Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tên đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: KINH NGHIỆM TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.25 KB, 35 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT XUÂN THỌ
v v v
Mã số:……………………
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
Nười thực hiện Ñoaøn Ñình Thuaán
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục: 
- Phương pháp dạy học bộ môn: Văn x
- Lĩnh vực khác:…………………… 
Có đính kèm:
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học: 2014 -2015
1
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: ĐOÀN ĐÌNH THUẤN
2 Ngày tháng năm sinh: 06 - 03 - 1966.
3. Nam
4. Địa chỉ: ấp Việt Kiều, xã Xuân Hiệp, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại: 0168 47 57 402
6. Fax: Email:
7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn tổ Văn
8. Nhiệm vụ được giao :
- Đoàn thể : Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ THPT Xuân Thọ ;
- Cán bộ thường trực phụ trách Khuyến học
- Dạy lớp 12A2-12a10 ; 10B2-10B5
9. Đơn vị công tác : Trường THPT Xuân Thọ
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp ĐHSP TP.Hồ Chí Minh
- Năm nhận bằng : 1992


- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ Văn
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Nghiên cứu khoa học về tư duy
- Số năm có kinh nghiệm: 22
- Các sáng kiến kinh nghiệm 5 năm gần đây:
1 . Chuyên luận khoa học:
TƯ DUY HÀM SỐ VÀ CHUỖI GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TOÀN CẦU- Bản quyền
khoa học số 2331/2006QTG do Cục bản quyền quốc gia cấp ngày23-10-2006.
2. Chuyên luận khoa học:
Sơ thảo LỊCH SỬ ĐẤT PHƯƠNG NAM- Bản quyền khoa học số
2331/2006QTG do Cục bản quyền quốc gia cấp ngày23-10-2006.
3. Phát minh tri thức khoa học mới:
Thế kỷ 21- QUYỀN NĂNG BÀN TAY HÀM SỐ VÀ CHUỖI GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TOÀN CẦU Bản quyền khoa học số 3062/2007QTG do Cục bản
quyền quốc gia cấp ngày18-12-2007.
4. HỌC SINH HỌC VĂN BẰNG SƠ ĐỒ TƯ DUY – SKKN –năm học 2009 – 2010.
5. HƯỚNG DẪN HỌC SINH SOẠN VĂN sáng kiến kinh nghiệm –năm học 2010 –
2011.
6. MỘT VÀI ĐIỂM GIAO THOA VĂN HÓA GIỮA ĐƯỜNG THI VỚI CHINH
PHỤ NGÂM VÀ TRUYỆN KIỀU sáng kiến kinh nghiệm –năm học 2011– 2012
7. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG – BAN CÔNG TÁC THANH NIÊN Ở MÔ HÌNH
TRƯỜNG TTRUNG HỌC PHỔ THÔNG- đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng năm 2012-2013 – Đoàn Đình Thuấn
8. HƯỚNG DÂN HỌC SINH SOẠN VĂN BẰNG SƠ ĐỒ TƯ DUY - đề tài nghiên
cứu khoa học sư phạm ứng dụng năm 2013-2014
2
MỤC LỤC
( cấu trúc này viết theo tài liệu tập huấn NGHIÊN CƯU KHOA HỌC SƯ PHẠM
ỨNG DỤNG- Bộ Giáo Dục- Cục nhà giáo và quả lý cơ sở giáo dục- NXB Đại Học
Quốc Gia Hà Nội –tr70 – Sở Giáo dục Đào tạo Đồng Nai đã tập huấn)

A. Tóm tắt Trang 3
B. Giới thiệu Trang 4
1. Hiện trạng Trang 4
2. Mô tả vấn đề
a.Thực trạng học thuộc lòng văn mẫu Trang 4
b. Thực trạng học thuộc dàn ý mẫu Trang 7
c. Trực trạng theo cấu trúc đề thi mới của Bộ Giá dục Trang 10
3. Liệt kê nguyên nhân gây ra vấn đề Trang 15
4. Giải pháp thay thế Trang 15
5. Vấn đề nghiên cứu Trang 19
6. Giả thiết nghiên cứu Trang 20
C. Phương pháp Trang 20
1. Khách thể nghiên cứu Trang 20
2. Thiết kế nghiên cứu Trang 20
3. Đo lường và thu thập dữ liệu Trang 25
4. Phân tích dữ liệu và bàn luận kết quả Trang 25
5. Bàn luận Trang 26
6. Kết luận và khuyến nghị Trang 26
7. Tài liệu tham khảo Trang 26
8. Phụ lục Trang 27
- Bảng điểm kiểm tra trước tác động của 02 nhóm. Trang 27
- Bảng điểm kiểm tra sau tác động của 02 nhóm. Trang 28
- THAM KHẢO CÁCH RA ĐỀ THEO CẤU TRÚC MỚI Trang 29
CỦA MÔN NGỮ VĂN – SỞ GIÁO DỤC ĐỒNG NAI- 2015
9. Phiếu nhận xét đánh giá Trang 33
3
Tên đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng:
KINH NGHIỆM TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN
A.TÓM TẮT
Sách giáo khoa và cả sách hướng dẫn dành riêng cho giáo viên viết rất sơ sài về tiết

TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN, thậm chí bố cục bài cũng không thống nhất .
Nhiều giáo viên trẻ rất khó khăn khi dạy dạng bài này mỗi người dạy một kiểu học
sinh rối, giáo viên cũng rối. Thực trạng dạy thêm học thêm là có thật, khiến tiết dạy
càng khó và ít nhiều méo mó.
Muốn học sinh làm bài viết Tập làm văn tốt, trước tiên học sinh phải biết
những lỗi sai của mình để rút kinh nghiệm làm bài viết lần sau. Quá trình tư duy
sáng tạo chứ không đơn thuần là học sinh nhận lại bài làm, biết mấy điểm.
Là một giáo viên dạy văn, tôi trăn trở mãi về vấn đề này. Học sinh viết văn
chưa hay là điều có thật. Với tư cách là tổ trưởng chuyên môn tôi luôn trăn trở về vấn
đề này. Trong sinh hoạt tổ chuyên môn luôn thảo luận nhiều về dạng bài này.
Từ năm 2011 tổ văn trường THPT Xuân Thọ đã đưa vấn đề này ra thảo luận dưới
dạng một chuyên đề. Mỗi năm vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
Năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục lại thay đổi cách thi tốt nghiệp và thi tuyển
vào Đại học, cách ra đề “hai trong một” có cấu trúc đề rất khác với kỳ thi năm 2013-
2014. Chính vì vậy việc ôn tập cho các em làm quen với dạng đề tổng hợp càng khó.
Chú trọng nhiều đến kiểm tra năng lực của học sinh. Lại có nhiều vần đề nằm ngoài
chuẩn KIẾN THỨC –KỸ NĂNG nên cáng khó và lúng túng.
Mọi vấn đề sáng tạo dều bắt đầu từ tư duy. Học sinh làm bài viết là quá trình tư
duy để tạo lập văn bản. Sau đó giáo viên chấm bài và trả bài viết lại cho học trò, giúp
các em sửa các lỗi sai để lần sau làm bài tốt hơn.
Thật ra đây lại là một QUI TRÌNH từ khâu ra đề làm bài chấm bài sửa
bài luyện tập viết lại đoạn sai rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau.
Khâu ra đề của giáo viên là rất quan trọng, ra được đề hay phù hợp với xu hướng
chung của Bộ là rất khó. Vì năm học 2014-2015 mới thực hiện lần đầu nên cả giáo
viên và học sinh đều lúng túng, dư luận xã hội cũng đang lo.
Khâu xem học sinh làm bài cũng phải được giám sát kỹ, vì hiện nay nhiều học sinh có
máy điện thoại lén lên mạng Internet tra cứu ghi vào bài làm.
Khâu chấm bài cũng rất quan trọng, phải sửa từng lỗi sai cho các em là tốn nhiều thời
gian. Một số giáo viên có dạy thêm khi chấm bài của học trò phát ra dù như thế
nào vẫn gặp nhiều ánh mắt không vừa lòng của các em không có điều kiện học thêm.

