1.759
ha phân bố tập trung ở xã Thanh Vân tầng đất trung bình, thường ở các thung
lũng rất tiện lợi cho các loại cây trồng nông nghiệp và cây công nghiệp.
- Nhóm đất thung lũng là sản phẩm chủ yếu của đá vôi phân bố dọc hai
bờ sông miện thuộc xã Cán Tỷ với diện tích 3.095 ha. Độ dầy tầng đất trung
bình đều sâu. Diện tích này chủ yếu dùng cho sản xuất nông nghiệp.
2.4.1.4. Khí hậu - thuỷ văn.
Khí hậu
Khu Bảo tồn Bát Đại Sơn nằm trong vùng khí hậu á nhiệt đới gió mùa
thuộc khí hậu vùng cao bắc Việt Nam, hàng năm có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa
có từ tháng 4 đến tháng 10 mùa khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Khí hậu khu vực có những đặc điểm sau:
• Chế độ ẩm
- Lượng mưa trung bình năm từ 2.000 đến 2.400 mm tập trung từ tháng
4 đến tháng 10 chiếm tới 80 - 90% tổng lượng mưa cả năm.
- Độ ẩm không khí: trung bình là: 82%, cao nhất 89%, thấp nhất 68%.
• Chế độ nhiệt:
11
- Nhiệt độ trung bình năm 15
0
c
- Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 1
0
c
- Nhiệt độ tối thấp cao tuyệt đối 35
0
c
• Chế độ gió:
Khu vực chịu ảnh hưởng của 2 loại gió thịnh hành là:
- Gió mùa đông bắc từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau thời tiết khô hanh,

có kèm theo sương muối.
- Gió mùa đông nam từ tháng 4 đến tháng 9, thời tiết nóng ẩm có mưa
lớn kéo dài.
Thủy văn:
Sông miện bắt đầu từ Trung Quốc chạy theo hướng đông, đông nam, hình
thành vành đai che chắn phía đông và đông bắc của khu bảo tồn. Sông miện có
dòng chảy quanh co, lòng hẹp, độ dốc lớn, về mùa mưa tốc độ dòng chảy khá
lớn do địa hình castơ các chi lưu đều chảy ngầm trong lòng đất nên lưu lượng
nước mặt ít lại không dự chữ được nước. Do đó về mùa mưa thiếu nước trầm
trọng gây ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong vùng.
2.4.1.5. Hiện trạng sử dụng đất khu bảo tồn.
- Về diện tích các loại đất đai.
Kết quả điều tra hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp. Năm 2007.
Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn

Hạng mục

Diện tích (ha)

Tỷ lệ%
Tổng diện tích rừng tự nhiên 4.531,1 100
1, Rừng tự nhiên 4.239,4 93,6
1.1 Rừng phục hồi IIa 2.511,8
1.2 Rừng núi đá vôi 1.727,6
2, Đất chưa có rừng 291,7 6,4
2.1 Đất trống cỏ Ia 85,6
2.2 Đất cây bụi Ib 42,7
2.3 Đất trống cây rải rác Ic 163,4
(Nguồn: Số liệu lấy từ KBT TN Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
năm 2010)


