Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại vqg vũ quang, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.82 KB, 96 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được
sự giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Trường
Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS. Lê Sỹ Việt đã tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn chỉnh khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên Ban quản lý
Vườn Quốc gia Vũ Quang, các hộ gia đình cá nhân tại địa bàn nghiên cứu đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu, phỏng vấn điều tra
và đóng góp ý kiến xây dựng phục vụ công tác nghiên cứu.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do điều kiện và trình độ có hạn nên khóa
luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo để khóa luận được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 04/06/2012
Sinh viên

Phạm Văn Ngọc
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VQG Vườn quốc gia
KBT Khu bảo tồn
KBTTN Khu bảo tồn thiên nhiên
DDSH Đa dạng sinh học
TNR Tài nguyên rừng
KT - XH Kinh tế - xã hội
PHST Phục hồi sinh thái
HGĐ Hộ gia đình
LSNG Lâm sản ngoài gỗ


UBNN Uỷ ban nhân dân
NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PCCCR Phòng cháy chữa cháy rừng
QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
RĐD Rừng đặc dụng
NN Nông nghiệp
SX Sản xuất
TN Thu nhập
LĐ Lao động
KT Khai thác
CP Chi phí
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT Tên bảng Trang
2.1 Số hộ của các thôn nghiên cứu 18
4.1 Thống kê vi phạm công tác QLBVR tại VQG Vũ Quang 29
4.2 Bảng phân tích về công tác quản lý BTTNR tại VQG Vũ Quang 31
4.3 Thống kê mức độ khai thác gỗ của các HGĐ 33
4.4 Mức độ khai thác gỗ củi của các HGĐ 34
4.5 Mức độ chăn thả gia súc của các HGĐ 35
4.6 Mức độ khai thác và khối lượng LSNG của HGĐ 37
4.7 Cơ cấu đất đai trung bình của các HGĐ tại khu vực nghiên cứu 38
4.8 Kết quả tổng hợp cơ cấu nguồn thu theo nhóm HGĐ 40
4.9 Cơ cấu chi phí của các nhóm HGĐ tại khu vực nghiên cứu 42
4.1
0
Nhu cầu và khả năng đáp ứng về lương thực của các HGĐ 45
4.11 Nhu cầu về chất đốt của HGĐ 46
4.12 Nguồn sinh kế của các HGĐ trong khu vực 48
DANH MỤC CÁC HÌNH
TT Tên hình Trang

2.1 Tháp sinh thái nhân văn trong nhiên cứu sự tác động của người
dân địa phương tới TNR
15
3.1 Bản đồ quy hoạch phân khu VQG Vũ Quang – Hà Tĩnh 20
3.2 Cơ cấu đất đai của xã Hương Minh 27
4.1 Tình hình vi phạm công tác QLBVR tại VQG Vũ Quang 30
4.2 Cơ cấu đất đai trung bình của các HGĐ 39
4.3 Cơ cấu thu thập của HGĐ theo nhóm hộ 41
4.4 Cơ cấu chi phí của các nhóm HGĐ 43
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển đến nay hệ thống Khu
bảo tồn thiên nhiên của nước ta gồm 164 khu rừng đặc dụng (gồm 30VQG,
69 khu dự trữ sinh quyển, 45 khu cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm
khoa học) và 3 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc
trưng có giá trị sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và
trên biển đã và đang được xây dựng trên khắp các vùng miền của nước ta.
Đa số các VQG đều có dân sinh sống xung quanh hoặc bên trong ranh
giới. Trên thế giới việc thành lập và bảo vệ các VQG phụ thuộc vào sự hợp
tác giữa người dân địa phương và các ban quản lý VQG. Các VQG sẽ không
đạt được kết quả mong muốn nếu những mối quan tâm của người dân địa
phương không được đáp ứng một cách phù hợp, người dân địa phương là
những người hiểu rõ về những vấn đề quan trọng và sự sống còn đối với các
VQG. Chính vì vậy, phải coi người dân địa phương là những nhóm đặc biệt
khi thành lập và quản lý VQG. Các VQG không thể tách rời khỏi các nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội và tinh thần của người dân địa phương.
Hiện nay tình trạng đói nghèo của người dân sống trong và xung quanh các
VQG là một thực tế của vùng núi xa xôi hẻo lánh, thường có diện tích đất
canh tác hạn hẹp và ít có cơ hội tiếp cận thị trường. Nhiều VQG của nước ta
là nơi sinh sống của các dân tộc ít người chiếm khoảng 14% dân số cả nước
và tình trạng đói nghèo của họ cũng chủ yếu do những nguyên nhân như:

