Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Hai đứa trẻ Thạch Lam . Và những dạng đề thường gặp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.79 KB, 13 trang )

Hai đứa trẻ
Thạch Lam

Khái quát
I.Tác giả:
1.Cuộc đời và con người:
- Thạch Lam<1910-1942>
- Xuất thân gia đình cơng chức gốc quan lại ở Hà Nội:
= > Chất thị dân + quý tộc – có điều kiện vươn tới tầm cao văn hóa hiện đại, sang trọng gắn bó với Hà
Nội 36 phố phường – tạo vẻ hào hoa thanh lịch cho con người và những trang văn của Thạch Lam.
- Quê ngoại thi nhân ở phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Đó là một phố huyện hẻo lánh với cái ga xép
đìu hiu đã ám ảnh tuổi thơ Thạch Lam,sau này đã trở thành không gian nghệ thuật quen thuộc trong các
sang tác của ơng.
- Tính cách : đơn hậu và tinh tế.
=>

Nặng lịng xót thương những kiếp người bé nhỏ.
Tâm hồn nhạy cảm và tinh vi nhất của thiên nhiên và con người.

- Số phận : Con người tài hoa mà bạc mệnh (mất năm 32 tuổi).Tuy nhiên, chỉ 6 năm cầm bút ngắn ngủi
nhưng để lại cho đời một văn nghiệp sống mãi với thời gian.
2.Văn nghiệp:
a) Quan niệm văn chương tiến bộ,lành mạnh:
- “Đối với tôi,văn chương không phải là một cách đem lại cho người đọc sự thốt ly hay sự qn;trái lại
văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới
giả giối và tàn ác,vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
=> Sứ mệnh của văn chương là nhân đạo hóa con người :
- “ Thiên chức của nhà văn cũng như những chuwacs vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tố để
trong đời có nhiều cơng băng,thương u hơn.”



=> Văn chương bênh vực cái thiện, khẳng định và ngợi ca cái thiện.
- “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ,len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường.Công
việc của nhà văn là phải phát hiện cái đẹp ở chính những chỗ ko ai ngờ tới,tìm cái đẹp kín đáo và che lấp
của sự vật, cho người khác một bài học về trơng nhìn và thưởng thức.”
b) Tác phẩm chính:
- Ba tập truyện ngắn : Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942)
- Một tiểu thuyết : Ngày mới (1939)
- Một tiểu luận : Theo dòng (1941)
- Một tập tùy bút : Hà Nội băng sáu phố phường (1943)
c) Đặc điểm truyện ngắn Thạch Lam:
- Thạch Lam có biệt tài về truyện ngắn.
- Truyện phi cốt truyện (truyện lẻ ko có cốt truyện),tức là chủ yếu khám phá nội tâm, nhất là những cảm
xúc mong manh, mơ hồ tạo những áng văn xuôi gợi cảm.
=> Thạch Lam là kiểu nghệ sĩ “nhà văn là tên mật thám của tâm hồn “ (Nguyễn Minh Châu).
- Giọng văn điềm đạm,nhẹ nhàng nhưng đầy những cảm xúc chân thành, nhạy cảm trước những biến
thái tinh vi của cảnh vật và lòng người.
II.Tác phẩm :
1.Xuất xứ :
- Rút từ tập “Nắng trong vườn” của thi nhân xuất bản năm 1938.
2. Đặc sắc nội dung nghệ thuật:
- ND : Qua bức tranh phố huyện nghèo,xót thương kiếp người nhỏ bé.Trân trọng những khát vọng mơ
hồ của họ về sự biến đổi đời.
- NT: Bút pháp tâm lý trữ tình => Chất thơ đặc biệt.

Hệ thống đề.
1. Phân tích bức tranh đời sống phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ” và phát biểu cảm nghĩ của
anh(chị).
2. Vì sao chị em Liên cố thức đợi chuyến tàu đi qua phố huyện?Thể hiện tâm trạng đợi tàu của hai đứa
trẻ,Thạch Lam muốn nói gì với người đọc?



3. Ý nghĩa hiện thực, lãng mạn và nhân đạo trong “hai đứa trẻ”.
4. Chất thơ trong truyện ngắn “hai đứa trẻ”
5.Ý nghĩa hình ảnh bong tối và hình ảnh đoàn tàu.
6. ”Hai đứa trẻ” là truyện ngắn xuất xắc tiêu biểu của Thạch Lam:
a) Phân tích tâm trạng của Liên và An.
b) Từ đó chỉ ra đóng góp mới của ngòi bút nhân đạo Thạch Lam trong giai đoạn văn học 1930-1945
c )Rút ra nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật trong tác phẩm.
7. Những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn “hai đứa trẻ”

ĐỀ 1 :
A. MB
• Giới thiệu : TG = TL
TP = HĐT
ĐT+ VĐPT = bức tranh phố huyện nghèo + tình cảm nhân đạo + chất thơ


VD:

Trong “ Tự lực văn đồn ”, văn Thạch Lam chảy một dòng riêng : điềm tĩnh,nhỏ nhẹ mà truyền cảm lạ
lung. ”Tự lực văn đoàn ”hướng về tầng lớp thượng lưu,riêng Thạc Lam cúi mình xuống những than phận
nhỏ bé,dưới đáy. Bức tranh đời sống phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ” rất tiêu biểu cho ngòi bút và
tấm long Thạch Lam : Hướng về cuộc đơi, hướng về chân - thiện - mỹ từ lăng kính của một chủ nghĩa
nhân đạo mới mẻ,sâu sắc với góc nhìn tâm linh và bút pháp độc đáo giàu chất thơ.
B. TB
I.
Tiền đề:
1.Xuất xứ:
- “Hai đứa trẻ” là thiên truyện xuất sắc của cây bút văn xuôi lãng mạn Thạch Lam rút từ tập truyện ngắn
“Nắng trong vườn “.