Khâu sửa bài là khâu rất quan trọng là NỘI DUNG CHÍNH của nghiên cứu khoa học
sư phạm ứng dụng này, tìm ra chuẩn chung khi soạn soạn giảng tiết TRẢ BÀI VIẾT
TẬP LÀM VĂN.
Mục tiêu cần đạt của QUI TRÌNH làm bài viết- trả bài viết là rèn các tính tư duy
sáng tạo cho học sinh và người thầy cô giáo vừa là người đồng hành trong quá trình
sáng tạo ấy.
Chính vì vậy tôi viết về vấn đề này dưới góc độ nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng , có lồng ghép một phần nội dung trong sinh hoạt tổ chuyên môn.
4
Vấn đề rất khó mà khả năng có hạn xin các bạn đồng nghiệp góp ý thêm.
Đề tài này giúp cho giáo viên soại giảng tiết TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN tốt
hơn, lại vừa tập cho học sinh tự học – tự đào tạo khi làm bài và cả sau khi nhận bài
viết đã chấm của giáo viên. Một cách học tập làm văn tạo nên sự hứng thú dây
chuyền (khả năng lan toả) đi từ tư duy tình huống đến tư duy hệ thống TẠO VĂN
BẢN …bài viết tập làm văn.
Đề tài này tập trung vào phân môn Tập làm văn lớp 12…vì gấp rút dạy và học
để thi tốt nghiệp và thi tuyển Đại học trong năm học 2014-2015, nên các ví dụ
mẫu tập trung vào môn Ngữ văn lớp 12.
B. GIỚI THIỆU
1. Hiện trạng
Từ năm học 2006 -> 2008 các bộ sách giáo khoa mới môn Ngữ văn lớp 10 –
11 - 12 được chính thức đưa vào giảng dạy. Đây là các bộ sách giáo khoa được biên
soạn theo quan điểm hiện đại, tuy nhiên trong phần phân môn TẬP LÀM VĂN, nhất
là dạng bài các tiết BÀI VIẾT –TRẢ BÀI VIẾT, lại viết khá sơ sài, thiếu nhất quán.
Đây là đề tài xuất phát từ yêu cầu thực tiễn.
Năm học 2014-2015 Bộ Giáo dục lại đổi mới cách ra ra đề thi Ngữ văn, gộp cả
hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển Đại học. Cách ra đề theo yêu cầu mới lại khá
xa lạ với sách giáo khoa….làm nhiều giáo viên và cả học sinh lúng túng.
Mục tiêu cần đạt của việc học sinh làm văn là rèn các tính tư duy sáng tạo
cho học sinh và người thầy cô giáo vừa là người đồng hành trong quá trình sáng tạo

ấy. Căn bệnh thành tích … học thuộc lòng văn mẫu… đã vô tình giết chết cá tính tư
duy sáng tạo khi học môn văn …Đây là một thực tế đáng buồn và đáng lo.
Lại còn có chuyện một số giáo viên dạy thêm, khi trả bài…các em lại so
kè điểm số liếc mắt nhìn nhau chạnh lòng…
Tiết trả bài viết Tập làm văn trở nên khô cứng.
Tôi là Tổ trưởng chuyên môn , qua dự giờ một số giáo viên thấy vấn đề này cần
đưa ra sinh hoạt tổ chuyên môn để thực hiện chuyên đề SOẠN GIẢNG TIẾT TRẢ
BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN…và họp vào ngày 25.12011. Sau đó từng năm đều có
bàn nội dung này và xây dựng chuyên đề ngày càng hoàn thiện hơn.
Qua quá trình áp dụng, tôi thấy học sinh hứng thú với tiết trả bài viết tập làm văn,
khả năng sáng tạo về năng lực tạo lập văn bản. Chất lượng tư duy được nâng lên rõ
rệt trong bài viết lần sau.
2. Mô tả vấn đề :
CÁCH RA ĐỀ BÀI VIẾT và TIẾT TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN
a. THỰC TRẠNG HỌC THUỘC LÒNG VĂN MẪU
Từ lâu nay ở nước ta có thực trạng giáo viên cho học sinh học thuộc lòng văn
mẫu hoặc dàn ý mẫu. Đây là chuyện kỳ lạ nhưng mà có thật.
Tiết trả bài viết này trở nên tội nghiệp cả với thầy và trò.
Thường là với trường hợp này, GV ghi đề lên bảng….nhận xét qua loa…
khuyên nên học tủ một số bài văn mẫu…để đạt điểm cao …triệt tiêu mất khả
5
năng sáng tạo của học trò. Tiết trả bài viết trong trường hợp này thường không
rõ ràng về bố cục….
VD1- BÀI VIẾT SỐ 6 – LỚP 12 – (HỌC KỲ II)
( ví dụ chỉ mang tính minh họa)
: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của
tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong
sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất
thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện

thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm
lòng nhân đạocủa Tô Hoài.
Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ
“thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ
ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm con “dâu gạt nợ”.
Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một
mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nông nô không
hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày
trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục
nhã chịu kiếp sống nô lệ qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương
người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản
chất bóc lột giai cấp. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem
về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong
nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có
khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ
con, và nếu chồng lại chết, lại phải ở với người đàn ông khác vẫn ở trong nh à ấy. …
Phải suốt đời ở trong nhà ấy.
Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải
chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không
khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị
tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả
thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con
người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng cướp đi những thất
vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế,
công việc cứ giăng trải ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm
lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì
đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ
cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi
“Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.
Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của

Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc “lùi
lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “chiếc cửa sổ ô
vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay
6
là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại
chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã
tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn
cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh
thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để
bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.
Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một
chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình
mà A Phủ bị đưa ra xử kiện có phải là vô lí không? Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng
là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng
biết “công lí” có còn ngự trị nơi công đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con
chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ.
Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là
số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.
Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện
thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và
ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường
tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô
Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là
giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị tha hóa
trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn
chết cũng ko chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị
phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối
thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn
cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực.
Dòng nước mắt của A Phủ chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã

khuya.Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa.Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé
mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.Một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị
cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai
con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất
cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy
xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn
Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn
một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với
họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.
Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải
dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét, nhà văn mới tố
cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm, nhà văn mới viết được những câu văn đầy
xúc động, có hiểu, nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có
thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị.
7
Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng tháng, thế rồi định
ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng
gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ
một khao khát sống, khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa
hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi
nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy. Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện
thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghịêt vẫn không thể vùi dập hoàn
toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách.
=> Đây là thực trạng đau lòng, cần phải chấm dứt, cân bịnh chạy theo thành tich
theo điểm số vô tình đã giết chết cá tính sáng tạo của học trò trong quá trình tạo
lập văn bản. Cần phải biết lỗi sai từ các khâu….phân tích đề….xác định trọng tâm
đề…phạm vi tư liệu dẫn chứng….bố cục bài làm cần có những luận điểm – luận cứ -
luận chứng gì….qua trình phân tích dẫn chứng ra sao….