Vùng sâu, vùng xa, thiếu thị trường và diện tích đất canh tác. Chính vì thế
những người dân sống tại khu vực này thường phụ thuộc nhiều vào các nguồn
tài nguyên thiên nhiên còn lại trong các VQG.
Khi VQG được thành lập thì người dân địa phương bị hạn chế hoặc không
còn được sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong các VQG này. Trong khi đó
các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho người dân địa phương chưa bù đắp
được sự thiếu hụt này chính vì vậy đã gây mâu thuẫn giữa VQG với người
dân địa phương, những người đã và đang sống phụ thuộc vào một phần tài
1
nguyên rừng. Do đó việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào
rừng là một tất yếu.
VQG Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh được chuyển đổi từ KBTTN Vũ Quang theo
quyết định số 102/ 2002/ QĐ TTg ngày 30/7/2002 của Thủ Tướng Chính Phủ.
Đây là khu vực sinh sống của dân tộc Kinh và dân tộc Lào Thừng tuy nhiên
trình độ dân trí chưa được cao, thu nhập chủ yếu bằng trồng trọt, chăn nuôi…
VQG Vũ Quang phần lớn diện tích thuộc huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh là 1
trong 61 huyện nghèo của cả nước thuộc chương trình 30a của Chính Phủ.
Như vậy, VQG Vũ Quang cũng nằm trong tình trạng chung của hầu hết
các VQG và KBTTN của cả nước là nằm ở vùng sâu vùng xa, cơ sở vật chất
còn hạn chế, đất sản xuất ít vì địa hình dốc, trình độ dân trí thấp. Do vậy họ
cố gắng tiếp cận đến mức tối đa nguồn tài nguyên rừng khi có cơ hội. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa
phương đến tài nguyên rừng ở các VQG nói chung và VQG Vũ Quang nói
riêng nhằm bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển tài nguyên rừng ở nơi đây.
Để góp phần làm rõ những tồn tại trên đề tài: “Nghiên cứu tác động của
người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang, tỉnh Hà
Tĩnh” là có cơ sở và hết sức cần thiết.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực làm
thay đổi chiến lược bảo tồn từ đầu thập kỷ 80. Một chiến lược bảo tồn mới
dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hạt động sinh kế của người dân địa phương, cần
thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hóa trong quá trình xây dựng các quyết định.
Ý tưởng về một khu rừng nhất định cần được bảo vệ khỏi tác động khai thác
sử dụng thường nhật của con người đã có ít nhất từ 3000 năm trước đây vào
thời vua Ai Cập Ikhnaton hoặc thậm chí sớm hơn.
Nguồn gốc của KBTTN “hiện đại” có từ thế kỷ 19. VQG Yellowstone là
VQG đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Mỹ năm 1872. VQG này nằm
trên vùng đất do người Crow và người Shosshone sinh sống trên cơ sở sử
dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời khỏi mảnh đất của
họ. Nhiều KBTTN và VQG được thành lập sau đó ở các nước khác nhau trên
thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này. Dựa trên mô
hình Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm
việc ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác TNR
[10]. Tại các nước Đông Nam Á phương thức này tỏ ra không thích hợp vì để
duy trì sự ĐDSH thì người dân địa phương bị mất quyền tiếp cận với nguồn
TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn.
Ở Nepal, đã có một số mô hình thành công về chương trình bảo tồn ĐDSH
theo hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của cuộc xung đột vũ trang
trong gần một thập kỷ đã tác động xấu đến các hoạt động bảo tồn và động vật
hoang dã. Chính vì vậy, một số nghiên cứu về đánh giá tác động của những
hoạt động này đến bảo tồn ĐDSH tại VQG Bardia và vùng đệm phía tây
Nepal đã được thực hiện. Nghiên cứu đã khẳng định 73% người dân địa
3
phương sống trong khu vực phụ thuộc vào nông nghiệp, nguồn chất đốt và
thức ăn [25].

Ở Ấn Độ, diện tích đất lâm nghiệp đứng thứ hai sau diện tích đất nông
nghiệp và là nơi ước tính có 275 triệu người dân địa phương ở các vùng nông
thôn phụ thuộc vào rừng (ít nhất là một phần sinh kế của họ). Một nghiên cứu
về lâm nghiệp cộng đồng bên ngoài khu rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các khu
rừng không chỉ cung cấp tiềm năng to lớn về xóa đói giảm nghèo và tăng
trưởng kinh tế nông thôn ở Ấn Độ mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là
bảo tồn [26].
Các mô hình ở Đông Nam Á đã chỉ ra rằng: Nỗ lực của các cơ quan chính
phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như
mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và KT-XH. Việc đưa người
dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khắc nào “bắt
cá khỏi nước” và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà
không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền
về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ ra có
hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này [19].
Trước những bất cập trong công tác bảo tồn ở các VQG và KBT trên thế
giới từ những năm đầu của thập kỷ 80 đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo quốc
tế với sự đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về bảo tồn đã đề
xuất những thay đổi trong chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo tồn mới
dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần
thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hóa trong quá trình xây dựng các quyết định.
Ở Thái Lan, một thử nghiệm của Dự án “Quản lý bền vững thông qua sự
cộng tác” đã thực hiện tại KBT động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh
Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản
lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và
4
đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt
động làm tăng thu nhập của họ [22]. Hệ thống quản lý các khu bảo vệ trước