12
Nhận xét: Về diện tích các loại đất đai:
- Rừng khu bảo tồn Bát Đại Sơn có độ che phủ khá cao 93,6%. Trong đó
rừng tự nhiên chiếm 93,6% so với diện tích hiện có của khu vực, diện tích đất
chưa có rừng chiếm tỷ lệ không đáng kể.
- Đất không có rừng chiếm 6,4% trong đó có diện tích đất trạng cỏ, cây
bụi, đất trồng cây rải rác.
về trữ lượng các loại rừng được thể hiện theo bảng dưới đây:
Bảng 2.2. Trữ lượng các loại rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn
Hang mục Trữ lượng (m
3
) Tỷ lệ% M/ ha
Tổng cộng 380.626 100
Rừng trên núi đá vôi 207.312 54,5 120
Rừng phục hồi tự nhiên 173.314 45,5 69
(Nguồn: Số liệu lấy từ KBT TN Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
năm 2010)
Nhận xét: Về trữ lượng các loại rừng :
- Với những chỉ tiêu nêu trên chứng tỏ rừng trên núi đá vôi còn khá tốt,
giàu trữ lượng.
- Rừng phục hồi tự nhiên trữ lượng bình quân / ha còn tương đối cao.
2.4.1.6. Hệ thực vật rừng.
Đặc điểm khu hệ thực vật rừng:
• Hệ thực vật rừng Bát Đại Sơn là nơi giao thoa giữa các luồng thực vật
khác nhau và có các kiểu sinh thái thảm thực vật rừng.
- Kiểu 1: Thảm thực vật trên núi đá vôi:
Đây là kiểu rừng trên núi đá vôi có cấu trúc nguyên sinh cả 5 tầng rừng trong
đó có 3 tầng cây gỗ (Tầng vượt trội, tầng ưu thế sinh thái và tầng cây nhỏ),
dưới tán rừng có nhiều cây bụi và tầng cỏ quyết, kiểu rừng này có mật độ từ

200 - 300 cây/ ha. Đường kính bình quân từ 20 - 40 cm, ở tầng vượt trội có
cây cao 20 - 30 m gồm những cây như: Trai, nghiến, trám, kháo Loại rừng
này nếu được bảo vệ tốt sẽ giữ được nguyên sinh của kiểu rừng núi đá vôi và
được lớp thảm thực vật còn lại.

13
- Kiểu 2: Thảm thực vật trên núi đất:
Kiểu rừng này thuộc rừng cây lá rộng cây thường xanh và một số loài
cây lá kim, kiểu rừng này do bị tác động nhiều dẫn mật độ và trữ lượng bị
giảm trở thành rừng gỗ rải rác và nay đang được phục hồi.
Thành phần thực vật:
Theo kết quả điều tra ban đầu và các đoàn chuyên gia thám hiểm khu
bảo tồn Bát Đại Sơn cho thấy thành phần thực vật trong khu vực khá phong
phú, có tới 361 loài thuộc 103 họ và 249 chi, ngoài ra khu bảo tồn còn một số
cây có giá trị dược liệu như: Kim ngân, Cốt toái bổ, Thảo quả, Đỗ trọng,
Quế Những loài cây cảnh như phong lan tím và một số loài quý hiếm có
nguy cơ tuyệt chủng như: Bách xanh, Bách vàng cần được bảo vệ.
2.4.1.7. Hệ động vật rừng.
Kết quả điều tra bước đầu cho thấy: Thành phần loài có tới 195 loài
động vật có xương sống thuộc 80 họ trong 24 bộ.
Bảo tồn tài nguyên động vật thuộc nhóm động vật quý hiếm của khu bảo
tồn Bát Đại Sơn hiện nay đang có nguy cơ tuyệt chủng do nạn săn bắn bừa bãi,
do diện tích rừng bị thu hẹp từ phát nương làm rẫy, để bảo vệ nguồn gen động
vật rừng đặc biệt quý hiếm này cần sự đầu tư của nhà nước để bảo vệ, phát
triển nghiên cứu khoa học, trong tương lai nhất định số cá thể sẽ tăng dần lên
và còn phát hiện các loài quý hiếm khác.
2.4.2. Đặc điểm dân sinh kinh tế
Khu bảo tồn Bát Đại Sơn có 6 dân tộc:
-Dân tộc H,mông có 7.193 người chiếm 81.5% tổng dân số.
-Dân tộc Dao có 926 người chiếm 10,5% tổng dân số.

