Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.92 KB, 78 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn bộ các thầy cô giáo trong
khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đại học Kinh
tế quốc dân đã tận tình giảng dạy cho em trong suốt quá trình
học tập tại trường. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới
PGS.TS Nguyễn Như Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và
chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành bài chuyên đề
thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc
Công ty TNHH một thành viên sở hữu trí tuệ VCCI đặc biệt
là chú Trần Huy Phương – Giám đốc Công ty và chị Nguyễn
Mai Phương - Trưởng phòng Pháp chế và nhãn hiệu đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến để em hoàn
thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên


Nguyễn Thị Trà Giang
Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT........................................................4
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................... 1
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
HÀNG HOÁ............................................................................................2
1.1. Nhãn hiệu là gì?....................................................................................2
1.1.1. Lịch sử hình thành........................................................................2
1.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu................................................................3


1.1.3. Các khía cạnh giá trị của nhãn hiệu............................................6
1.2. Tại sao cần bảo hộ nhãn hiệu............................................................11
1.3. Thể chế quốc tế và luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam về bảo hộ
nhãn hiệu....................................................................................................14
1.3.1.Thể chế quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu..........................................14
13.2. Luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam............23
1.4. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu................................................................26
1.4.1. Thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam..................................26
1.4.2. Ðăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại nước ngoài............................30
1.4.3.Một số lưu ý khi đăng ký nhãn hiệu..........................................34
CHƯƠNG 2.BẢO HỘ NHÃN HIỆU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM...........................................................................................37
2.1. Khái quát chung.................................................................................37
2.1.1.Trước khi Việt Nam gia nhập WTO...........................................39
2.1.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO..............................................40
2.2. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại nước
ngoài............................................................................................................43
2.3. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam.............................47
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3.1.Khái quát chung về nhãn hiệu nổi tiếng.....................................47
2.3.2.Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam.......................52
2.4. Đánh giá tổng quan về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam..55
2.4.1.Kết quả..........................................................................................55
2.4.2. Hạn chế.........................................................................................57
2.4.3. Nguyên nhân ...............................................................................58
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU.........................................................................................63
3.1. Xu hướng gia tăng nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu sau khi Việt Nam gia

nhập WTO..................................................................................................63
3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp.................................................65
3.4. Các giải pháp từ nhà nước.................................................................67
KẾT LUẬN...........................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................74
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cty Công ty
DN Doanh nghiệp
NH Nhãn hiệu
SHTT Sở hữư trí tuệ
SHCN Sở hữu công nghiệp
TH Thương hiệu
VN Việt Nam
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này mở ra cơ hội to lớn trong việc
phát triển kinh tế đất nước nhưng chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức
đặc biệt là tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc
bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trước hết là do nhu cầu của sự phát triển và
giao lưu quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế,
thương mại diễn ra ngày càng sôi động. Bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ
nói chung và vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng là một hoạt động có
tính tất yếu, khách quan, không ngừng được phát triển, thể hiện trên hai

hướng: mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ bằng các thiết chế quốc
tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ. Điều này, ngày càng gắn chặt
với quan hệ thương mại song phương, khu vực và toàn cầu. Việc gắn bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá với thương mại quốc tế, một mặt, sẽ tạo điều kiện để có
những cơ chế bảo hộ quốc tế hữu hiệu hơn về sở hữu trí tuệ, mặt khác, cũng
sẽ gây ra rất nhiều sức ép và khó khăn cho các nước có trình độ khoa học
công nghệ thấp, đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực hay toàn cầu
phải thực thi các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ.
Vì những ký do kể trên, em xin chọn đề tài: “Bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài cho chuyên đề thực
tập tốt nghiệp của mình.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
HÀNG HOÁ
1.1. Nhãn hiệu là gì?
1.1.1. Lịch sử hình thành
Thuật ngữ tiếng Anh “brand"(nhãn hiệu) bắt nguồn từ chữ "burning"
(đốt cháy), một từ thông dụng theo nghĩa kinh doanh có nghĩa là đốt cháy lên
da hoặc lông của các con thú nuôi, gỗ, kim loại đúc hoặc các hàng hóa khác
thời xưa để in ký hiệu riêng lên đó. Đến thế kỷ XIX, theo từ điển Oxford, từ
này đã mang nghĩa là dấu hiệu của nhãn hiệu thương mại. Vào giữa thế kỷ
XX, từ '"branơ" phát triển rộng ra để bao gồm cả những hình ảnh về một sản
phẩm được ghi lại trong tâm trí người tiêu dùng tiềm năng hoặc cụ thể hơn là
quan niệm về một người hay vật nào đó.
Ngày nay, "brand" được hiểu là tổng hòa tất cả các thông tin về một sản
phẩm, dịch vụ hay một Công ty được truyền đạt tới đối tượng mục tiêu bằng
tên gọi hoặc các dấu hiệu nhận biết khác, như logo hoặc hình tượng. Nhãn
hiệu không phải là cái tên: một tên Công ty nào đó mà không truyền đạt tới