đây đã nhấn mạnh các quyền sở hữu và kiểm soát rừng của nhà nước mà
không chú ý tới ảnh hưởng giữa con người và các nguồn tài nguyên, đã dẫn
tới những thất bại vì tỷ lệ phá rừng hàng năm vẫn ở mức cao tới 2,6%. Bink
Man W (1988) trong nghiên cứu của mình thực hiện tại làng Ban Pong, tỉnh
S.Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng
để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như củi đun và hoa quả
trong rừng [17].
Ở Philippines, chiến lược quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng: “Điều
chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các cộng
đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định
về chính sách liên quan đến môi trường sẽ tham gia vào quá trình lập kế
hoạch và quản lý đối với bảo tồn ĐDSH” (Denr và TCSD, 1994) [19].
Ở Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng: “Việc tăng cường
sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ
thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế
hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch
(Bappenas, 1993 - dẫn theo Lê Sỹ Trung, 2005) [19].
Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd G cho rằng đối với cộng đồng dân cư
sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho phép người dân
địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các hệ thống quản lý
nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, nhà nước cần xác
định rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ nhận với mục
đích tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động đến tài
nguyên rừng [16].
Dilmour D.A. [8], lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẩn đến tính kém hiệu
quả của các chương trình, dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên là chưa giải
quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng, giữa lợi ích
5
cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia. Do đó chưa phát huy được năng
lực nội sinh của các cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy, quản lý tài

nguyên cần phát triển theo hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn và phát
triển tài nguyên với hoạt động sản xuất để cải thiện chất lượng cuộc sống
người dân, thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích quốc gia trong hoạt
động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng [16].
Theo Nick Salafky và các cộng sự (trong Biodiversity Support Program
Washington, DC, USA, 2000) [3], cho rằng vào những năm 90 của thế kỷ
trước, các nhà bảo tồn bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mới nhằm đáp ứng
nhu cầu lợi ích kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp cận này dựa vào việc thực
hiện các hoạt động sinh kế độc lập và có mối quan hệ trực tiếp với bảo tồn.
Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là mối liên hệ giữa ĐDSH và con người
xung quanh. Cũng trong chiến lược này, các nhà bảo tồn có thể giúp người dân
địa phương khai thác sử dụng LSNG hoặc phát triển du lịch sinh thái [16].
Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (WWF) 2001 đã đưa ra một
thông điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề
xóa đói giảm nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài
nguyên rừng” [16].
1.2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, đến nay hệ thống
KBTTN của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc
gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ Cảnh quan, 20 khu nghiên cứu
thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái,
cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên
cạn, đất ngập nước và trên biển đã và đang được xây dựng trên khắp các
vùng, miền cả nước.
Cùng với sự ra đời của các VQG và KBTTN rải đều từ Bắc vào Nam thì hệ
thống các thể chế, chính sách về công tác bảo tồn cũng đã được thiết lập. Đầu
6
tiên là Luật bảo vệ và phát triển rừng ban hành ngày 12/08/1991 và được sữa
đổi ngày 03/12/2004 [14], trong đó quy định rừng đặc dụng bao gồm:
+ Vườn quốc gia

+ Khu bảo tồn thiên nhiên gồm: Khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài,
sinh cảnh
+ Khu bảo vệ cảnh quan gồm: Khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam
thắng cảnh
+ Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học
Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 [4], đã đề cập
đến việc ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi
sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT. Gần
đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày
14/08/2006 về việc ban hành Quy chế quản lý rừng [18], thay thế quyết định
số 08/2001/QĐ-TTg. Theo điều 14 chương II của quy chế quản lý rừng Nghị
định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/09/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững
các vùng đất ngập nước.
Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN ngày 12/10/2005 quy định tiêu chí phân
loại rừng đặc dụng.
Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về tổ chức và quản lý hệ
thống rừng đặc dụng.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020.
Trong nhiều năm qua, đã có nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc nâng cao
hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát triển. Đó là
làm sao dung hòa mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát
triển kinh tế - xã hội của người dân địa phương.
Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên [9], đã
đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng.
Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các KBT ở Việt Nam, Nguyễn Bá
Thụ đã nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết
7
những vấn đề tồn tại trên vùng đệm bao gồm nâng cao đời sống của nhân dân
vùng đệm, chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi lãng phí
của người dân sống trong vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác nông