2.Bút pháp Thạch Lam:
- Điểm độc đáo làm nên phong cách nghệ thuật Thạch Lam là ở bút pháp tâm lý trữ tình độc đáo giàu
chất thơ.
Bút pháp Thạch Lam :
Khơng: - Sự kiện

Xoáy : - Rung động tâm hồn,khắc khoải.


- Xung đột gay gắt.
= > Truyện phi cốt truyện,thấm đẫm chất thơ của tâm hồn.
- Lối viết này đã đưa Thạch Lam vào dịng văn xi trữ tình thế giới với những tên tuổi nổi tiếng như
Stepan Xrai (áo) , Pautopxki(Nga) . . .
- Soi vào truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, ta thấy sự việc dường như vặt vãnh:một phố huyện xa khuất đìu
hiu-nơi có hai đứa trẻ thơ dại lặng ngắm phố huyện vào lúc chiều muộn và đang đợi tàu đến (đúng là
truyện - phi cốt truyện). Điều lạ là chỉ có thế mà cứ thấy tràn đầy khơng khí và tâm trạng làm thao thức
mãi người đọc-đấy là điều độc đáo bậc nhất ở ngòi bút Thạch Lam.
II.

Phân tích :
1. Nhận xét chung:

–Hình ảnh phố huyện đc đan dệt từ thiên nhiên và con người làm nổi bật ra nghich lý giữa một bức
tranh quê yên tĩnh và một bức tranh đời chẳng yên lòng - nghịch lý giữa cái thơ mộng và cái buồn
chán.Để tăng cường ấp lực tâm lý lên người đọc,Thạch Lam trao quyền phán xét đời sống phố huyện cho
hai đứa trẻ : An và Liên, nhất là Liên.
An và Liên :
Phố huyện:

trẻ

già

=> tàn tạ , buồn chán

-Đây là hai đứa trẻ trên một vũ trụ già,và sự lệch pha này gợi lên bao dư vị xót xa, thăm thẳm.
2.Bức tranh thiên nhiên miền quê yên tĩnh (cái thơ mộng).
- Phố huyện đc đặt trên nền thiên nhiên lúc chiều muộn đang đi dần về đêm,một thiên nhiên
đậm chất thơ và êm mượt như nhung.
- Thiên nhiên ấy ôm ấp một vũ trụ cao rộng mênh mông : bầu trời thăm thẳm sao, mặt đất lập lịe đom
đóm.
- Trong thời khắc chấp chới giữa chiều và đêm ấy,cái gì cũng mượt và nhẹ : chiều “êm ả như ru”,đêm
đến”một đêm mùa hạ như mơ và thoang thoảng gió mát”, những âm thanh phố huyện cũng mỏng và
nhẹ như ngọn gió quê : “ tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái văng vẳng ngồi đồng theo gió nhẹ đưa vào…..
gợi 1 thiên nhiên mn thuở, tính lặng mênh mơng. Cảm xúc người đọc dường như cũng tinh tế hơn để
lắng nghe nhịp thì thầm đời sống vần xoay trong cái tính lặng ấy.
- Câu văn của Thạch Lam cũng bị lây nhiễm cái nhạc điệu êm dịu hoang sơ ấy của thiên nhiên : “ Chiều,
chiều rồi…. “. Câu văn như thừa ra 1 chữ “ chiều “ , nếu xét ở góc độ thong tin bình thường. Nhưng đây
là thong tin thẩm mỹ, thông tin tâm trạng. Chữ “ chiều “ trong văn chương xưa nay khi kết hợp với
những thanh huyền thường là tín hiệu của nỗi buồn :
“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chin chiều “
< Ca dao >
- Bà Huyện Thanh Quan khi nhớ nhà :
“ Trời chiều bảng lảng bong hồng hơn “
< “ Chiều hôm nhớ nhà “ >


-

Trong câu văn của Thạch Lam, việc lặp đi lặp lại chứ “ chiều “ cộng hưởng với ba thanh huyền

chống xếp lên nhau vừa tăng cường độ tiết tấu cho câu văn. Vừa gợi trầm buồn dịu nhẹ lan tỏa
khắp không gian , nghe ngậm ngùi như tiếng thở dài trước bong chiều đang đổ xuống đời tàn.