đối tượng mục tiêu thông điệp hay thuộc tính gì thì không thể gọi là một nhãn
hiệu. Các thuộc tính của nhãn hiệu tồn tại trong mắt của người sở hữu và phản
ánh sự tích luỹ các thông điệp truyền thông mà đối tượng mục tiêu đã nhận
được liên quan đến sản phẩm, dịch vụ hay Công ty và những “kinh nghiệm"
mà người tiêu dùng đó đã trải qua với sản phẩm, dịch vụ hay Công ty đó.
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Những người cổ đại thời
kỳ đồ đá vẫn thường trao đổi với nhau những vũ khí được thiết kế khác biệt
với vẻ ngoài đem lại cảm tưởng sẽ giúp họ thành công hơn trong săn bắn.
Những người đóng tàu Viking cũng có những "nhãn hiệu” tàu biển khác nhau.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
Về sau này, khi loài người biết đúc kim loại, nhiều người đã đúc lên sản phẩm
tên họ của mình như một chứng tích khẳng định chất lượng của sản phẩm.
Trên thực tế, định nhãn (branding), hay việc sử dụng các biểu tượng để
truyền đạt các thông tin về một sản phẩm hay dịch vụ có thể được coi là một
hoạt động chỉ riêng gặp ở con người. Đây cũng là nền tảng của thương mại:
nếu không có thông tin về danh tiếng của một người sản xuất hay người bán,
hoạt động thương mại hẳn nhiên sẽ bị ngừng trệ. Tuy nhiên, quyền lực thực
sự của các nhãn hiệu lại có từ khi dấu hiệu này được truyền từ một cá nhân
nào đó sang một cộng đồng kinh doanh lớn hơn. Quá trình chuyển đổi này
tăng cường giá trị nhãn hiệu, mở rộng mức độ ảnh hưởng của nó và kết quả là
nó tạo ra của cải vật chất cho người sở hữu.
1.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu
Nhãn hiệu là những dấu hiệu để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các cơ
sở sản xuất,kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ ,hình ảnh hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được công nhận là có khả năng
phân biệt theo Điều 785 Bộ luật dân sự nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau
đây:

- Được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết hoặc
từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các nhãn hiệu
hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia);
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá nêu trong đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã
nộp cho Cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn (kể cả các đơn về
nhãn hiệu hàng hoá được nộp theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia);
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ
nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5
năm;
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng (theo Điều 6bis Công ước Pari)
hoặc với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được sử dụng và đã được
thừa nhận một cách rộng rãi;
- Không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương
mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ; g) Không
trùng với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc đã được nộp đơn yêu cầu
cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn;
- Không trùng với một hình tượng, nhân vật đã thuộc quyền tác giả của
người khác trừ trường hợp được người đó cho phép.
Các dấu hiệu sau đây không được Nhà nước bảo hộ với danh nghĩa là
nhãn hiệu hàng hoá:

- Dấu hiệu không có khả năng phân biệt, như các hình và hình học đơn
giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như một từ
ngữ; chữ nước ngoài thuộc các ngôn ngữ không thông dụng trừ trường hợp
các dấu hiêu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi;
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
- Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của
hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên,
nhiều người biết đến;
- Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại,
số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô
tả hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo
người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị của hàng
hoá hoặc dịch vụ;
- Dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lương, dấu kiểm tra, dấu
bảo hành... của Việt Nam, nước ngoài cũng như của các tổ chức quốc tế;
- Dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ,
biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc
huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt
Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm
quyền tương ứng cho phép.
Nhãn hiệu gồm:
Nhãn hiệu gắn vào sản phẩm,bao bì sản phẩm để phân biệt sản phẩm
cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau;
Nhãn hiệu dịch vụ gắn vào phương tiện dịch vụ để phân biệt dịch vụ
cùng loại của các cơ sở kinh doanh,dịch vụ khác nhau.
- Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể là:
Chữ có khả năng phát âm,có nghĩa hoặc không có nghĩa,trình bày dưới