lâm nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, nhanh chóng
từ bỏ lối canh tác du canh, quảng canh, nâng cao trình độ hiểu biết về bảo tồn,
sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên cho người dân địa phương [16].
D.A Gilmour và Nguyễn Văn Sản [8], đã thực hiện một nghiên cứu về quản
lý vùng đệm tại 3 VQG : Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên cứu đã
phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt Nam.
Về quan hệ đồng tác trên cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các KBTTN, Lê
Quý An [1], đã khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm trên cơ sở cộng
đồng là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu cực trong các
hoạt động bảo tồn. Cộng đồng còn có thể phát huy những mặt hay của phong
tục, tập quán trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, trong
mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên để xây dựng nề nếp của cuộc
sống lành mạnh về mặt môi trường, góp sức cho việc bảo tồn.
Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBTTN Pù
Mát cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các cộng đồng địa
phương và thái độ của họ về các chính sách bảo tồn [23]. Tác giả chủ yếu
đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự ảnh hưởng của
KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan
hệ giữa cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết người dân địa
phương vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên
cứu, trung bình 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng
đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình (HGĐ) trong vùng bảo vệ
nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30%
- 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa
phương. Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ thực hiện tại KBTTN,
nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [23].
8
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự [11], dưới sự hỗ trợ của chương trình hỗ trợ
lâm nghiệp xã hội, trung tâm đào tạo lâm nghiệp xã hội đã thực hiện một
nghiên cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử

dụng đất lâm nghiệp tại khu phục hồi sinh thái (PHST). Các tác giả cho rằng
hệ thống chính sách hiện nay là đầy đủ để có thể thu hút cộng đồng địa
phương vào quản lý, sử dụng các khu rừng đặc dụng, không thể loại trừ cộng
đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ VQG và đề xuất mô hình quản lý đất đai
trong khu PHST của VQG Ba Vì.
Nguyễn Thị Phương [13], khi “nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương vùng đệm đến tài nguyên rừng Ba Vì - Hà Tây” đã vận dụng phần
mềm SPSS trong việc tổng hợp và sử lý số liệu về hình thức tác động của các
nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng
nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì
vậy, để giải quyết nhu cầu của cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài
nguyên rừng dưới nhiều hình thức như: Sử dụng đất rừng để sản xuất hàng
hóa, khai thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc trong đó
hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa cho tỷ trọng thu nhập cao
nhất tổng cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa
đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm
hộ khác nhau.
Hoàng Quốc Xạ [24], đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định
lượng trong việc xác định các hình thức tác động và nguyên nhân tác động khi
nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại vùng đệm VQG
Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp được tác giả đưa ra tuy bao hàm nhiều
lĩnh vực song chưa dựa trên các yếu tố đã phân tích cụ thể tại khu vực nghiên
cứu và chưa thể hiện tính khả thi của các giải pháp đưa ra.
Ngô Ngọc Tuyên [22], đã lượng hoá tốt và thể hiện sinh động ảnh hưởng
của các yếu tố sản xuất đến tổng thu nhập của hộ gia đình cũng như mối quan
hệ giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác TNR thông qua việc
9
thực hiện nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến TNR tại
KBTTN Na Nang, Tuyên Quang. Tác giả đã lựa chọn 4 dân tộc chính trong
mỗi khu vực, mỗi dân tộc 30 HGĐ để phỏng vấn, nhưng chưa chỉ ra cho

người đọc cách thức và nguyên tắc chọn mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng,
để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày người dân đã tác động tới TNR
dưới nhiều hình thức song “sử dụng tài nguyên rừng” là hình thức tác động
bất lợi nhất, các dân tộc khác nhau thì mức độ tác động cũng khác nhau.
Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các
yếu tố đến thu nhập của HGĐ, tuy nhiên phân tích mới dừng lại ở 3 yếu tố
nguồn lực mà chưa phân tích đến các yếu tố hiệu quả [22].
Khuất Thị Lan Anh [2], khi “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, tỉnh Bắc
Kạn” đã nghiên cứu các yếu tố kinh tế và xã hội chi phối các hình thức và
mức độ tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. Đề tài đã phần
nào lượng hoá được mức độ tác động của người dân tới KBT như: Sử dụng
TNR, khai thác các sản phẩm rừng, sử dụng đất rừng để chăn thả gia súc, tác
động đến TNR do các nguyên nhân rủi ro, các hoạt động khai thác vàng Tuy
nhiên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu các tác động tích cực của người dân. Thêm
vào đó, các giải pháp đưa ra còn chung chung, chỉ mang tính chất định hướng,
chưa đi sâu vào các giải pháp mang tính khả thi đối với địa phương [2].
Trần Ngọc Thể [17], khi “Nghiên cứu các tác động của người dân địa
phương tới TNR tại vườn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn” đã đưa ra một hệ
thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tác động của người dân tới
các KBT. Ngoài ra đề tài còn lượng hoá được mức độ tác động của người dân
tới TNR ở VQG Ba Bể bằng cách phân tích các yếu tố sản xuất ảnh hưởng tới
tổng thu nhập của các HGĐ thông qua hàm Cobb-Douglas (hàm sản xuất có
độ giản không đổi). Nghiên cứu đã đưa 7 biến sản xuất (diện tích, số lao động
chính, phân bón, đầu tư bằng công, khai thác gỗ, chăn thả gia súc, số khẩu) và
11 biến hiệu quả (học vấn chủ hộ, độ cao, loại kinh tế hộ, mức độ gần rừng,
10
dân tộc DT1T, dân tộc DT2T, mức độ thuận tiện thông, khả năng tiếp cận thị
trường, tỷ lệ LĐC/ số khẩu, số lần đốt nương rẫy, sử dụng giống) vào mô hình
để phân tích kết quả cho 4 biến sản xuất và 6 biến hiệu quả tồn tại trong mô