Tiểu kết :
Bức tranh thiên nhiên phố huyện cũng là tấm long Thạch Lam xào xạc trên những trang văn, là
hơi thở quê hương, là cái hồn Việt bình dị thân thiết, nên thơ và rất đỗi Thạch Lam. Thiên nhiên Thạch
Lam mang tính lưỡng giá : vừa khơi gợi, vừa vỗ về người đọc nhưng cảm xúc bang khuâng dịu dàng lại
vừa đánh lạc hướng cảm xúc, khiến người đọc bị bẫy vào thế giới n lắng tưởng chẳng có gì để rồi bị sa
vào sợi tơ nhện của những day dứt đời song trước những mảnh đời người phố huyện lầm than.
3. Bức tranh đời sống chẳng yên lòng < cái buồn chán >
a) Một phố huyện lụi tàn :
-

Khác với Ngô Tất Tố, Nam Cao….. Thạch Lam không hướng tới hiện tượng áp bức và đáu tranh,
phố huyện được khai thác nhiều ở phía nghéo đói, vất vả mà được khắc sâu ở phía buồn chán –
sự nhàn tẻ , tối tăm, vô nghĩa, luẩn quẩn của đời sống và ngụp lặn trong đó là những kiếp người
cũng vơ nghĩa. Để miêu tả được một đời sống chân thực như thế, Thạch Lam tiếp tục “ bẫy “
người đọc vào những chuyện tưởng như chẳng có gì : Chất liệu miêu tả toàn điều vụn vặt < cuộc
sống uể oải của một huyện nhỏ heo hút > . Những buồn vui âm thầm của hai đứa trẻ mà chỉ cần
lơ đễnh người đọc cũng rất dễ lãng quên. Nhưng chính cái vụn vặt ấy lại chứa một ma lực nghệ
thuật : Đó là gây ấn tượng nghẹt thở khơng phải vì nghèo đói mà bởi cái buồn chán của những
kiếp người vô nghĩa, bế tắc . Cái nghèo là cái đói vật chất nhưng cái đói tinh thần lại là sự buồn
chán. Trước đây, văn học mới chú ý đến cái đói vật chất hay cái buồn chán tập thể < nỗi đau dân
nước, nỗi đau trời thế >. Giờ đây, văn học của ý thức cá nhân mới chạm tới cái buồn chán cá
nhân, tới nỗi đau riêng của cong người. Cái buồn chán cá nhân là đối tượng mới của văn học
1930 – 1945.

-

Cho nên, Thạch Lam đầy dụng ý khi đặt phố huyện vào một không gian đặc biệt : thời khắc của

ngày vàng chấp chới giữa chiều muộn và đêm tối. Không gian phố huyện diễn ra trong sự tranh
chấp giữa ánh sang và bong tối. Trong đó, bong tối lấn át ánh sáng, làm chủ phố huyện, được lặp
đi lặp lại nhiều lần như một ám ảnh, gợi một cảm quan xót xa về đời sống với ba đặc ắc :
+ Cách tả bong tối của Thạch Lam rất lạ : dường như bong tối không xuất phát tuwf thiên nhiên
mà đi ra từ mắt người : “ Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thước sơn đen, đôi mắt chị bong tối
ngập đày dần “ .
 Thạch Lam không phải người đầu tiên hay duy nhất viết về bong tối. Ngô Tất Tố đã có cả 1
cuốn tiểu thuyết viết về bong tối và bong tối ngập tràn ngay từ tiêu đề “ Tắt Đèn “. Có điều,
bóng tối trong “ Tắt Đèn “ là bóng tối vật lý, bong tối số phaanj, bong tối thân phận. Trong
cách miêu tả của Thạch Lam, bong tối có những nét mới : từ khơng gian vật lý, bong tối đột
nhập vào không gian tâm lý, vào vương quốc tâm hồn. Và cứ thế, bong tối buồn đau của tâm


hồn quyện xoắn với vóng tối u ám của thiên nhiên tạo ra một không gian tinh thần ngột ngạt
, bế tắc lối thốt. Bóng tối phố huyện đã được nội tâm hóa trở thành một linh hồn cay chat,
hiếm có trong văn học Việt Nam.
+ Từ mắt Liên , bong tối tỏa ra ngày càng đậm đặc : đậm về sắc < sẫm đen >, rộng về sức lan tỏa
< đầy bóng tối > xâm lấn dần mọi ngõ ngách, xóa nhịa dân mọi đường nét để đến cuối truyện thì “ đèn
ở trong phố tĩnh mịch và đầy bóng tối “ , tức là nhấn cả miền quê vào đêm đen khơng đáy. Ta có cảm
giác nhue Thạch Lam như một họa sĩ đầy nhiệt hứng đang phết từng nhát bút long sẫm đen lên phố
huyện khiến phố huyện cứ lún dần, ngập vào bong tôi. Phố huyện bỗng như căn - hầm - đời sống tối
tăm, chật chội, hun hút, ngột ngạt đến tắc thở. Cuộc sống trở thành một địa ngục trần gian.
+ Thạch Lam còn dùng ánh sáng tả bong tối : Giữa đêm đen, phố huyện vẫn lác đác sáng : sao
nhấp nháy trên trời, đom đóm nhấp nháy ngồi đồng, ánh lửa nhấp nhánh nơi gánh phở bác Siêu , ánh
điện bừng lên khi đoàn tàu lướt vội vã và lắng đọng nhất là ánh đèn leo lét nơi chõng nước chị Tí. Ngọn
đèn chị Tí được nhắc đền bảy lần : khi là “ hột sáng “ , lúc là “ giọt sáng “, “ đốm sáng “ ….. Ngọn đèn chị
Tí gây ám ảnh mạnh mẽ về sự đậm đặc của bong tối và những kiếp người nhỏ nhoi, tù mù như ngọn đèn
leo lét giữa biển đêm mênh mông của cuộc đời.
-