b. THỰC TRẠNG HỌC THUỘC DÀN Ý MẪU.
Thực trạng có một số giáo viên bắt học sinh học thuộc một số dàn bài mẫu…
đây là điều hoàn toàn có thực trong thực tế. Cách này cũng tương tự như cách bắt học
sinh học thuộc lòng văn mẫu…đếm ý cho điểm…theo quan điểm của người chấm.
Tiết trả bài này có khá hơn so với tiết….học thuộc lòng văn mẫu…nhưng vẫn sơ
cứng ….mới chỉ chú trọng các ý….cách triển khai các ý …và dẫn chứng…CÁC
THAO TÁC NGHỊ LUẬN- SO SÁNH – PHÂN TÍCH- TỔNG HỢP- BÁC
BỎ….PHÂN TÍCH ĐỀ….chưa được chú trọng.
VD2: BÀI VIẾT SỐ 7 – LỚP 12 (HỌC KỲ 2)
ĐỀ: PHÂN TÍCH MỘT ĐOẠN TRÍCH KỊCH
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT Lưu Quang Vũ
I/ Tác giả:
- Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia
đình tri thức.
- Từ năm 1965-1970: phục vụ quân đội.
- Từ năm 1970-1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh.
- Từ năm 1978-1988: bắt đầu sáng tác.
- Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng: làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh và
soạn kịch.
- Đóng góp xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ là soạn kịch. Lưu Quang Vũ không chỉ
trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ
XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học
nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
*. Tác phẩm tiêu biểu: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Nếu
anh không đốt lửa, Lời thề thứ 9, Tôi và chúng ta
II/ Tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Tác phẩm được viết năm 1981 và ra mắt công chúng năm 1984, là một vở kịch đặc
sắc của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.
8

- Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch hiện đại, đặt ra
nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
2. Tóm tắt:
Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam
Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới
chết. Mọi rắc rối do hồn Trương ba phải mượn xác hàng thịt bắt đầu xảy ra: lí tưởng
sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ mà
bản thân Trương Ba thì phải đau khổ, bất lực vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo.
Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt diễn ra, trong đó, xác
hàng thịt khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình.
Cùng lúc, cu Tị, con một người hàng xóm ốm nặng, sắp chết. Đế Thích định cho hồn
Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba cương quyết từ chối, xin cho cu Tị
được sống đồng thời trả xác cho nhà hàng thịt và chấp nhận cái chết.
3. Nội dung:
a/ Các lớp đối thoại và ý nghĩa của chúng:
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt:
- Nghịch cảnh: linh hồn nhân hậu, trong sạch phải trú nhờ trong một thân xác thô
phàm.
- Linh hồn Trương Ba lệ thuộc và bị xác thịt thô phàm điều khiển, lấn át.
- Xác hàng thịt tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù, ghê gớm của mình, tìm cách
khống chế, ve vãn, kêu gọi hồn Trương Ba thoả hiệp bằng những lí lẽ ti tiện.
- Hồn Trương Ba ý thức sâu sắc về sự tha hoá, dằn vặt, đau khổ, tìm cách thoát khỏi
xác thịt để tồn tại độc lập.
- Xác hàng thịt khẳng định sự thắng thế của mình: “chẳng còn cách nào khác nữa
đâu”.
- Hồn Trương Ba khinh bỉ, mắng mỏ lí lẽ đê tiện của xác hàng thịt nhưng rồi ngậm
ngùi, thấm thía nghịch cảnh của mình và nhập vào xác hàng thịt một cách tuyệt vọng.
Hàm ý của đối thoại:
- Trương Ba được trả lại sự sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải

chung sống với sự dung tục và bị dung tục đồng hoá.
- Khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục ấy sẽ ngự trị, thắng
thế và sẽ tàn phá những gì trong sạch, cao quý của con người.
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân.
- Không chỉ bản thân Trương Ba đau khổ mà còn gây đau khổ cho những người thân
yêu.
- Vợ Trương Ba đau khổ bỏ đi; con dâu thương cảm, xót thương cho hoàn cảnh của
bố chồng; cháu gái phản ứng dữ dội, quyết liệt, không chấp nhận sự tồn tại của ông.
- Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba đã lên đến đỉnh điểm.
- Tình huống bi kịch thúc đẩy hồn Trương Ba phải lựa chọn với sự phản kháng mãnh
liệt: “không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần”.
9
=> Con người phải đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự
dung tục để hoàn thiện nhân cách.
*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích:
- Hồn Trương Ba không chấp nhận kiểu sống “bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo”, muốn được là chính mình một cách trọn vẹn.
- Đế Thích ngạc nhiên vì những yêu cầu của Trương Ba.
- Hồn Trương Ba chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống
nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”.
- Đế Thích khuyên Trương Ba nên chấp nhận hoàn cảnh. Sau đó Đế Thích sửa sai
bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
- Hồn Trương Ba kiên quyết từ chối việc nhập vào xác cu Tị vì đó cũng là một cuộc
sống “còn khổ hơn cái chết”.
- Đế Thích chấp nhận yêu cầu của Trương Ba với thắc mắc: “con người hạ giới các
ông thật kì lạ”
. Quan niệm về sự sống:
- Đế Thích có cái nhìn hời hợt, phiến diện về con người.
- Trương Ba ý thức sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống: hồn và xác phải hài hoà, không
thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.

* Màn kết:
- Trương Ba trả xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để được là chính mình và
linh hồn được trong sạch.
- Hoá thân vào cây cỏ, các sự vật thân thưong để tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những
người thân yêu.
→ Thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp, của cuộc sống đích thực.
b/ Chủ đề tư tưởng:
Thông qua những màn đối thoại của vở kịch, Lưu Quang Vũ đã đưa ra một
quan niệm cao đẹp về cách sống: hãy sống chân thật với chính mình, phải biết đấu
tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại sự dung tục để hoàn
thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
4. Nghệ thuật:
- Xung đột giàu kịch tính.
- Ngôn ngữ đắc trưng cho ngôn ngữ kịch.
- Sự kết hợp tính hiện đại với các giá trị truyền thống.
- Chất thơ, chất trữ tình bay bổng.
c. THỰC TRẠNG RA ĐỀ VÀ ĐÁP ÁN THEO CẤU TRÚC MỚI CỦA BỘ
Trước sự thay đổi cách thi tốt nghiệp và tuyển sinh đại học, yêu cầu cà thầy và
trò đều phải thay đổi để kịp thích ứng với tình hình mối. Trong họp tổ chuyên môn đã
nhiều lần bàn về vấn đề này. Đã phân công từng giáo viên phải soạn đề- đáp án – tiết
trả bài….theo cách ra đề mới theo tinh thần của bộ.
Cách ra đề mở thường rất đa dạng.
Phần ĐỌC HIỂU có khi được lồng ghép vào câu NGHỊ LUẬN XÃ HỘI, cũng
có khi lồng ghép vào câu NGHỊ LUẬN VĂN HỌC. Cái hay của cách ra đề này là
10
nhằm kiểm tra năng lực học sinh chống việc học tủ- học lệch- học thuộc lòng văn
mẫu hay dàn ý mẫu… tuy nhiên TIẾT TRẢ BÀI VIẾT lại rất khó khăn cho giáo
viên và cả học sinh. Phần phân tích đề…phải phân tích các câu….thường từ 2 đến 3
câu….do là đề mở nên phần đọc hiểu….đáp án thường theo chủ quan của người ra
đề…Yêu cầu chung của phần ĐỌC HIỂU ở nghị luận xã hội và nghị luận văn học