hình. Kết quả cho thấy đã tồn tại mối quan hệ rất chặt giữa tổng thu nhập từ
rừng với 4 yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và 6 yếu tố hiệu quả với hệ
số xác định R
2
= 0.93 (F= 14.601, Sig.F=0.000) và 93% biến động của thu
nhập được giải thích bởi các yếu tố này. Đây là 1 nghiên cứu mẫu có ý nghĩa
tham khảo rất tốt. Tuy nhiên đề tài chỉ tập trung phân tích các tác động bất lợi
của người dân địa phương tới TNR mà chưa quan tâm tới các tác động tích
cực của người dân, trong khi đó sự tham gia của cộng đồng theo hướng tích
cực là phần không thể thiếu đối với công tác bảo tồn đối với bất kỳ VQG nào.
Đỗ Thị Hường [7], khi nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến
tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến, huyện Kim Bôi,
tỉnh Hoà Bình” đã đánh giá được tình hình hiện trạng công tác quản lý bảo vệ
TNR, phân tích kinh tế HGĐ, nghiên cứu các hình thức và mức độ tác động
của người dân đến TNR và tổng thu nhập của các HGĐ ở khu vực nghiên
cứu. Tác giả đã phân tích sự phụ thuộc, các nguyên nhân dẫn đến sự tác động
bất lợi của người dân đến TNR. Đề tài đã đề xuất được một số giải pháp tác
động tích cực và hạn chế tác tác động bất lợi của cộng đồng người dân tới
TNR của KBT, các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể làm tài
liệu tham khảo tốt. Tuy nhiên đề tài chưa làm rõ các yếu tố đầu vào nào của
sản xuất, yếu tố nào đưa vào tính toán, đưa yếu tố “loại kinh tế hộ” làm yếu tố
đầu vào là không chính xác, xác định nhu cầu thị trường bằng phương pháp
nào, nhu cầu thị trường là những gì mà ở đây mới nghiên cứu được kênh tiêu
thụ.
1.3. Những kết luận rút ra phục vụ cho nghiên cứu
Như vậy, mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với công tác bảo tồn ở các
khu rừng đặc dụng đã và đang được nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn khác
nhau. Một số nghiên cứu đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn khá đầy đủ
11
cũng như đã lượng hoá được hình thức và mức độ tác động của cộng đồng

người dân tới tài nguyên rừng của một số khu rừng đặc dụng. Các nghiên cứu
khác lại tập trung vào phân tích mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR.
Tuy nhiên, cách tiếp cận của các đề tài nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khía
cạnh phân tích tác động bất lợi mà chưa đề cập đến tác động tích cực từ phía
người dân trong công tác bảo tồn. Ngoài ra các nghiên cứu chỉ đưa ra các
phương pháp chung, mang tính chất định hướng, chưa giải quyết được các
mâu thuẫn phát sinh từ thực tế.
Hiện nay, số lượng khu rừng đặc dụng của nước ta ngày càng tăng lên,
trong khi đó mỗi khu rừng đặc dụng lại có đặc trưng về quy mô, đặc điểm
sinh thái, phân bố dân cư, tình hình kinh tế, xã hội, phong tục tập quán khác
nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với các
khu rừng đặc dụng nhằm đề xuất các giải pháp thu hút người dân tham gia
công tác bảo tồn ở mỗi VQG, KBTTN trên phạm vi cả nước là việc cần thiết.
Hầu hết các giải pháp đưa ra trong những nghiên cứu dạng này còn chung
chung, tản mạn, đặc biệt mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng, có nghĩa là mới
khẳng định đó là giải pháp gì (Cái gì), chứ chưa chỉ ra được làm như thế nào.
Tuy gần đây nhất (năm 2010) có một nghiên cứu đã đưa ra được các giải pháp
có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể tham khảo tốt nhưng chỉ ở một địa
điểm, điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội cụ thể. Vì vậy, vấn đề này cần tiếp
tục được nghiên cứu và hoàn thiện.
12
CHƯƠNG II
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của người dân
vào TNR.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được các hình thức và mức độ tác động của các hộ gia đình vào