-Dân tộc Tày và Nùng có 619 người chiếm 7,0% tổng dân số.
-Dân tộc khác có 84 người chiếm 1% tổng dân số.
Nhìn chung các dân tộc trên sống phân bố rải rác trong vùng thành các thôn,
xóm bên cạnh trục đường giao thông, các thung lũng bằng phẳng, tập quán canh
tác chủ yếu là sản xuất canh tác nương rẫy và chăn nuôi gia súc gia cầm.
Dân số:
Tổng dân số ( Theo kết quả điều tra năm 2010) khu bảo tồn là 8.822
người với 1.784 hộ thuộc địa phận hành chính 4 xã với 18 thôn bản được thể
hiện như sau:
14
Bảng 2.3. Dân số và tốc độ tăng trưởng dân số
Tên xã Số hộ Số người Tỷ lệ tăng dân
số
Tổng số 1.784 8.822 1,87
Bát Đại Sơn 514 2.638 2,6
Nghĩa Thuận 91 513 1,2
Thanh Vân 898 4.271 1,2
Cán Tỷ 281 1.400 2,5
(nguồn: Số liệu lấy từ KBT TN Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
năm 2010)
Do tỷ lệ tăng số cao dẫn đến trình độ dân trí thấp, đời sống vật chất, tinh
thần của người dân còn gặp khó khăn.
Lao động:
Tổng số lao động trong đổ tuổi là: 3.605 người chiếm 46% tổng dân số
khu vực.
Do đất nông nghiệp ít lại chủ yếu là nương rẫy và sản xuất 1 vụ nên
hàng năm lao động thường dôi dư tới 30%. Lực lượng tuy dồi dào nhưng do
trình độ thấp dẫn đến năng suất một số cây trồng ở đây không cao.
Về lâm nghiệp:
• Công tác quản lý bảo vệ rừng:

Từ năm 2000 Ban quản lý dự án được thành lập và thực hiện chương
trình phát triển 5 triệu ha rừng bằng nguồn vốn 661 hỗ trợ, công tác bảo vệ
rừng đã được quan tâm. Ban quản lý khu bảo tồn phối hợp với Hạt kiểm lâm
huyện và chính quyền địa phương các xã, các thôn bản thực hiện biện pháp
khoán bảo vệ rừng nên rừng đã được hạn chế việc phát nương làm rẫy và
khai thác rừng trái phép.
• Công tác trồng rừng:
Trong những năm qua công tác trồng rừng đã được chú trọng ở các xã
Nghĩa Thuận, Thanh Vân, Bát Đại Sơn, Cán Tỷ, diện tích trồng mới đã thực
hiện được 405 ha. Kết quả thành rừng đạt hiệu quả cao.

15
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những tác động bất lợi của người dân
địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn.
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Thôn đầu cầu I, xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
3.2.2. Thời gian tiến hành nghiên cứu
Từ tháng 1/2014 – 5/2014.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung thực hiện các nội dung sau:
(1). Xác định các hình thức tác động bất lợi của người dân địa phương
trong vùng đệm tới TNR Khu bảo tồn thiên nhiên.
(2). Phân tích các nguyên nhân cơ bản dẫn tới những tác động bất lợi của
người dân địa phương trong vùng đệm tới TNR.
-Các nguyên nhân về xã hội