lại mang đặc thù rất khác nhau…đây là điểm mới rất khác so với cấu trúc đề thi Ngữ
Văn trước năm 2014.
Sau đây là đề thi thử của trường THPT Xuân Thọ.
VD3… ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT
Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể thời gian giao đề)
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH: (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
Anh ( chị ) hãy tóm tắt truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn.
Câu II. (3,0 điểm)
Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhỡ, lang
thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình thương để nuôi
dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh, tốt đẹp.
Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó
(câu III.a, hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh hoặc chị về nhân vật tôi trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng
sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Đàn ghita của Lor-ca của
Thanh Thảo:
“ những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây Ban Nha

hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi ta nâu
11
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy”
(Ngữ văn 12 , tập một, NXB Giáo duc)
HƯỚNG DẪN CHẤM THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT
Môn: Ngữ văn
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)
Câu I. (2,0 điểm)
a. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, song cần nêu được các ý chính
sau:
- Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có đứa con trai độc nhất mắc bệnh
lao nặng. Nhờ có người mách bảo, vào một đêm thu lúc trời chưa sáng hẳn, Lão Hoa
Thuyên tìm tới pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém
về cho con ăn vì cho rằng ăn như thế con sẽ khỏi bệnh.
- Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều tuỵ, đáng
thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của
phương thuốc này.
- Trời vừa sáng, lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán trà nhà lão Hoa Thuyên dần
đông khách. Câu chuyện của bọn họ xoay quanh hai sự việc. Sự việc thứ nhất là tất
thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi

mà thằng bé vừa ăn . Sự việc thứ hai là chuyện bàn tán về người tù bị chém sáng nay.
Qua lời của Cả Khang thì người bị chém tên là Hạ Du. Hạ Du theo đuổi lí tưởng
đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành độc lập, chủ quyền cho người Trung Quốc (Thiên hạ
nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ Du bị người bà con tố giác và bị bắt.
Trong tù Hạ Du vẫn tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những người
có mặt trong quán trà hôm đó không một ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du
là điên, là giặc.
- Vào một buổi sáng của ngày Thanh minh năm sau, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên
cùng đến nghĩa địa ( dành cho người nghèo, người tù và người bị chém) viếng mộ
con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ rất ngạc nhiên khi thấy
trên mộ Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt đầu hiểu ra việc làm của con bà
và tin tưởng những kẻ giết hại Hạ Du nhất định sẽ bị quả báo.
b. Cách cho điểm:
- Điểm 2: Đáp ứng các yêu cầu trên, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 1: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 0: Hoàn toàn sai lạc.
Câu II. (3,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
12
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội; kết cấu bài văn chặt chẽ, diễn đạt lưu loát;
không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b.Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể đưa ra những ý kiến riêng, quan trọng là
cách hiểu và cách bàn luận phải xuất phát từ hiện tượng đề bài yêu cầu nghị luận,
phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Cần tổ chức bài làm theo định
hướng sau:
- Thực trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ: Trẻ em lang thang, cơ nhỡ đang là vấn
đề cần được toàn xã hội quan tâm. Bởi vì hiện nay vẫn còn rất nhiều trẻ em không
nơi nương tựa, điều này ảnh hưởng tới sự phát triển chung của đất nước.
- Nguyên nhân: Do đói nghèo, do tổn thương tình cảm ( bị gia đình ruồng bỏ, từ
chối hoặc đánh đập ), do mồ côi hoặc các trường hợp bố mẹ li hôn.

- Hiện nay, những " mái ấm tình thương" đang xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta.
Điều này không chỉ có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế mà quan trọng hơn là giúp cho
các em hướng thiện, đưa các em đi đúng với quỹ đạo phát triển tích cực của xã hội.
Đây là tình cảm tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách biểu hiện của truyền
thống nhân đạo ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.
- Giới thiệu một vài điển hình: Tổ chức ( Làng trẻ em SOS, Làng trẻ em Hòa Bình
( Từ Dũ), Chùa Bồ Đề (Huế) ); cá nhân ( Mẹ Phạm Ngọc Oanh (Hà Nội) với 800
đứa con tình thương; Anh Phạm Việt Tuấn với mái ấm KOTO ( Hà Nội ) )
- Quan điểm và biện pháp nhân rộng
+ Quan điểm: Có cái nhìn đúng đắn về hiện tượng trẻ em lang thang cơ nhỡ từ đó
nâng cao tình cảm và trách nhiệm đối với hiện tượng ấy. Lên án và kịp thời phát hiện,
tố cáo những kẻ bóc lột sức lao động và xâm hại trẻ em.
+ Biện pháp nhân rộng: Dùng biện pháp tuyên truyền, kêu gọi các cá nhân, tổ chức,
quyên góp tiền cho các hoạt động từ thiện, thành lập đội thanh niên tình nguyện
c. Cách cho điểm:
- Điểm 3: Đáp ứng các yêu cầu trên, có thể mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 2: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Câu III.a. Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc- hiểu để trình bày
cảm nhận về nhân vật trong tác phẩm kí. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không
mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kíên thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm Ai đã đặt tên cho
dòng sông, thí sinh biết cảm nhận được vốn tri thức, vốn văn hoá và tình cảm với Huế
của nhân vật tôi. Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần nêu
bật những ý chính sau:

13
Nhân vật tôi trong tác phẩm là một trí thức gắn bó và say đắm sông Hương với
kinh thành Huế. Nhân vật đã huy động vốn kiến thức tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn
hoá, trong và ngoài nước để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của dòng
sông.
- Nhân vật tôi nhìn dòng sông từ nhiều điểm nhìn khác nhau: thượng nguồn, trong
kinh thành Huế, ra ngoại vi thành phố; từ góc độ địa lí, văn hoá, lịch sử, kết hợp
đan xen điểm nhìn không gian và thời gian
- Giọng điệu của nhân vật là giọng thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo, tự tin mà
không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc.
c. Cách cho điểm:
- Điểm 5: Đáp ứng được yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Bài viết quá sơ sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc - hiểu để phân tích tác
phẩm trữ tình; kết cấu bài văn chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả,
dùng từ và ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về Thanh Thảo và bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, thí sinh biết
phân tích những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu để làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của hình
tượng Lor-ca. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần nêu được
những ý cơ bản sau:
- Hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca: con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh
chính trị, văn hoá nghệ thuật Tây Ban Nha.
+ Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình tượng một nhà nghệ sĩ Lor-ca bằng những
nét chấm phá, phần nào chịu ảnh hưởng của trường phái Tượng trưng , Siêu thực
+ Chi tiết “tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: thính giác sang thị