TNR tại VQG Vũ Quang.
- Xác định được các nguyên nhân chính dẫn đến những tác động bất lợi
tới TNR.
- Đề xuất các giải pháp góp phần giảm thiểu tác động bất lợi và thu hút
người dân tham gia vào quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững TNR tại VQG
Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các tác động bất lợi làm giảm nguồn tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại 1 xã đại
diện thuộc VQG Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Trong đó đề cập đến mức độ kinh
tế gia đình.
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những tác động bất lợi của người dân địa
phương tại VQG Vũ Quang vào TNR.
- Đề tài chỉ giới hạn ở việc xác định những tác động, nguyên nhân, mức độ
tác động của cộng đồng sống trong ranh giới của VQG. Những cộng đồng
sống ngoài ranh giới của VQG không thuộc phạm vi nghiên cứu.
13
- Đề tài chỉ đề cập tới loại hình kinh tế chính của địa phương (thoát nghèo,
cận nghèo, nghèo) việc xác định loại hình kinh tế không thuộc phạm vi
nghiên cứu.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng công tác bảo vệ tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
- Phân tích và đánh giá các tác động bất lợi của các hộ gia đình đến TNR tại
VQG.
- Phân tích các nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi của người dân
địa phương đến TNR tại VQG.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế các tác động bất lợi và thu hút người dân
tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển TNR tại VQG Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết hệ thống;
quan điểm sinh thái nhân văn; quan điểm bảo tồn và phát triển; phương pháp
tiếp cận có sự tham gia.
a, Lý luận về lý thuyết hệ thống
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ
thống kinh tế xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. Nó là hoạt động trong
hệ thống kinh tế, bởi vì mức độ tác động của người dân gắn liền với hoạt
động kinh tế của con người như khai thác lâm sản, chăn thả gia súc Nó là
hoạt động xã hội vì các hoạt động này là của con người. Sự tác động bị chi
phối các yếu tố xã hội như nhận thức của người dân về tầm quan trọng của
TNR, ý thức về luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, tập quán sử dụng TNR.
Sự tác động của người dân địa phương còn phụ thuộc vào những vấn đề như
thể chế và chính sách, hệ thống thực thi luật và chính sách. Các tổ chức và
những quy định của cộng có những ảnh hưởng tới những hoạt động của người
dân địa phương vào TNR.
14
b, Quan điểm sinh thái nhân văn
Thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng hay trong
mỗi HGĐ đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái và
mối quan hệ kinh tế xã hội. Điều này chỉ ra rằng, các hoạt động trong cộng
đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò
quan trọng trong thời điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để nghiên cứu
sự tác động bất lợi của người dân đến TNR, tôi dựa theo tháp sinh thái - nhân
văn của Park [12]. Mô hình sinh thái nhân văn được Park thiết kế theo hình
tháp dựa trên các hoạt động xã hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc
trong các nhóm nhân tố theo trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế
chính sách và bậc đạo đức. Dựa trên hình tháp này có thể giải thích mối quan
hệ giữa tác động bất lợi của người dân đến TNR và phát triển kinh tế - xã hội

địa phương.
Hình 2.1. Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu sự tác động
của người dân địa phương tới tài nguyên rừng
Ảnh Hưởng Các nhân tố thích hợp
Tác
động
bất lợi
của
người
dân địa
phương
đến
TNR
Phát
triển
KT-XH
địa
phương
và bảo
tồn
TNR
Các yếu tố văn hóa
Các yếu tố thể
chế chính sách
Các yếu tố
kinh tế
Các yếu tố
sinh
thái,công
nghệ

Đ
ạo
đứ
c
Bậc
thể
chế
Bậc kinh
tế
Bậc sinh thái
15
c, Quan điểm bảo tồn - phát triển
Theo Gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản [8], đã đưa ra quan điểm bảo tồn và
phát triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển
của địa phương, bao gồm 3 cách tiếp cận sau:
+ Thứ nhất là cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế.
+ Thứ hai là cách tiếp cận phát triển kinh tế.
+ Thứ ba là cách tiếp cận có sự tham gia.
d, Phương pháp tiếp cận có sự tham gia: Sự tham gia được định nghĩa như là
một quá trình thông qua đó các chủ thể hay các bên liên quan cùng tác động
và chia sẽ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định. Điều quan trọng là
người dân địa phương có khả năng trao đổi các nguyện vọng của họ về TNR
với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lại, các cơ quan này có
thể hiểu và đáp ứng các nguyện vọng được nêu ra.
Trong nguyên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng,
trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua hình
thức tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn
(RRA) và phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) sẽ được sử
dụng để thu thập thông tin cho nghiên cứu.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu

a, Thu thập các tài liệu thứ cấp liên quan đến vấn đề nghiên cứu
- Các văn bản, chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
- Các báo cáo của tỉnh, huyện, xã, các ban quản lý VQG về công tác quản
lý, phát triển rừng tại VQG.
- Các tài liệu liên quan đến địa điểm nghiên cứu được thu thập tại địa
phương như: Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
b, Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
Chọn địa điểm nghiên cứu là công việc được tiến hành trước khi điều tra thu
thập số liệu. Nguyên tắc của chọn địa điểm nghiên cứu là đại diện tương đối
16
cho khu vực nghiên cứu. Vì vậy, các tài liệu thứ cấp liên quan đến khu vực
được nghiên cứu nhằm tìm hiểu chung về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã
hội khu vực và một đợt khảo sát nhanh được tiến hành tại các điểm thuộc khu
vực nghiên cứu nhằm tìm hiểu những đặc trưng về địa hình và điều kiện kinh
tế - xã hội của từng địa điểm nghiên cứu.
- Về nguyên tắc
Xã được chọn đa dạng về thành phần dân tộc (chủ yếu là Kinh và Lào
Thừng)
Xã được chọn là xã có địa giới hành chính thuộc VQG (có trạng thái rừng
đặc trưng của khu vực nghiên cứu)
Xã được lựa chọn có điều kiện dân sinh kinh tế xã hội, đạt mức trung bình
đại diện cho tình hình dân sinh kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu.
Thôn, xóm được chọn phải đảm bảo có đủ 3 loại hình kinh tế: Hộ thoát
nghèo, hộ cận nghèo, hộ nghèo.
- Lựa chọn xã nghiên cứu.
Tại khu vực của VQG Vũ Quang có 2 xã Hương Quang và Hương Điền có
2 thành phần dân tộc sinh sống (Kinh và Lào Thừng) trong vùng lõi của
VQG, đây là 2 xã đại diện tốt nhất về tác động vào TNR. Nhưng sở dĩ không
chọn 2 xã này vì 2 xã này đã giải tỏa di dời dân ra khỏi vùng lõi của VQG để

xây dựng Thủy điện Ngàn Trươi - Cẩm Trang, và dân đã đi tự do khắp nơi
nên việc điều tra để thu thập số liệu là rất khó khăn. Chính vì vậy, tôi lấy xã
Hương Minh, huyện Vũ Quang làm địa điểm nghiên cứu cho đợt làm khóa
luận này.
Xã Hương Minh, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh là xã đại diện cho khu vực
nghiên cứu về trạng thái rừng, thành phần kinh tế gia đình Do vậy đây là xã
được chọn để nghiên cứu.
- Lựa chọn thôn nghiên cứu: Thôn nằm trong ranh giới của VQG. Thôn có
đủ 3 loại hình kinh tế là Thoát nghèo, Cận nghèo, Nghèo Kết quả lựa chọn 3
thôn là: Hợp Bình, Hợp Thắng, Hợp Lợi.
17
Bảng 2.1. Số hộ của các thôn nghiên cứu
STT Tên thôn, xóm Số hộ gia đình
1 Hợp Bình 66
2 Hợp Thắng 79
3 Hợp Lợi 109
( Nguồn: Số liệu lấy từ UBNN xã Hương Minh năm 2012)
c, Xác định dung lượng mẫu điều tra
Mẫu điều tra là một phần của tổng thể được lựa chọn theo những cách khác
nhau và với 1 dung lượng hợp lý. Vì vậy mẫu phải có tính đại diện để suy
rộng thông tin thu được cho tổng thể.
Trong nghiên cứu này, đề tài chọn cách xác đinh dung lượng mẫu không lặp
lại theo công thức:
N. t
2.
.S
2
n =
N.d
2