Bóng tối là cái nền u ám cho những kiếp người mờ mờ nhân ảnh. Tất cả đều chông chênh, lụi
tàn.
+ Chợ tàn là một thông báo về đời sống con người phố huyện với hình ảnh phế thải xác xơ của chợ
nghèo như vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn….. cùng mùi bốc lên từ cát bụi và rác rưởi : Đó là hính ảnh của chợ
tàn, đời tàn.
+ Những kiếp người tàn làm nên gương mặt âm u của phố huyện. Mỗi người một cách nhưng đều
giống nhau ở lam lũ mưu sinh, vật vã tồn tại : mấy đứa trẻ lom khom nhặt những thứ bỏ đi trên mặt chợ
tàn ; chị Tí , bác Siêu, chị em Liên khắc khoải bên gánh hàng ế khách, đặc biệt là hình ảnh cụ Thi – một bà
già hơi điên cùng tiếng cười như khóc, tắt dần trong ngõ vắng đã đưa ra một nét hoang dại vào bức
tranh phố huyện khiến bức tranh buồn nản đến rợn người.
+ Ngịi bút Thạch Lam vượt qua trình độ miêu tả bề ngoài để lắng vào hiện thực bên trong, tạo nên
những ẩn dụ, những biểu tượng sâu sắc về sự lụi tàn, như biểu tượng bong tối, bong người, ánh sáng,
đoàn tàu, nhịp sống. Một trong những biểu tượng thành cơng của Thạch Lam là biểu tượng bóng người
như khắc vào ấn tượng : “ Những bóng người đi trong đêm “ , “ từ ga, bóng đèn lẫn bóng người đi về “
….
 Biểu tượng bóng khiến con người nhạt nhòa, mong manh, tan vào hư ảo, con người cứ thấp
thoảng ẩn hiện câm lặng trên chiếc đèn kéo quân của đời sống – một trạng thái thảm hại nhất của tồn
tại. Một biểu tượng đặc sắc khác là nhịp sống. Ngày nào phố huyện cũng diễn ra những hình ảnh đó,
quen nhàn như đã có từ ngàn năm ; chị Tí lễ mễ dọn hàng , bác Siêu lặc lè gánh phở , chị em Liên uể oải
đếm phong thuốc lào và ngán ngẩm vì ế khách … Sự khám phá hiện tượng sâu sắc của Thạch Lam là
khám phá ra cái nhịp điệu cùn mòn, nhạt nhào, ngưng tắc đến hóa thạch của phố huyện – một thứ nhịp
điệu đủ khái quát sự vô nghĩa lún sâu vào sự mịn gỉ khơng đổi thay , dìm chết mọi niềm vui, hy vọng.
Đời sống phố huyện được cảm nhận như một trống rỗng. Chính sự buồn chán dẫn cuộc sống đến trạng
thái trống rỗng. Và trống rỗng là đỉnh điểm của nhàm chán và buồn chán. Xuân Diệu từng gọi là “ Ao đời
phẳng lặng “, Huy Cận thì buột ra tiếng thở dài :
“ Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới nay lui vẫn chừng ấy mặt người “


< “ Quẩn quanh “ >

Đó là trạng thái chung dưới chế độ thực dân phong kiến. Khác với Vũ Trọng Phụng luôn mở không
gian nghệ thuật ra không gian rộng lớn < thế giới của những quảng trường , những đám đơng, thế giới
của đơ thị hóa đang diễn ra màn kịch tư sản cuối mùa > . Thạch Lam là nhà văn của những không gian
nhỏ hẹp, những vùng đất bị lãng quên của tỉnh lẻ < phố huyện, ga xép…. >, đó là những mảnh tù khơng
gian cầm tù con người. Đời sống bị rữa nát trong không gian tù đọng và vô đọng.
b) Một giấc mơ vội tắt :
-

-

III.

Điều lạ là dù lấn sâu vào đêm, mơ ước của con người vẫn cứ lóe ra. Nói đúng hơn, chính nhịp
điệu mịn chán của phố huyện đã tạo ra một nhu cầu tinh thần bức thiết bên trong tâm trạng
đợi tàu của chị em Liên. Con tàu là biểu tượng cho một thế giới mới lạ mà Liên gọi là “ một chút
thế giới khác đi qua “ – một thế giời đầy âm thanh, ánh sáng và sự trang trọng. Đó là thế giới của
mơ ước, khát vọng. Khát vọng đợi tàu của chị em Liên là đốm sáng kỳ diệu của tâm hồn con
người. Con người khổ đau nhưng không chịu lụi tắt đi, bị chìm nghỉm trong ao tù của đời sống.
Nhưng mơ ước của con người sao vẫn quá nhỏ nhoi, tội nghiệp : “ Chừng ấy người trong bóng
tối, mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ “. “ Một cái gì “ nghe
thật mơ hồ, xa xăm. Chuyến tàu đi ngang qua phố huyện cũng chỉ vụt lé như chùm sao băng rồi
bị bóng đêm nuốt chửng. Khát vọng cứ mong manh như ao vọng dù thật thiết tha, cảm động.
Cảm nhận về tác phẩm :
1. Bút phát tâm lý trữ tình :