dạng chữ viết,chữ in hoặc chữ được viết cách điệu;
Hình vẽ,ảnh chụp;
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
Chữ hoặc tập hợp các chữ kết hợp với hình vẽ,ảnh chụp.
VÍ DỤ:
1. Nhãn hiệu chữ: HONDA
Chủ sở hữu: Công Ty HONDA MOTOR CO.,
LTD (JP)
2. Nhãn hiệu hình: HAI ĐẦU HỔ
Chủ sở hữu: Công Ty TNHH nước giải khát
Hoà Bình
3. Nhãn hiệu hình và chữ: WINCO & hình
Chủ sở hữu: Công Ty luật Sở hữu Trí tuệ WINCO
4. Nhãn hiệu chữ cái dạng hình: IBM
Chủ sở hữu: Công Ty INTERNATIONAL
BUSINESS
MACHINES CORPORATION (US)
1.1.3. Các khía cạnh giá trị của nhãn hiệu
Theo H.J. Riezebos, bên cạnh các giá trị vật lý mà một sản phẩm cụ thể
cung cấp cho khách hàng mục tiêu, nhãn hiệu được đính lên để đưa sản phẩm
vào quá trình lưu thông sẽ góp thêm vào sản phẩm một giá trị tâm lý bao gồm
ba thành tố: mức độ nhận biết về nhãn hiệu (brand awareness), chất lượng
cảm thụ của nhãn hiệu (brand perceived quality), và các ấn tượng liên kết với
nhãn hiệu (brand associations).
- Mức độ nhận biết về một nhãn hiệu: là khả năng mà một khách hàng
tiềm năng có thể nhận ra hoặc nhớ được rằng nhãn hiệu đó được dùng cho
một chủng loại sản phẩm nào đó. Mức nhận biết càng cao, tính quen thuộc
càng lớn, sự tin cậy đối với nhãn hiệu càng dễ được củng cố. Đó là cơ sở ban

đầu của nhu cầu sử dụng các thông điệp quảng cáo: trước một loạt nhãn hiệu
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
của cùng một loại sản phẩm trên cùng một quầy hàng bên trong một siêu thị,
nếu độ chênh biệt về chất lượng, bao bì, giá cả… là không đáng kể, xu hướng
tự nhiên của khách hàng là sẽ chọn lấy các nhãn hiệu mà họ từng được nghe
nhắc đến nhiều nhất, hoặc qua truyền miệng, hoặc qua các phương tiện truyền
thông đại chúng….
Bên cạnh nhu cầu phải tạo dựng mức độ nhận biết về nhãn hiệu, doanh
nghiệp thường cũng cần khẳng định các nỗ lực đảm bảo hoặc nâng cao chất
lượng sản phẩm của mình. Tuy nhiên, đa số người tiêu dùng lại ít có khả năng
hoặc xu hướng sử dụng các chỉ tiêu chất lượng được công bố trong quá trình
so sánh, chọn lựa giữa các nhãn hiệu (ngoại trừ trong lĩnh vực tiếp thị công
nghiệp).
- Chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu: tức sự cảm nhận về tính khác biệt
trong chất lượng tổng thể (đặc biệt là nếu có sự ưu trội) của sản phẩm mang
nhãn so với mục đích tiêu dùng và so với các sản phẩm cùng loại mang các
nhãn hiệu khác. Do đó, trừ khi có bước đột phá về công nghệ và kèm theo đó
là về chất lượng so với đối thủ cạnh tranh, thường thì sức hấp dẫn của một
nhãn hiệu sẽ không nằm ở bản thân các chỉ tiêu kỹ thuật, mà sẽ phụ thuộc
nhiều hơn vào nghệ thuật chọn lựa và sử dụng các ngôn từ đơn giản, gần gũi
và thuyết phục để diễn đạt về hiệu quả của các chỉ tiêu kỹ thuật đó đối với
khách hàng mục tiêu: CÔ GÁI HÀ LAN 1,2,3 khẳng định “triple care”,
EXPO nắp đỏ nhấn mạnh nguồn gốc đậu nành của sơn dầu alkyd, ABBOTT
gọi GAIN IQ là dưỡng chất cho trí tuệ…
Biện chứng về chất lượng trong quản trị nhãn hiệu là, trong khi chất
lượng tuyệt đối là kết quả của một quy trình sản xuất tương đối phức tạp để
giúp sản phẩm đáp ứng một nhu cầu (need) xác định (ăn phở gà, uống nước
ngọt, đi taxi, xem hài kịch…); thì chất lượng cảm thụ lại là một cảm nhận tâm

Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
(sinh) lý tương đối đơn giản về phương thức, mức độ mà sản phẩm đó thỏa
mãn các ước muốn (wants) đa dạng (và thường là thầm kín) trong quá trình
mà nhu cầu liên quan được đáp ứng (quán nào? hương vị gì? hãng xe? ai
diễn?…). Chất lượng tuyệt đối tồn tại mặc nhiên trong sản phẩm và có thể
chủ động định đoạt bởi doanh nghiệp; trong khi chất lượng cảm thụ hình
thành trên cơ sở của các so sánh và phải tìm cách nhận diện trong mối quan
hệ với cơ sở khách hàng của nhãn hiệu (brand’s customer base). Chất lượng
tuyệt đối là một giá trị có tính chất vật lý nói chung chỉ có thể cao hay thấp;
trong khi chất lượng cảm thụ là một giá trị tâm (sinh) lý lại có thể âm hoặc
dương. Phấn đấu đạt mức chất lượng tuyệt đối ngang ngửa với các đối thủ
cạnh tranh là mục tiêu của hoạt động quản trị chất lượng; nhận diện và nâng
cao chất lượng cảm thụ là một trong các đối tượng của hoạt động quản trị
marketing nói chung và quản trị nhãn hiệu nói riêng.
Chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu không phải là một giá trị vận hành
một cách biệt lập. Một mức độ nhận biết cao về nhãn hiệu cũng là một yếu tố
làm tăng chất lượng cảm thụ; đặc biệt, các ấn tượng liên kết với nhãn hiệu có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm rõ và làm mạnh mức độ nhận biết
(về) cũng như chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu.
- Ấn tượng liên kết là mọi liên tưởng về nhãn hiệu trong trí nhớ của
khách hàng: TRUNG NGUYÊN với các hoài bão của Đặng Lê Nguyên Vũ,
BITI’S với “nâng niu bàn chân Việt”, BIA SÀI GÒN nhắc nhở “có thể bạn
không cao nhưng ai cũng phải ngước nhìn”…. Các liên tưởng đó có khi nhằm
làm tăng độ thân thuộc của sản phẩm (gần gũi của KYMDAN), có khi để chia
sẻ tâm lý với khách hàng (trẻ trung của KOTEX, vui nhộn của FANTA), có
lúc nhằm diễn đạt địa vị xã hội (thời trang của SPACY, sang trọng của
MERCEDES)…. Vai trò của các ấn tượng liên kết là làm tăng thêm giá trị
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
tâm lý cho sản phẩm thông qua việc làm giàu hình ảnh và cảm xúc về nhãn
hiệu trong quá trình chọn mua và sử dụng một sản phẩm mang nhãn.
Tuy nhiên, ngay cả khi chất lượng cảm thụ hoặc các ấn tượng liên kết
của một nhãn hiệu được bảo tồn, chiến thuật cạnh tranh liên tục bằng giá cả
hoặc khuyến mãi của các nhãn hiệu cạnh tranh cũng có thể khiến cho người
tiêu dùng thay đổi nhãn hiệu trong ngắn hạn, trung hạn, hoặc dài hạn. Do vậy,
không thể không xem xét đến một thành tố giá trị quan trọng khác: ý hướng
trung thành với nhãn hiệu (brand loyalty). David A. Aaker cho rằng có thể
phân “ý hướng trung thành” thành năm cấp độ từ thấp tới cao thông qua khái
niệm “tháp ý hướng trung thành” (The Loyalty Pyramid). Ở cấp độ thấp nhất
là những người tiêu dùng không quan tâm gì đến các nhãn hiệu (no brand
loyalty), đối với họ, các nhãn hiệu là không khác biệt gì nhau và họ dễ dàng
thay đổi nhãn hiệu tùy theo giá cả (switchers). Ở cấp độ thứ hai, người tiêu
dùng thỏa mãn với nhãn hiệu và có thể gọi là khách hàng quen biết (habitual
buyers), chủ yếu do họ không có gì không ưng ý đối với sản phẩm mang
nhãn, nhưng chỉ cần nhãn hiệu cạnh tranh đưa ra được một lý do đáng chú ý
(mà không cần phải có bất kỳ một nỗ lực nào) thì họ có thể đổi nhãn. Ở cấp
độ thứ ba cũng là các khách hàng quen biết, nhưng muốn họ đổi nhãn, nhãn
hiệu cạnh tranh phải gánh chịu một khoản chi phí thuyết phục nhất định
(switching cost). Ở cấp độ thứ tư là các khách hàng ưa thích nhãn hiệu nhờ
vào chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu hay một số ấn tượng liên kết nào đó,
thường đi kèm với quá trình sử dụng nhãn hiệu khá lâu dài, được gọi là các
khách hàng thân thiết (friends of the brand). Ở cấp độ cao nhất là các khách
hàng tận tâm với nhãn hiệu (committed customers), họ cảm thấy có sự tự hào
nhất định khi sử dụng nhãn hiệu và luôn sẵn sàng giới thiệu nhãn hiệu với
người tiêu dùng khác.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như