+ t
2.
.S
2
Trong đó: n: Dung lượng mẫu cần chọn
N: Số hộ của xã điều tra
t: Hệ số ứng với mức tin cậy của kết quả
d: Sai số mẫu (cho trước d = 5% - 10%)
S
2
: Phương sai của tổng thể (cho trước S
2
= 0,25)
Kết quả tính số HGĐ cần phỏng vấn tại thôn là:
1. Thôn Hợp Bình: n = 30,8 Làm tròn n = 30
2. Thôn Hợp Thắng: n = 32,6 Làm tròn n = 30
3. Thôn Hợp Lợi: n =30,1 Làm tròn n = 30
Vậy tổng số HGĐ cần phỏng vấn là: 90 HGĐ.
d, Thu thập thông tin và số liệu hiện trường
Khóa luận sử dụng bộ công cụ PRA để thu thập số liệu hiện trường
- Phỏng vấn cá nhân (cán bộ ban quản lý Khu bảo tồn, cán bộ kiểm lâm, cán
bộ xã, ban quản lý thôn, tổ bảo vệ rừng ) bằng câu hỏi mở. Phỏng vấn hộ gia
đình bằng phiếu câu hỏi đã được chuẩn bị.
18
- Thảo luận nhóm: Nội dung thảo luận dựa trên khung thảo luận chuẩn bị
sẵn với số lượng từ 7 người hoặc hơn đảm bảo đầy đủ thành phần kinh tế hộ
trong thôn.
- Phân tích tổ chức, thể chế: Xác định các tổ chức trong cộng đồng, vai trò
của các tổ chức đó, các thể chế cộng đồng và sự ảnh hưởng của chúng tới việc
quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng.

19
CHƯƠNG III
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Vườn Quốc gia Vũ Quang nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hà Tĩnh, Cách Thủ đô
Hà nội 350 km về phía Nam. Phía Nam giáp Lào, Phía Đông giáp rừng phòng
hộ Sông Tiêm, phía Tây giáp Công ty dịch vụ Lâm nghiệp Hương Sơn, phía
Bắc giáp huyện Đức Thọ kẹp giữa 3 vùng thượng nguồn sông Ngàn Sâu,
Ngàn Phố và Ngàn Trươi
Vườn nằm trên toạ độ địa lý: 18
0
09
'
-18
0
27
'
Vĩ độ Bắc
105
0
16
'
-105
0
35
'
Kinh độ Đông
Độ cao so với mực nước biển 30 đến 2286 m

(Nguồn từ bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000 do tổng cục địa chính xuất
bản, thời gian lập bản đồ năm 2002). Vườn quốc gia Vũ Quang thuộc vùng
địa lý sinh vật Bắc Trường Sơn
Hình 3.1. Bản đồ quy hoạch phân khu Vườn quốc gia Vũ Quang – Hà Tĩnh
(Nguồn: Phòng KHKT – HTQT, VQG Vũ Quang năm 2012)
20
3.1.2. Đặc điểm địa hình
VQG Vũ Quang nằm trong một vùng núi thấp núi trung bình và một phần
núi cao, chênh cao địa hình từ 30-2286 m (đỉnh Rào Cỏ). Địa hình núi cao
vực sâu thung lũng hẹp, độ dốc lớn, độ chia cắt sâu và dày.
Địa hình đặc trưng bằng 3 kiểu sau:
- Kiểu địa hình núi diện tích 31.180ha chiếm 56,6% diện tích Vườn, phân
bố chạy dọc theo biên giới Việt Lào. Độ cao của địa hình núi từ 301-2000m
với nhiều đỉnh cao độ dốc 20-35
0
có nơi hơn 35
0
. Đây là kiểu đại hình đặc
trưng có ý nghĩa quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học.
- Kiểu địa hình đồi đai cao < 300m có diện tích 23.681ha chiếm 43% tổng
diện tích VQG độ dốc nhỏ hơn so với kiểu địa hình núi là từ 15-30
0
phân bố
chủ yếu ở phân khu phục hồi sinh thái, chủ yếu các khu vực tiếp giáp vùng
đệm. Thực vật ở kiểu địa hình này chứa nhiều tác động của con người, đặc
biệt từ năm 1986 trở về trước là khu vực dành riêng cho khai thác lâm sản.
Kiểu địa hình đồi có ý nghĩa trong việc phục hồi hệ sinh thái bản địa góp phần
bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học cho Vườn Quốc gia.
- Kiểu địa hình đồng bằng dốc tụ và thung lũng có diện tích rất ít 197ha
chiếm 0,4% toàn Vườn, phân bố theo dạng đồng bằng ở Hương Quang và

dạng thung lũng ở Hoà Hải, hiện đang được sử dụng canh tác nông nghiệp và
dân cư. Nhìn chung Vũ Quang có nhiều đỉnh núi cao hiểm trở, độ dốc lớn và
nhiều khe suối chia cắt địa hình VQG thành các lưu vực lòng chảo có sườn
nghiêng, bãi bằng dưới các đỉnh núi.
3.1.3. Khí hậu
- Lượng mưa trung bình hàng năm 2.304 mm tại đây có 2 mùa rõ rệt đó là
mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 12, mùa khô từ tháng 1
đến tháng 6.
- Nhiệt độ trung bình 23
0
C, nhiệt độ cao nhất 41,2
0
C vào tháng 7, nhiệt độ
thấp nhất 2,6
0
C vào tháng 1.
21

×