Bút pháp tâm lý trữ tình lắng đọng trong người đọc một chất thơ lặng lẽ mà đắm sâu. Chon cõi
tâm linh í ẩn của cong người làm đích khám phá, ngịi bút Thạch Lam tả ít, gợi nhiều ; chữ đã hết mà dư
âm khơng sứt. Có một cái gì đó cứ xao xcas, tha thiết mãi….
2. Tư tưởng nhân đạo :
Thiên truện là một khắc khoải đầy nhân ái Thạch Lam dành cho con người. Câu chuyện về bóng tối

phố huyện và ánh sáng đoàn tàu là câu chuyện về kiếp người với những bế tắc và khát vọng muôn thuở,
giữa hai điều ấy ấm áp một tấm long Thạch Lam : thương cảm cho những kiếp người bị chon chặt trong
bóng tối vơ nghĩa, vơ danh, nâng niu trân trọng những điều tốt đẹp ở họ , thức tỉnh khát vọng vươn tới
một cuốc sống tốt hơn. Đó là tư tưởng nhân đạo mới mẻ chưa từng có trong văn học trung đại được nảy
sinh trên cơ sở thức tỉnh sâu sắc của ý thức cá nhân, khát khao sựt ồn tại thực sự của ý thức, đời sống cá
nhân,
C. KB
Lúc gần chết , Thạch Lam bảo chị : “ đẩy em lên cao tí để em nhìn thấy cây liễu “ . Con người ấy, đến
phút cuối đời vẫn khao khát cái đẹp, khao khát sứ ống. Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ “ ra đời từ niềm khao
khát ấy. Chị em Liên khao khát. Người dân phố huyện khao khát. Và ắt hản cũng là khao khát của Thạch
Lam. Con người ln có nhu cầu vươn lên khỏi bùn đất dưới chân mình. Tác phẩm là một thiên truyện
khích lệ con người đi tìm cái đẹp, đi tìm sự sống như thế !


ĐỀ 2:
A. MB
Chi tiết chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua phố huyện wor cuối tác phẩm là đốm
sáng đặc biệt của truyện ngắn “ Hai đứa trẻ “ < Thạch Lam >. Không chỉ là chuyến tàu đêm mà còn là
chuyến - tàu – mơ – ước khơng chỉ có chị em Liên khát đợi. Đốm sáng ấy lay thức người đọc và làm phát
sáng mỗi giá trị của một đoản thiên, giá trị tấm long nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam.
I.

B. TB
Tiền đề, phân tích :
1. Xuất xứ :
- Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ “ rút từ tập “ Nắng trong vườn “ < 1938 > .
2. Điểm đặc sắc của bút pháp Thạch Lam :
- Bút pháp tâm lý trữ tình :
+ Đấy là bút pháp khơng nặng về miêu tả sự việc, xung đột mà dồn sức ặng vào việc miêu tả tâm lý
tinh tế nhằm khám phá nội tâm bí ẩn con người.

+ Soi vào đoạn kết “ Hai đứa trẻ “ ta thấy sự kiện chuyến tàu đêm của phố huyện chỉ là cái cớ cho
Thạch Lam khám phá chiều sâu tâm trạng chị em Liên, lần tới đáy sâu nhất của khát vọng đổi thay ở
hai đứa trẻ thơ ngây và cũng là khát vọng đổi đời âm thầm của người dân phố huyện.
+ Cũng khám phá tâm lý nhưng ngòi bút Nam Cao ham cắt nghĩa triết lý, còn ngòi bút Thạch Lam lại
chỉ mê say trình bày những cảm giác, cảm xúc.

-

Vì vậy, để lý giải tâm trạng đợi tàu của chị em Liên, ta phải đặt nhân vật vào toàn bộ tác phẩm ,
vào bối cảnh sống của nó trên nền của một kết cấu không gian với hai mảng lớn ánh sáng và
bóng tối, quan hệ giữa chúng là phi đối xứng < bóng tối lấn lướt , áp đặt ánh sáng. >
+ Trùm lên tác phẩm là hình ảnh bóng tối – bóng tối trời, bóng tối những cuộc đời, bóng tối của
những buồn chán sớm len vào tâm hồn thơ dại của Liên. Khơng phải buồn vì nghèo đói mà buồn
vì cuộc sống phố huyện buồn q : quẩn quanh, tàn lụi, vô nghĩa…. Từ thiên nhiên đến số phận
con người có một cái gì đó mịn mỏi , tù mù như ngọn đèn chị Tí giưa màn đêm mênh mông. ,
mịt mù của cuộc đời.


+ Ánh sáng : Cả thiên truyện chỉ có 2876 chữ, chỉ có vẹn vẹn khoảng 100 chữ tả ánh sáng đồn
tàu. Chỉ riêng điều ấy thơi cũng đủ thấy áp lực của bóng tối với ánh sáng. Kết cấu phi đối xứng
này tự nó rất giàu ý nghĩa, thấm thía một dư vị xót xa, thăm thẳm….
II.