giác và thủ pháp lạ hóa tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ của tiếng đàn Lor-ca.
+
+ Hình ảnh tương phản gay gắt: gợi cảnh đấu trường giữa khát vọng dân chủ với
nền chính trị độc tài, giữa khát vọng cách tân nghệ thuật với nền nghệ thuật già nua.
+“Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” . Đây là hình ảnh vừa thực vừa tượng trưng: đấu
trường quyết liệt, nơi người nghệ sĩ đương đầu với những thế lực tàn bạo, hà khắc.
+ Nhạc thơ li-a li-a Nghệ thuật láy âm “li-la li-la li-la” gợi hợp âm của tiếng đàn
ghi ta, gợi hình ảnh bông hoa buồn của phút chia ly, gợi chuyến đi thăm thẳm và đơn
độc của người nghệ sĩ.
+ Từ ngữ “lang thang, miền đơn độc, yên ngựa mỏi mòn, vầng trăng chuếnh
choáng” gợi lên cuộc hành trình đơn độc của người nghệ sĩ đang tranh đấu cho tự do
và cái mới.
- Cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, khát vọng cách tân nghệ thuật đành dang dở.
14
+ Tập trung thể hiện giây phút Lor-ca "bị điệu về bãi bắn" và cực tả nỗi đau đớn, xót
xa trước cái chết của người nghệ sĩ. Thủ pháp đối lập, các biện pháp so sánh, nhân
hóa, điệp ngữ được sử dụng triệt để nhằm khắc họa đậm nét ấn tượng về sự "kinh
hoàng", nỗi đau đớn tột cùng của nhà thơ.
• Chi tiết “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao”,
• Từ ngữ “kinh hoàng”, hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”,
• Hình ảnh “Lor-ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”
Thật bất ngờ, hồi tưởng lại cảnh tượng thảm khốc ấy, Thanh Thảo lại như nghe và
cảm nhận thấy âm thanh tiếng ghi ta trên chặng đường lãng du của Lor-ca.
+ Từ ngữ chuyển đổi cảm giác “nâu, lá xanh, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng /máu
chảy”
+ Những điệp khúc tạo hình âm nhạc bằng chính nhịp điệu, và bằng hình ảnh (bọt
nước, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng, máu chảy) bằng màu sắc (nâu, xanh biết
mấy), bằng liên tưởng (Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt, bầu trời cô gái ấy….). Sự kết
hợp ngẫu hứng từ ngữ cũng là sự kết hợp mang tính chất âm nhạc. Đặc biệt, khi tiếng
ghita ròng ròng máu chảy, âm nhạc đã thành thân phận: nó là tiếng van vỉ than khóc

của trái tim tử thương trong thơ Lor-ca, nó là chính định mệnh nghiệt ngã với Lorca.
- Đánh giá: Với nghệ thuật đặc sắc, đoạn thơ thể hiện sự đồng cảm, tiếc thương sâu
sắc của tác giả đối với Lor-ca, người nghệ sĩ tài hoa có số phận bi tráng của đất
nước Tây Ban Nha.
c) Cách cho điểm:
-Điểm 5: Đáp ứng được yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
-Điểm 3: Trình bày được một nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 1: Phân tích quá sơ sài, diễn đạt yếu.
-Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
3. Liệt kê nguyên nhân gây ra vấn đề -
a. Do cấu trúc Sách giáo khoa- sách giáo viên….dạng bài làm BÀI VIẾT- TRẢ BÀI
VIẾT….thiếu nhất quán nên trong tổ chuyên môn Ngữ văn cần phải thống nhất lại
cách soạn giảng tiết học này. Theo tôi đây lại là tiết dạy rất quan trọng, giúp ích cho
các em rất nhiều trong việc sửa sai.
b. Bộ Giáo dục vừa chỉ đạo phải dạy theo chuẩn KIẾN THỨC- KỸ NĂNG…lại vừa
thay đổi cách thi nên cách ra đề mở theo đề minh họa của Bộ….lại có những vấn đề
nằm ngoài chuẩn….khiến nhiều người lúng túng. Viêc thích nghi với yêu cầu mới
càng khó khăn. Đây là sự bất cập khó khăn cho cả người dạy và người học.
c. Do chạy theo căn bệnh thành tích có một số giáo viên “dạy tủ’’ bằng cách bắt
học trò học thuộc văn mẫu….để đạt điểm cao. Cáh học này rất tiêu cực nhưng lại là
có thật, triệt tiêu mất khả năng sáng tạo cả người dạy lẫn người học. Là một thực
trạng đau lòng.
d. vấn nạn dạy thêm- học thêm tràn lan ở nước ta là một câu chuyện dài hơi…đã
xuất hiện từ rất lâu…Dù nhiều cấp đã ban hành nhiều văn bản qui phạm… nhưng
trong thực tế vẫn tồn tại. Một số giáo viên dạy thêm thường dạy dàn bài mẫu….cứ thế
đếm ý cho điểm….khiến dư luân bức xúc…
15
e. Việc Bộ Giáo dục thay đổi cấu trúc đề thi môn Văn…khiến cho việc học tập làm
văn…tiết BÀI VIẾT- TRẢ BÀI VIẾT TÂP LÀM VĂN khiến cho cả người học và
người viết đều gặp khó.

4 . GiẢI PHÁP THAY THẾ
SOẠN GIẢNG TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN
(Mô hình mẫu – giáo án chung cho dạng bài TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM
VĂN)
1. Mục tiêu cần đạt:
- Thống nhất cách soạn giảng tiết TRẢ BÀI BIẾT TẬP LÀM VĂN trong
sinh hoạt tổ chuyên môn theo chuẩn KIẾN THỨC- KỸ NĂNG
- Cập nhật cách ra đề theo cấu trúc mới của bộ.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS TRỌNG TÂM KIẾN THỨC KỸ
NĂNG
GV; nhận xét chung ưu - khuyết điểm
bài làm của lớp
( dùng phấn màu…gạch chân các từ ngữ
quan trọng trong đề …giúp hs dễ phân
tích đề xác định đúng trọng tâm yêu cầu
của đề)
- Do thời gian làm bài ở lớp là 90 phút
mà khi thi Tốt nghiệp là 150 phút…
Nên Giáo viên phải vừa đàm bảo câu
trúc đề thi… vừa dung lượng không
quá tải…
GV gợi ý cho hs phân tích lại đề….( đây
là khâu rất quan trọng…giúp hs tư duy
đúng hướng…HƯỚNG VĂN BẢN trong
văn bản học…)
-HS phải xác định được dạng đề…NLXH
hay NLVH…hay là dạng đề hỗn hợp…có
cả phần liên hệ bản thân…
- Trọng tâm của đề là gì? (nếu
không xác định được trọng tâm…HS dễ

bị lạc đề …tư duy lạc hướng…)
- Giúp HS xác định các yêu cầu
chính- phụ trong trọng tâm của đề….
-
I. Đề:……
( cách ra đề mới thì thường gồm 2 phần
ĐỌC HIỂU và LÀM VĂN; lại vừa có
nghị luận xã hội lẫn nghị luận văn học.
Giáo viên cần cho học sinh là quen với
cách ra đề mới của Bộ.)
II. PHÂN TÍCH ĐỀ
1. Dạng đề…
Câu 1…( thường là phần Đọc hiểu…có
thể là Nghị luận xã hội…cũng có khi là
nghị luận văn học )
Câu 2 ( thường là phần làm văn nghị
luận văn học hoặc dạng đề tổng hợp có
cả phần nghị luận văn học lẫn phần
nghị luận xã hội ; có thể có cả phần liên
hệ bản thân…
2. Trọng tâm đề
- Yêu cầu 1…
+…
+…
- Yêu cầu 2….
- …….
16
- Yêu cầu về lựa chọn đẫn chứng …
(cần lựa chọn những dẫn chứng tiêu
biểu…quan trọng là phải biết PHÂN