Bình
Một nhãn hiệu đã đạt được một mức độ nhận biết nhất định, đã có được
một chất lượng cảm thụ khác biệt, đã có các ấn tượng liên kết phong phú và
qua đó đã duy trì và nâng cao được ý hướng trung thành của khách hàng, sẽ
tạo đuợc một uy tín, danh tiếng (reputation)… nhất định hoặc nói một cách
khác là lợi thế hình ảnh (trademark goodwill) trên thương trường. Có thể
phân định ra hai cấp độ của lợi thế hình ảnh: nhãn hiệu được nhận biết rộng
rãi (well known mark) là nhãn hiệu chỉ có năng lực gợi nhớ (brand recall) cao
do được phân phối và/hoặc quảng bá rộng rãi, và nhãn hiệu nổi tiếng (famous
mark) là nhãn hiệu không chỉ được nhận biết rộng rãi mà còn có hoặc chất
lượng cảm thụ, hoặc các ấn tượng liên kết, hoặc ý hướng trung thành, hoặc
một sự tổ hợp nào đó của hai hay cả ba thành tố giá trị trên đạt đến một mức
độ nhất định.
Tuy nhiên, nếu nhãn hiệu đó không được bảo hộ pháp lý đúng mức, sẽ bị
hạn chế hoặc thậm chí mất hẳn khả năng chống lại các hoạt động sản xuất
hàng giả hoặc hàng nhái nhằm lợi dụng các thành quả đầu tư của nhãn hiệu.
Ngược lại, nếu nhãn hiệu đó khởi động việc đi vào thị trường một nước khác
bằng hoạt động đăng ký bảo hộ pháp lý kịp thời, nhãn hiệu sẽ ngăn chặn được
khả năng xâm nhập thị trường của các nhãn hiệu trùng lắp hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn dùng cho sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh.
Hơn nữa, nếu sản phẩm mang nhãn có sử dụng một sáng chế hoặc kiểu
dáng công nghiệp độc quyền hay các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được
bảo hộ khác (thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng mới, chỉ
dẫn địa lý), nhãn hiệu có thể tạo lập và duy trì được chất lượng cảm thụ riêng
có so với các nhãn hiệu cạnh tranh, và xác lập được cho mình một lợi thế
pháp lý trên thương trường. Bên cạnh đó, nhãn hiệu còn có thể tạo lập được
lợi thế công nghệ nếu tập trung thành công vào việc áp dụng và khai thác liên
tục các kỹ thuật mới nhằm tạo thế đột phá cho sản phẩm mang nhãn, hoặc lợi
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như

Bình
thế thương mại qua hoạt động kinh doanh lâu năm hay tranh thủ hợp lý các
thời cơ thị trường để chi phối hoặc khai thác tốt kênh phân phối. Cuối cùng,
lợi thế tài chính nhờ tích lũy hay khai thác được các nguồn đầu tư dồi dào là
một yếu tố hết sức quan trọng tạo khả năng tận dụng tốt hơn mọi thời cơ so
với đối thủ cạnh tranh.
Như vậy, trong khi tên thương mại, nhãn hiệu và biểu tượng kinh doanh
(logo) thiên về hướng phản ánh mặt chủ quan của doanh nghiệp: xuất xứ, quy
mô, tầm cỡ, sức mạnh chuyên môn, phong cách kinh doanh…; thì trong quá
trình được đính lên sản phẩm để đi vào thương trường, một sản phẩm mang
nhãn lại phải tập trung theo hướng tìm hiểu, đáp ứng và thể hiện mặt khách
quan trong mối quan hệ với khách hàng: nhu cầu, ước muốn, nét tính cách của
người tiêu dùng mục tiêu và yêu cầu khác biệt hóa so với nhãn hiệu của đối
thủ cạnh tranh. Tùy theo cấu trúc phong cách kinh doanh của doanh nghiệp,
các giá trị và các nét tính cách của nhãn hiệu/lô-gô và các giá trị và các nét
tính cách của nhãn hiệu có thể hội tụ (trong phong cách đa diện), trùng nhau
(trong phong cách nhất thể) hay phân kỳ và tách biệt (trong phong cách đa
nhãn).
1.2. Tại sao cần bảo hộ nhãn hiệu
Trong quá trình kinh doanh, các DN trên toàn thế giới đều đã nhất trí:
Nhãn hiệu là một tài sản của DN, gắn chặt nhất với quá trình lưu thông hàng
hoá. Thông qua nhãn hiệu, nhà sản xuất có thể quảng cáo về sản phẩm, về bản
thân DN mình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhãn hiệu sẽ
đại diện cho danh tiếng, chất lượng và uy tín của sản phẩm, của DN sản xuất
ra sản phẩm đó: Khi nhắc tới IBM, người ta biết tới một DN hàng đầu cung
cấp các máy chủ chất lượng cao và ổn định. Ngoài ra, nhãn hiệu sẽ giúp người
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
tiêu dùng phân biệt sản phẩm của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác để