Vì sao chị em Liên khao khát đợi tàu?
Chính bóng tối là sự giải thích ánh sáng, cuộc đời tối tăm, nhàm chán nơi phố huyện chính là
sự tích tụ, dồn nén khát vọng đợi tàu. Tuy nhiên, để cắt nghĩa lý do đợi tàu của “ hai đứa trẻ “
một cách toàn diện ta cần thấy một chuỗi nguyên nhân : vâng lời mẹ dặn, nhu cầu hoài niệm
quá khứ đẹp, khát vọng đổi thay.
1. Trước hết , chị em Liên đợi tàu là do vâng lời mẹ dặn :
-


Mẹ bào chị em Liên : “ Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu đến – đường sắt khi đi ngang qua
trước mắt phố - để bán hàng, may ra cịn có vài người mua “. Sống trong lam lũ vất vả từ thuở
còn thơ nên hai chị em Liên rất ngoan ngoãn, thương cha mẹ, chăm chỉ cần cù làm việc.
2. Sâu sa hơn, chuyện đợi tàu còn do nhu cầu hoài niệm quá khứ đẹp tươi :

-

Ngày xưa, khi bố Liên chưa mất việc, gia đình Liên sống ở Hà Nội , cuốc sống khá đầy đủ với
những kỷ niệm vui. Bây giờ, Hà Nội đã là cái ngày xưa chỉ còn hiện lên trong ký ức với những cốc
nước lạnh xanh đỏ. Bây giờ, đồn tàu trong cái nhìn của chị em Liên là Hà Nội, một Hà Nội huyên
náo, vui vẻ đầy ánh sáng và là vầng hào quang quá khứ được hiện hữu nhưỡng tiền. Hai đứa trẻ
đón đồn tàu chứ khơng phải đón người than , khơng hẳn là đón khách hàng vì rất ít người mua
vào lúc ấy. Nói cách khác, chị em Liên đón cái khơng khí ngày hội ở đồn tàu để được “ nhúng “
mình vào ánh sáng, vào sự đơng vui, để được sống lại cùng kỷ niệm.
3. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là khát vọng đổi thay :
Đó là nhu cầu tinh thần sâu sa và cảm động. Khát vọng đổi thay có hai mức độ.

-

Trước hết, đó là một dồn nén tâm linh : Bởi lẽ cuộc sống mòn mỏi nơi phố huyện đã đánh thức
khát vọng phá bỏ nó – một khát vọng mơ hồ trong cõi vô thức của hai tâm hồn thơ dại nhưng
đầy mãnh liệt và cảm động.Hãy nghe lời dặn chị của bé An : “ Tàu đến chị hãy đánh thức em dậy
nhé! “. Chỉ với một câu nói bình dị cũng đủ thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm biết
nhường nào. Tam trạng ấy khiến giây phút đón tàu đêm trở thành thời khắc thiêng liêng, trang
trọng như thời khắc đêm giao thừa.

-

Khát vọng phá bỏ dồn thành khát vọng vượt thoát , khát vọng đổi thay , khát vọng kiếm tìm.

Cuốc kiếm tìm hướng vào một chuyến tàu đêm. Đây là chuyến tàu khác thường , nó đồng nghĩa
với một thế giới mới lạ trong cái cảm nhận của chị em Liên : con tàu như đem một chút thế giới
khác đi qua , một thế giới khác hẳn đối với Liên , khác hẳn vầng sáng ngọc đèn chị Tí và gánh phở
bác Siêu, đồn tàu đã trở thành một biểu tượng mới : Đó là thế giới ánh sáng, thế giới của cái
đẹp và niềm vui , thế giới của sự mới mẻ nhắm thày thế cái thế giới già nua , cũ mèm, mòn mục
nơi phố huyện lụi tàn. Dưới ngòi bút của Thạch Lam, đoàn tàu đã trở thành điểm vịn của mơ
ước đưa chị em Liên từ miền – đất – chết sang miền – đất – mới.


III.

Thông điệp của Thạch Lam qua câu chuyện đợi tàu :
Hình ảnh đồn tàu như tia chớp rạch ngang trời đêm, rạch ngang cuộc đời âm thầm của người
dân phố huyện, trở thành đốm sáng tư tưởng đặc biệt của tác phẩm , thấm nhuần chủ nghĩa nhân
đạo mới mẻ, sâu sắc.
1. Trước hết, nhà văn muốn bày tỏ long thương xót vơ hạn những kiếp người buồn chán trong
cuộc sống vô nghĩa xô danh không bao giờ được biết tới ánh sáng và hạnh phúc, đến mơ ước
cũng không dám mơ ước gì hơn một chuyến tàu đêm vượt qua phố huyện lụi tàn.
2. Thiên truyện cịn có ý nghĩa thức tỉnh :
- Mượn ánh sáng đoàn tàu, Thạch Lam muốn thắp lên ở những tâm hồn uer oải , chán sống ngọn
lửa của lòng khát sống , một cuộc sống có ý nghĩa hơn, thốt khỏi cuộc đời tối tăm chôn vùi họ.
Tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam mang màu sắc tích cực hơn.
 Đây là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ chưa từng có trong văn học trung đại được xây dựng
trên cơ sở sâu sắc về ý thức cá nhân, khao khát sự tồn tại có ý nghĩa của mọi cá nhân, khao
khát sống sâu sắc, đầy đủ cuốc sống của bản than mình. Chủ đề này có thể tóm tắt cơ đọng
trong hai câu thơ của Xuân Diệu :
“ Thà một phút huy hồng rồi chợt tắt
Cịn hơn buồn le lói suốt trăm năm “.

C. KB

Câu chuyện đợi tàu trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ “ của Thạch Lam là cao trào tư tưởng , điểm
sáng rực rỡ của cả tác phẩm . Những buồn vui của chị em Liên cũng là những buồn vui chung của những
người dân vong quốc từ trước cách mạng tháng tám. Dù ánh sáng Thạch Lam thắp lên nới phố huyện
còn mơ hồ nhưng ngọc lửa nhân ái của tấm long ông mãi mãi vẫn truyền hơi ấm sang trái tim người đọc
nhiều thế hệ.