TÍCH DẪN CHỨNG…để phục vụ cho bài
làm…TƯ DUY ĐỒNG HƯỚNG …với
trọng tâm của đề…
GV cần nhấn mạnh lại lỗi phân tích
đề…
+ Vì sao viết lan man xa đề…
+ Vì sao làm bài bị lệch trong tâm đề…
+Vì sao là sai kiểu bài…
+ vì sao là bài thiếu ý…
+ Vì sao các ý chưa cân đối về dung
lượng….có ý quá dài…có ý quá ngắn…
+ Vì sao các ý lại thiếu dẫn chứng…
+ Vì sao chưa phân tích dẫn chứng để làm
rõ chủ đề cần hướng tới…dẫn chứng ấy
đã tiêu biểu chưa…
- - Thường các em bị thói quen dùng
từ chưa chính xác.VD: biết rồi….biết
rùi…
-GV chỉ ra các lỗi sai chính tả, viết hoa
tùy tiện, viết ký hiệu…
- Lỗi sai phổ biến là câu các em
thường viết dài….GV vừa có VD mẫu
sai…cho cả lớp cùng rút kinh nghiệm…
vừa cho HS tự tìm VD sai trong bài làm
của mình…
- - Lỗi câu sai ngữ pháp phổ biến là
các em thườ ng lầm phần trạng ngữ đứng
ở đầu câu…là một câu trúc câu….GV
nên ghi VD mẫu lên bảng để sửa….
- GV chú ý đến lỗi viết đoạn dài của

học sinh….có thể ôn lại đoạn diễn dịch -
quy nạp - song hành –móc xích - tổng
phân hợp…mỗi đoạn văn nên diễn đạt
3. Phạm vi dẫn chứng
……….
……….


………
III. SỬA LỖI SAI
1. Lỗi phân tích đề …
(lạc đề; xa đề, lệch trọng tâm đề, sai
dạng bài, thiếu yêu cầu đề….)
( lỗi phân tích đề….theo câu trúc mới…
thường khó hơn so với câu trúc đề trước
năm 2014….nên chú trụng vấn đề này …
để giáp học sinh xác định được mục
tiêu cần đạt…)
2. Lỗi dùng từ
- Dùng từ chưa chính xác….
+ VD…
- Viết hoa tùy tiện
+VD….
- Viết ký hiệu…., viết từ tiếng Anh
thay thế…
+ VD….
Viết sai chính tả
+ VD….
3. Lỗi viết câu
- Câu dài…gộp nhiều vế câu lộn

xộn….
- Câu sai ngữ pháp….(dạng câu sai
phổ biến là các em thường lẩm trạng ngữ
đứng ở đầu câu….là một câu)
17
một ý tương đối trọn vẹn….
- GV chú ý đến việc tập thói quen
cho HS biết vận dụng các phép tu từ…
cho ví dụ minh họa…chú ý phân tích tác
dung của các phép tu từ…
- Lưu ý giúp HS phân bố thời lượng
hợp lý cho từ phần….mở bài và kết bài
thường từ 5-10 phút, dành 5 phút đọc lại
sửa lỗi chính tả….
- Phần mở bài rất quan trọng…GV
cần hướng dẫn cho các em nhiều cách mở
bài….nhiều cách tiếp cận vấn đề…tuy
nhiên cần đảm bảo các yêu cầu sau…
+ Dẫn dát vấn đề…
+ Nêu vấn đề…
+Nêu trọng tâm vấn đề một cách khái
quát….
+ Chuyển mạch… viết câu liên kết giữa
phần mở bài và thân bài…
• Tùy dạng bài mà phần thân bài
co các ý và chức năng khác nhau , tuy
nhiên GV phải chốt được các ý cơ bản
của dàn bài đại cương phần thân bài…
• Chú ý các đoạn d64n chứng ,
phân tích dẫn chứng; đoạn liên hệ bản

thân…
- Phần kết bài không cần dài
dòng….phải chốt lại vấn đề nghị luận.
GV cần nhận xét các bài đọc văn mẫu
của lớp đề rút kinh nghiệm cả bài hay
và chưa hay…
4. Lỗi viết đoạn văn
- Lỗi đoạn dài….gộp nhiều ý lộn xộn …
diễn đạt dài dòng…(có em viết cả phẩn
thân bài là một đoạn văn rất dài gồm 2-3
trang!)
5. Lỗi dùng biện pháp tu từ….(đặc
trưng của phong cách ngôn ngữ văn
chương là dùng các biện pháp tu từ…
như nhân hóa , sao sánh, ẩn dụ….để
làm cho lời văn thêm sinh động, hấp
dẫn gợi cảm…tăng khả năng thuyết
phục…)
6. Bố cục
a. Mở bài…
b. Thân bài….
- Ý 1….tương ứng với đoạn 1 trong
phần thân bài…)
- Ý2….
- Ý 3 …
- Ý 4…
- Ý 5…
18
- Ý 6…
- Ý 7…

- Ý 8…
- …
c. Kết bài….
IV. LUYỆN TẬP
1. Đọc ít nhất 2 bài văn tiêu biểu của
lớp…bài hay và cả bài điểm kém…để rút
kinh nghiệm…
2.Dựa vào bài sửa viết lại một số đoạn
văn
* GV nhận xét tiết dạy, dặn dò HS chuẩn bị bài mới…
5. Vấn đề nghiên cứu: SOẠN GIẢNG TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN
Theo tôi đổi mới về phương pháp soạn giảng của giáo viên theo dạng bài
này là nhằm đổi mới phương pháp làm bài của học sinh theo yêu cầu mới.
Quá trình làm BÀI VIẾT của học sinh là QUÁ TRÌNH TẠO LẬP VĂN BẢN
(gồm nhiều thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh,nghị luận, trừu tượng hóa, khái quát
hóa, cụ thể hóa… ) .Khi trả bài viết…học sinh biết được lỗi sai…sai ở đâu…sai khâu
nào…sai cái gì…sửa như thế nào…là điều rất quan trọng.
Đề tài này tập trung vào lớp 12…vì gấp rút học để thi tốt nghiệp và thi tuyển Đại học
trong năm học 2014-2015, nên các ví dụ mẫu tập trung vào lơp 12.
Nhìn tổng thể các bộ sách giáo khoa Ngữ văn mới lớp 10,11,12 ở bậc học
THPT và các bộ sách giáo khoa Ngữ văn mới lớp 6,7,8,9 ở bặc học THCS và sách
giáo khoa môn Tiếng Việt ở Tiểu học có mối quan hệ TÍCH HỢP ĐỒNG TÂM
(một vấn đề thường được nhấn mạnh ở cấp cao hơn). Nên cần dạy các em cách duy
hệ thống cách làm bài theo cấu trúc mới.
Cho nên cần nghiên cứu kỹ các vấn đề sau:
I. Đề:……phải ra theo cấu trúc mới
II. PHÂN TÍCH ĐỀ (GV cần dạy kỹ phần kỹ năng phân tích đề, phải nghị luận
đúng hướng, tránh lạc đề, xa đề…)
1.Dạng đề… thường thì có một câu nghị luận xã hội và một câu nghị luận văn
học, chú y phần đọc hiểu…