-Các nguyên nhân về kinh tế
(3). Đề xuất một số giải pháp kinh tế - xã hội nhằm giảm thiểu các tác
động bất lợi từ phía các cộng đồng địa phương trong vùng đệm tới TNR Khu
bảo tồn thiên nhiên, đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên lý luận về lý thuyết hệ thống, quan
điểm sinh thái – nhân văn, quan điểm bảo tồn - phát triển và tiếp cận có sự
tham gia.
3.4.1.1. Vận dụng lý thuyết hệ thống
Sự tác động của các cộng đồng địa phương đến TNR là hoạt động trong
hệ thống kinh tế xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên.
Sự tác động của các cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng là hoạt
động trong hệ thống kinh tế, bởi vì mức độ tác động của các cộng đồng địa
phương gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như sử dụng đất
16
rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc…Và sự tác động này cũng
phụ thuộc vào sinh kế, mức sống, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi
nhuận trước mắt…và hiệu quả kinh tế thường quyết định tới hình thức sử
dụng tài nguyên rừng của các cộng đồng địa phương.
Ngược lại, mức độ giàu có và đa dạng của TNR cũng tác động mạnh mẽ
tới nguồn thu của các cộng đồng địa phương. Chính vì mối quan hệ chặt chẽ
giữa những tác động của các cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng với
các yếu tố kinh tế nên có thể làm giảm thiểu tác động bất lợi tới tài nguyên
rừng bằng cách tác động vào những yếu tố kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên
cứu các nguyên nhân kinh tế dẫn tới những tác động bất lợi của các cộng
đồng địa phương đến tài nguyên rừng và nghiên cứu đề xuất giải pháp kinh tế
để giảm thiểu sự tác động bất lợi này.
Sự tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng là hoạt động
xã hội là vì các hoạt động này là của con người. Sự tác động này bị chi phối

bởi nhiều yếu tố xã hội như nhận thức của người dân về tầm quan trọng của
tài nguyên rừng, ý thức về luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, những thói
quen sử dụng tài nguyên rừng, … Sự tác động của các cộng đòng địa phương
đến tài nguyên rừng còn phụ thuộc vào những vấn đề về thể chế và chính sách
như chính sách đối với các cộng đồng địa phương vùng đệm, hệ thống quản lý
tài nguyên rừng, việc thực thi luật bảo vệ phát triển rừng… Các tổ chức cộng
đồng và những quy định của cộng đồng cũng có ảnh hưởng tới những tác
động của cộng đồng địa phương vào tài nguyên rừng. Sự hiện diện của chúng
sẽ hỗ trợ Nhà nước trong việc tuyên truyền các chính sách, gắn kết người dân
thành cộng đồng thống nhất trong việc thực thi việc quản lý bảo vệ tài nguyên
rừng. Những tác động của các cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng liên
quan chặt chẽ với các yếu tố xã hội, vì vậy đề tài tiến hành nghiên cứu các
nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động của cộng đồng địa phương đến tài
nguyên rừng và nghiên cứu đề xuất giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiểu
những tác động bất lợi này.
TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ
tương tác chặt chẽ. Bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài tới tài nguyên rừng
cũng dẫn đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. Tài
nguyên rừng vốn tồn tại khách quan và vận động theo những quy luật tự
17
nhiên, vì vậy để bảo tồn tài nguyên rừng, những tác động của con người phải
phù hợp với quy luật tự nhiên và giảm thiểu những tác động bất lợi tới nó.
3.4.1.2. Quan điểm sinh thái – nhân văn
Thực tế cho thấy rằng, bất cứ hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng
hay trong mỗi hộ gia đình đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc
điểm sinh thái và mối quan hệ kinh tế - xã hội. Điều này chỉ ra rằng các hoạt
động trong cộng đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào
đó giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng này vào thời điểm này nhưng lại
không phải là như vậy trong thời điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để
nghiên cứu sự tác động bất lợi của các CĐ ĐP đến TNR, chúng tôi dựa theo

tháp sinh thái - nhân văn của Park đề xuất năm 1936 (Võ Văn Thoan và
Nguyễn Bá Ngãi (Biên tập), 2002) [8].


















Hình 3.1. Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu sự tác động
của cộng đồng người dân địa phương tới tài nguyên rừng
Ảnh Hưởng Các nhân tố thích hợp
Tác động
bất lợi
của
người
dân địa
phương
đến TNR




Phát triển
KT-XH
địa
phương
và bảo
tồn TNR
Các yếu tố văn hóa
Các yếu tố thể
chế chính sách
Các yếu tố
kinh tế
Các yếu tố
sinh
thái,công
nghệ
Đạo
đức
Bậc
thể
chế


Bậc kinh tế


Bậc sinh thái

×