ĐỀ 3 :
1. Ý nghĩa hiện thực :
-

Đó là hiện tượng tâm linh. Thạch Lam không hướng tới những sự kiện, xung đột gay gắt của đời
sống mà xoáy vào thể hiện cái buồn chán của những người bị chon chặt trong bóng tối vơ nghĩa
vơ danh qua bức tranh phố huyện hẻo lánh , đìu hiu, lụi tàn.

- Hai nội dung hiện thực trong “ Hai đứa trẻ “ :
+ Miêu tả bức tranh thiên nhiên phố huyện yên tĩnh giàu chất thơ :
+ Tương phản với bức tranh thiên nhiên thơ mộng là bức tranh đời sống con người chẳng yên lòng.
+) Con người được đặt trong bối cảnh đầy ắp bóng tối.
+) Hình ảnh người tàn , chợ tàn, giấc mơ tàn.
-

Ý nghĩa khái quát của bức tranh hiện thực trong “ Hai đứa trẻ “ : phản ánh mơi trường tù đọng
trong xã hội cũ, bóp chặt mọi niềm vui, khát vọng con người.

2. Ý nghĩa lãng mạn :


-

Khái niệm : Trong văn chương, cảm hứng lãng mạn thể hiện ở năng lực khám phá nội tâm ở việc

miêu tả thiên nhiên mơ mộng , niềm say mê, tình u tơn giáo, khát vọng và ước mơ bay bổng
qua một lối văn giàu sức gợi.
Biểu hiện của lãng mạn :
+ Khám phá nội tâm : Rung động tinh vi : sà tích , ẩm mốc , mùi đất.
+ Khám phá thiên nhiên mơ mộng. < đề 1 >
Chất lãng mạn trong giọng văn nhỏ nhẹ , điềm tĩnh, lắng đọng, gợi cảm tạo nên sự hấp dẫn về sự
mới mẻ và vẻ đẹp trong tâm hồn, trong thiên nhiên thi vị.

3. Ý nghĩa nhân đạo :
a. Biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong “ Hai đứa trẻ “ :
Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, sâu sắc chưa từng có trong văn học hiện đại :
- Xót thương những kiếp người buồn chán bị chon vùi trong bóng tối vô nghĩa vô danh.
+ Đêm tàn
+ Chợ tàn
+ Người tàn
+ Ước mơ tàn
- Thạch Lam gián tiếp phê phán xã hội cũ tạo ra môi trường tù đọng cho những kiếp người “ mốc “
lên , mòn đi.
-

Trân trọng những tình cảm , khát vọng tốt đẹp của con người, không chịu bị vùi lấp đi trong cuộc
sống tối tăm vô nghĩa. Liên là đốm sáng đặc biệt của “ Hai đứa trẻ “ .
+ Hiếu thảo : con bé đã lo gánh vác việc gia đình.
+ Thương người :
+) Cái nhìn thương cảm những đứa trẻ trên mặt chợ.
+) Rót đầy rượu cho bà cụ Thi.
+ Nhạy cảm tâm hồn : +) Rung động tinh vi < mùi đất, sà tích >
+) Rung động cực điểm < tâm trạng đợi tàu >
+) Khát vọng đổi thay < tàu = thế giới mới >


-

Thức tỉnh lòng khát sống ở những tâm hồn uể oải, chán sống.
+ Người dân phố huyện : “ mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày
của họ “.
+ Ánh sáng đoàn tàu chỉ vụt qua phố huyện như một vệt sao băng nhưng đủ lay động tâm hồn
con người hướng tới một cái gì khác hơn, mới hơn cái cuộc sống ao tù hàng ngày của họ.
Giọng văn Thạch Lam nhỏ nhẹ , đằm sâu gợi lên bao thương cảm đối với cuộc sống cong người
phố huyện.

-

b. Đánh giá :
-

Thành công : Đây là tư tưởng nhân đạo mới mẻ , sâu sắc nảy sinh trên cơ sở thức tỉnh của ý thức
cá nhân chưa từng có trong văn học trung đại.
Hạn chế : do điều kiện xã hội Việt Nam trước Cách Mạng Tháng Tám và do tầm nhìn hạn chế của
một nhà văn tiểu tư sản khơng cho phép Thạch Lam có một cái nhìn tươi sáng hơn về con người
như Hồ Chí Minh, Tố Hữu….

ĐỀ 6 :
A. Giới thiệu chung.


-

“ Hai đứa trẻ “ là truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam rút ra từ tập “ Nắng trong vườn “ xuất bản
năm 1938.
Tác phẩm làm nổi lên tâm trạng của Liên và An trước cuộc sống lụi tàn của phố huyện từ chiều

muộn về đêm tối bộc lộ tư tưởng nhân đạo mới mẻ , sâu sắc và tài năng miêu tả tâm lý nhân vật
của ông.
B. TRả lời câu hỏi a -> c .
a. Phân tích tâm trạng Liên và An :

-

Tâm trạng bao trùm : nỗi buồn chán .