4. Trọng tâm đề
- Yêu cầu 1…
- Yêu cầu 2….
- …….
5. Phạm vi dẫn chứng ( cần những dẫn chứng gì, từ sách vở hay trong đồi
sống, dẫn chứng nào là tiêu biểu, cần phân tích dẫn chứng để phục vụ là sáng tỏ
ý chính của luận điểm…) ………. ………
III. SỬA LỖI SAI
7. Lỗi phân tích đề …(lạc đề; xa đề, lệch trọng tâm đề, sai dạng bài, thiếu yêu
cầu đề….)
19
8. Lỗi dùng từ
- Dùng từ chưa chính xác….
+ VD…
- Viết hoa tùy tiện
+VD….
- Viết ký hiệu…., viết từ tiếng Anh thay thế…
+ VD….
Viết sai chính tả
+ VD….
9. Lỗi viết câu
- Câu dài…gộp nhiều vế câu lộn xộn….
- Câu sai ngữ pháp….(dạng câu sai phổ biến là các em thường lẩm trạng ngữ
đứng ở đầu câu….là một câu)
10. Lỗi viết đoạn văn
- Lỗi đoạn dài….gộp nhiều ý lộn xộn …diễn đạt dài dòng…(có em viết cả phẩn thân
bài là một đoạn văn rất dài gồm 2-3 trang!)
11. Lỗi dùng biện pháp tu từ….(đặc trưng của phong cách ngôn ngữ văn chương
là dùng các biện pháp tu từ… như nhân hóa , sao sánh, ẩn dụ….để làm cho lời
văn thêm sinh động, hấp dẫn gợi cảm…tăng khả năng thuyết phục…)

12. Bố cục
d. Mở bài…
e. Thân bài….
- Ý 1….tương ứng với đoạn 1 trong phần thân bài…)
- Ý2….
- Ý 3 …
- Ý 4…
- Ý 5…
- Ý 6…
- Ý 7…
- Ý 8…
- …
f. Kết bài….
6. GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU:
Chọn Bài thi giữa học kỳ 2 của lớp 12 năm học 2014-2015 là giả thiết nghiên cứu,
lớp 12A10 (lớp thực nghiệm), 12A2 (lớp đối chứng)
C. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 12 A10(34 học sinh) và lớp 12A2(35 học sinh)
trường THPT Xuân Thọ. Vì bản thân tôi đang công tác ở đó nên có điều kiện thuận
lợi cho việc NCKHSPUD.
20
* Giáo viên: Hai giáo viên có tuổi đời và tuổi nghề tương đương nhau và đều là giáo
viên trẻ, có lòng nhiệt tình và trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy và giáo dục
học sinh.
1. Lê Thị Hằng – Giáo viên chủ nhiệm lớp 12A10 (lớp thực nghiệm)
2. Nguyên Thị Thùy Trang – Giáo viên chủ nhiệm lớp 12A2 (lớp đối chứng)
* Học sinh: hai lớp được chọn tham gia nghiên cứu có nhiều điểm tương đồng nhau
về tỉ lệ học sinh, giới tính như sau:
Số HS các nhóm

Tổng số Nam Nữ
Lớp 12 A10
(TN)
34 19 15
Lớp 12A2
(ĐC)
35 20 15
Về ý thức học tập, tất cả các em ở hai lớp này đều tích cực, chủ động.
2.THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Chọn hai lớp nguyên vẹn: lớp 12A10(34 học sinh) là nhóm thực nghiệm, lớp
12A2 (35 học sinh) là nhóm đối chứng.
Tôi ra đề bài kiểm tra cho học sinh làm bài kiểm tra trước tác động.
ĐỀ NÀY PHẦN ĐỌC HIỂU LỒNG VÀO CÂU 2A và thiết kế GIÁO ÁN
THEO MẪU CHUNG Ở PHẦN TRÊN
TIẾT TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN
TRƯỜNG THPT XUÂN THỌ ĐỀ THI GIỮA HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2014-2015

Môn thi: Ngữ văn
Thời gian làm bài 150 phút
( đề này gồm 1 trang, có 2 câu)
Đề:
Câu 1 ( 3 điểm)
Giáo sư trẻ Ngô Bảo Châu, vừa qua được giải thưởng toán học Fields danh giá.
Từ hiện tượng trên, em có suy nghĩ gì về tuổi trẻ Việt Nam ở thế kỉ XXI. Thế kỉ của
nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa.
Câu 2 (7điểm)
Cho đoạn thơ sau:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân).
a. Cảm nhận của em về đoạn thơ trên .
b.Từ ý thơ trên em có suy nghĩ gì về quê hương biển đảo Việt Nam thân yêu .
21
…………………Hết…………………………
HƯỚNG DẪN CHẤM THI VÀ BIỂU ĐIỂM MÔN VĂN
Giám khảo hội đồng chấm thi cần lưu ý những điểm sau:
1. Dạng đề mở nên đáp án và thang điểm chỉ mang tính gợi ý định hướng. Khi chấm cần
linh hoạt.
2. Chấm kỹ lưỡng và chính xác. Khuyến khích cho điểm cao những bài viết có tư duy độc
đáo sáng tạo; cảm thụ tinh tế; văn viết giản dị trong sáng, giàu cảm xúc, kết cấu chặt chẽ bố cục rõ
ràng, ý tứ mạch lạc; làm bật được yêu cầu đề.
3. Bài thi được chấm theo thang điểm 10, làm tròn tới 0,50đ
Câu Ý Yêu cầu Điểm
1 * Yêu cầu về kĩ năng:
- Nắm vững kĩ năng, phương pháp làm bài văn nghị luận xã hội.
- Hiểu đúng ý nghĩa vấn đề.
- Bố cục rõ ràng, hợp lí; lập luận chặt chẽ, thuyết phục; dẫn chứng tiêu
biểu.
- Diễn đạt mạch lạc, giàu cảm xúc.
- Khuyến khích những bài viết sáng tạo.
* Yêu cầu về kiến thức:
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý
sau:
1 Giải thích vấn đề:
- “Giáo sư trẻ Ngô Bảo Châu, vừa qua, được giải thưởng toán học Fields
danh giá”:
+ Giáo sư trẻ Ngô Bảo Châu Sinh ngày 28/6/1972 tại Hà Nội. là nhà
Toán học nổi tiếng với công trình chứng minh bổ đề cơ bản cho các dạng tự
đẳng cấu do Robert Langlands và Diana Shelstad phỏng đoán. Ông là người

Việt Nam đầu tiên dành được huy chương Fields vào ngày 19/8/2010. Năm
2005, ông là nhà khoa học trẻ nhất Việt Nam được Hội đồng Chức danh
Giáo sư nhà nước Việt Nam phong học hàm Giáo sư khi 33 tuổi.
+ Giải thưởng toán học Fields được trao cho bốn nhà toán học
không quá 40 tuổi tại mỗi kì đại hội quốc tế của (ICM) của Hiệp hội Toán
học quốc tế (IMU) được tổ chức 4 năm một lần. Giải thưởng được sáng lập
bởi nhà Toán học Canada John Chảles Fields lần dầu được trao vào năm
1936, bị gián đoạn suốt thế chiến thức hai, sau đó được trao đều đặn từ năm
1950.
- Tuổi trẻ Việt Nam ở thế kỉ XXI là khoảng thời gian tính từ năm
2001 đến hết năm 2100, nghĩa là bằng 100 năm. Tuổi trẻ Việt Nam ở thế kỉ
này được tiếp bước và kế thừa tiến trình hiện đại hóa ở tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
- Nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa:
+ Nền kinh tế tri thức: Khái niệm kinh tế tri thức manh nha từ đầu
những năm 60 của thế kỉ trước bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Cho
đến nay người ta thống nhất như sau: “Nền Kinh tế tri thức là nền kinh tế
sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, xã hội,
bao gồm truy cập vào kho tri thức toàn cầu đồng thời làm chủ và sáng tạo
tri thức mới cần thiết cho riêng mình”.
+ Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội
và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng
22
tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế,
v.v. trên quy mô toàn cầu.
- Ý nghĩa vấn đề: Sự kiện giáo sư Ngô Bảo Châu đạt giải thưởng toán
học Fields không chỉ mang đến danh tiếng cho riêng bản thân giáo sư mà
còn mang đến danh tiếng cho nền tri thức Việt Nam. Từ sự kiện trên, chúng
ta có quyền tự hào và có trách nhiệm cũng như sự tự tin vào tuổi trẻ Việt
Nam ở thế kỉ XXI sẽ tiến xa hơn. Phục vụ đất nước trong quá trình hội nhập

quốc tế theo xu hướng toàn cầu hóa.
2 Phát biểu suy nghĩ về vấn đề
* Hiện nay, nền kinh tế tri thức nước ta đang phát triển theo xu hướng toàn
cầu hóa. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các
quốc gia, không loại trừ ai … (dẫn chứng+phân tích)
*Tuổi trẻ Việt Nam ở thế kỉ XXI cần:
- Nâng cao ý thức học tập trau dồi tri thức, vì trong nền kinh tế tri thức,
hoạt động chủ yếu nhất là tạo ra tri thúc, quảng bá tri thức và sử dụng tri
thức, biến tri thức thành giá trị.
- Nâng cao năng lực sáng tạo và đổi mới, vì sức sáng tạo và đổi mới trở
thành động lực trực tiếp nhất của sự phát triển kinh tế xã hội, là nguồn gốc
của nền kinh tế tri thức hiện nay.
- Có đủ tự tin và bản lĩnh để khẳng định mình đồng thời góp phần đưa đất
nước phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa.
3 Bài học rút ra
- Thế kỉ XXI là thế kỉ của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa. Thế kỉ này
đặt ra nhiều thách thức cũng như mở ra nhiều cơ hội cho xã hội loài người
nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng. Vì vậy, mỗi chung ta cận phải
biết chuẩn bị hành trang cho mình thật tốt để đối đầu với thử thách và nắm
bắt cơ hội trước mắt, sẵn sàng chinh phục đỉnh cao của tri thức nhân loại.
- Từ sự kiện Giáo sư Ngô Bảo Châu, ta thấy tự hào hơn vì mình là người
Việt Nam, và hạnh phúc hơn vì mình là con người trẻ của thế kỉ XXI
2 *Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. Liên hệ với tình yêu
quê hương đất nước của bản thân.
- Biết kết hợp nhiều thao tác nghị luận để làm sáng tỏ yêu cầu của đề.
- Bài viết có bố cục rõ ràng, hệ thống luận điểm, luận cứ phong phú, mạch
lạc, lập luận chặt chẽ, thuyết phục.
- Diễn đạt trong sáng, giàu cảm súc.
*Yêu cầu về kiến thức:

Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý sau:
1 Cảm nhận về đoạn thơ:
- Nêu được xuất xứ của đoạn trích.
- Phân tích nội dung và nghệ thuật đoạn trích:
+ Bằng nghệ thuật so sánh tương đồng, tác giả khẳng định mỗi chúng ta
chỉ có một quê hương như là có duy nhất một người mẹ trên đời.
+ Với cách nói phủ định, tác giả khẳng định ý nghĩa to lớn của tình yêu
quê hương với sự “thành người” ở mỗi con người.
-Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, nêu được giá trị
triết lý của đoạn thơ.
2 Suy Nghĩ Về Quê Hương Biển Đảo Việt Nam Thân Yêu
* Giải thích từ ngữ:
23
- Quê hương:
+ Nghĩa hẹp: là nơi mỗi người sinh ra, lớn lên, có gia đình, dòng họ, có
những kỉ niệm thời thơ ấu …
+ Nghĩa rộng: Là quê hương, xứ sở, đất nước …
- Biển đảo: Nước ta giáp với Biển Đông với đường bờ biển kéo dài khoảng
3260km từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Trong đó có hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và hơn 2500 đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng
tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển.
* Tiềm năng và tầm quan trọng của biển đảo:
- Về kinh tế: Hải sản, khoáng sản, dầu mỏ, giao thong, du lịch …
- Về quốc phòng, an ninh: Biển – đảo nước ta có tầm quan trọng hết sức lớn
lao đối với sự phát triển trường tồn của đất nước.
* Vấn đề biển – đảo hiện nay diễn biến rất phức tạp:
- Không chỉ ở nước ta mà ở các nước trên thế giới đã và đang có sự tranh
chấp về biển đảo.
- Với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam chúng ta phải hết sức
khéo léo và kiên quyết để giữ vững chủ quyền biển đảo của dân tộc.

- Là người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ phải có thái độ, tình cảm và
hành động cụ thể trong vấn đề bảo vệ quê hương biển đảo Việt Nam.
Kết quả kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai nhóm có sự khác nhau, do đó
chúng tôi dùng phép kiểm chứng T-Test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số
trung bình của 2 nhóm trước khi tác động.
Bảng 2. Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương
Đối chứng Thực nghiệm
TBC 6,0 6,3
p = 0,135
p = 0,135 > 0,05, từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm Thực
nghiệm và Đối chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm được coi là tương đương.
Sử dụng thiết kế 2: Kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương
đương (được mô tả ở bảng 2):
Bảng: Thiết kế nghiên cứu
Nhóm KT trước tác động Tác động KT sau tác
động
TN 01 01’ Hướng dẫn học sinh soạn văn bằng
sơ đồ tư duy
03
ĐC 02 02’ Không tác động 04
Ở thiết kế này tôi sử dụng phép kiểm chứng T.tes độc lập.
*.Quy trình nghiên cứu
-Chuẩn bị của giáo viên :
+ Lớp đối chứng vẫn dạy học sinh TIẾT TRẢ BÀI bình thường theo sách giáo khoa
24
+ Lớp thực nghiệm :
giáo viên hướng dẫn tiết học SOẠN GIẢNG TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN
(Mô hình mẫu – giáo án chung cho dạng bài TRẢ BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN)
3. ĐO LƯỜNG VÀ THU THẬP DỮ LIỆU
- Bài kiểm tra trước tác động là bài kiểm tra Trả bài viết (thực hiện hai lần)

- Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra kiến thức về Trả bài viết thiết kế riêng.
4. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ
Sau thời gian tiến hành tác động, tiến hành cho học sinh 2 lớp (thực nghiệm và đối
chứng ) làm bài kiểm tra sau tác động (cũng là bài kiểm tra kiến thức thi giữa học kỳ
được thiết kế riêng, tập cho các em làm quen với cách ra đề mới của bộ Giáo dục).
Trên cơ sở kết quả thu được, chúng tôi tiến hành phân tích dữ liệu qua các thông
số: Tính giá trị chênh lệch qua giá trị trung bình của các bài kiểm tra trước và sau
kiểm chứng
Bảng So sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động
Đối chứng Thực nghiệm
ĐTB 7,21 8,09
Độ lệch chuẩn 0,93 0,72
Giá trị P của T- test 0,00003
Chênh lệch giá trị TB chuẩn
(SMD)
0,9

Như trên đã chứng minh rằng kết quả 2 nhóm trước tác động là tương đương. Sau tác
động kiểm chứng chênh lệch ĐTB bằng T-Test cho kết quả P = 0,00003, cho thấy: sự
chênh lệch giữa ĐTB nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng rất có ý nghĩa, tức là
chênh lệch kết quả ĐTB nhóm thực nghiệm cao hơn ĐTB nhóm đối chứng là không
ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD =
9,0
93,0
21,709,8
=

. Điều đó cho thấy mức độ
ảnh hưởng của dạy học có sử dụng soạn giảng tiết trả bài tâp làm văn theo cách mới

TBC học tập của nhóm thực nghiệm là lớn.
25

×