-

Diễn biến tâm trạng theo ba chặng thời gian gắn với ba trạng thái không gian :
+ Lúc chiều tối : buồn man mác trước cảnh mặt trời lặn và cảnh chợ tàn; thương cảm cho những
đứa trẻ nghèo nhặt nhạnh trên mặt chợ.
+ Lúc đêm tối : buồn trước bóng đêm phố huyện và những kiếp người nhỏ nhoi < chị Tí, bác Sẩm
, bác Siêu, cụ Thi > , tiếc nuối quá khứ Hà Nội tươi đẹp.
+ Cảnh đợi tàu < hồi hộp đợi tàu….> thể hiện khát vọng đổi thay.
+ Lúc tàu qua : mơ hồ trước một cái gì xa xơi.
b. Đóng góp mới mẻ của ngời bút Thạch Lam giai đoạn 1930 – 1945 :

-

Mới ở chỗ đối tượng miêu tả : nỗi buồn chán của những kiếp người nhỏ bé, tội nghiệp trong môi
trường sống tù đọng.
Mới ở cảm xúc : thương cảm những kiếp người vô nghĩa vô danh.
Thức tỉnh khát vọng sống, khát vọng đổi thay.
Cội nguồn của tư tưởng mới mẻ này là sự thức tỉnh sâu sắc của ý thức cá nhân – điều chưa từng
có trong văn học truyền thống.
c. Nhận xét về nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật của Thạch Lam :


-

Bút pháp tâm lý trữ tình.
Nhờ đó Thạch Lam khám phá được những rung động tinh vi trong tâm hồn Liên :
+ Gặp mùi ẩm mốc của cát bụt , nhận ra mùi riêng của đất, của quê hương.
+ Chạm vào sà tích, thức tỉnh trong Liên thiên chức phụ nữ tay hòm chìa khóa.
Khám phá được những rung động mãnh liệt cùng những giấc mơ chập chowfnt rong Liên khi tàu
đến, tàu đi….
Từng chi tiết, cảnh vật đều góp phần thể hiện thế giới tâm trạng nhân vật qua bút pháp tả cảnh
ngụ tình.

ĐỀ 7 :
1. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm :
-

Giới thiệu : TG + TP + tài năng viết truyện của Thạch Lam.
Đặc sắc nghệ thuật bao trùm truyện ngắn “ Hai đứa trẻ “ là ở bút pháp tâm lý trữ tình của cây
bút văn xi lãng mạn tạo ra một lối viết đặc biệt.


+ Tạo ra loại truyện khơng có cốt truyện, mỗi truyện như một bài thơ văn xuôi.
 Soi vào tác phẩm , cốt truyện dường như khơng có gì đáng kể, chỉ thấy hai đứa trẻ thơ dại
lặng ngắm phố nghèo và thức đợi tàu đêm. Chỉ có thế mà tràn đầy khơng khí và tâm trạng
làm người đọc thao thức mãi.
+ Bút pháp Thạch Lam không chú trọng sự kiện , xung đột bên ngồi mà xốy sâu và nôi tâm
bên trong, vào những khoảnh khắc tâm hồn hoặc mãnh lietj, hoặc mong manh < Liên : sà tích,
đợi tàu >.
+ Thạch Lam sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản , đối lập tả cảnh ngụ tình , xây
dựng những ẩn dụ mang tính biểu tượng sâu sắc < tương phản bóng tối và ánh sáng , ánh sáng
là tù mù của ngọn đèn chị Tí và ánh sáng rực rỡ xuyên thủng màn đêm của đoàn tàu > tả thiên

nhiên mà man mác hồn người ; bóng tối biểu tượng cho cuộc đời tăm tối ; bế tắc ; ánh sáng
ngọn đèn chị Tí biểu tượng cho kiếp người nhỏ nhoi ngụp lặn trong đêm đen của đời sống ; ánh
sáng đoàn tàu là khát vọng đổi thay.
-

Gióng văn Thạch Lam nhỏ nhẹ , điềm tĩnh , lắng sâu, đa cảm và giàu chất thơ. Người đọc thấy ẩn
hiện kín đáo sau mấy dịng chữ là tâm hồn Thạch Lam lặng lẽ mà đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy
cảm với thiên nhiên của tạo vật và lòng người.
 Thạch Lam xứng đáng là cây bút lãng mạn tài hoa của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945.
2. Vẻ đẹp chất thơ trong “ Hai đứa trẻ “ :

-

Giới thiệu : TG + TP + chất thơ.
Khái niệm chất thơ : Là sự tổng hòa vẻ đẹp từ nội dung đến hình thức, với sự dạt dào của cảm
xúc tinh tế mãnh liệt , những bức tranh thiên nhiên thơ mộng, trí tưởng tượng bay bổng và ngôn
ngữ giàu nhạc điệu , dư ba. Những đặc tính của thơ khi di chuyển vào văn xi tạo nên những
trang thơ - văn xuôi dắc sắc.

-

Biểu hiện :
+ Chất thơ xuất phát từ bút pháp tâm lý trữ tình của Thạch Lam < nêu đặc điểm >.
+ Sự khám phá nội tâm tinh tế của con người.
+ Miêu tả bức tranh thiên nhiên gợi cảm đầy chất thơ.
+ Giọng văn nhẹ nhàng , truyền cảm, giàu nhạc điệu , xao xuyến mãi trong lòng người< “Chiều ,
chiều , chiều rồi “> .
 Tóm lại, chất thơ trong tác phẩm tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo của Thạch Lam ,
đó là sự kết hợp chân – thiện – mỹ , là chất thơ của tấm lòng nhân đạo Thạch Lam dành cho

con người.



×