họ lựa chọn.
Sự bảo hộ nhãn hiệu loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng đối với
những sản phẩm và dịch vụ tương tự không bảo hộ. Những hành vi gây tổn
thất, làm giảm uy tín hoặc xâm phạm giá trị của nhãn hiệu đã được bảo hộ có
thể gây hại lớn đến hoạt động kinh doanh của DN.
Nói chung, việc đăng ký nhãn hiệu không phải là đòi hỏi có tính chất bắt
buộc nhưng nếu không làm thủ tục đăng ký, Nhãn hiệu sẽ bị bắt chước dẫn
đến các rủi ro không dễ dàng vượt qua được. Một nhãn hiệu không được đăng
ký, tức là không có cơ sở pháp lý để pháp luật bảo hộ. Khi có người khác sử
dụng nhãn hiệu y hệt hoặc tương tự với nhãn hiệu của bạn và cho cùng loại
sản phẩm hoặc dịch vụ mà bạn kinh doanh, bạn bị rơi vào trạng thái bị cạnh
tranh trực diện, bạn bị mất thị phần và mọi thành quả do bạn xây đắp cho
nhãn hiệu đó (quảng cáo, tiếp thị, uy tín được xác lập trong tiềm thức khách
hàng) đều bị đối thủ cạnh tranh khai thác. Khi đó, bạn phải nghĩ đến pháp luật
và nhờ pháp luật can thiệp. Trong tình thế nhãn hiệu không được đăng ký,
dường như không thể nhận được sự can thiệp của pháp luật bởi vì pháp luật
không bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa không đăng ký.
Đây không chỉ là công cụ hữu hiệu giúp bảo vệ quyền sở hữu và sử dụng
độc quyền nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp tại thị trường trong và ngoài
nước, mà còn là cơ sở quan trọng nhất để giúp giải quyết một cách thoả đáng
những tranh chấp thương mại xảy ra liên quan đến vi phạm về bản quyền,
quyền sở hữu, từ đó bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các doanh
nghiệp.
Theo bà Phạm Thị An, chuyên gia thuộc Công ty TNHH tư vấn
(Anphaco Ltd), Phạm Anh Nguyên, nhãn hiệu ngày càng được coi là tài sản
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
có giá trị lớn nhất của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các tập đoàn xuyên
quốc gia có quy mô càng lớn, thì giá trị của các nhãn hiệu càng cao và nếu có

thể định giá được thì cũng phải vào khoảng vài chục tỷ USD. Bà An dẫn
chứng ra một số nhãn hiệu có giá trị vào loại cao đã được Tạp chí Business
Week công bố, như Coca - Cola khoảng 67,52 tỷ USD, Microsoft gần 60 tỷ
USD, IBM 53 tỷ USD, Nokia 26,5 tỷ USD, Mc Donald’s 26 tỷ USD, Toyota
24,9 tỷ USD... (Nguồn: Cục SHTT).
Đối với những tập đoàn trên, việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu độc
quyền nhãn hiệu là điều tối quan trọng, giúp họ có thể tránh được bất cứ sự
xâm phạm nào về bản quyền sử dụng, cũng như giúp họ giải quyết hữu hiệu
trong trường hợp bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. “Đây là một yêu cầu hết
sức quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập, bởi khi doanh
nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường, một khi đã có được thế vững
chắc trong lòng người tiêu dùng, chắc chắn nhãn hiệu của doanh nghiệp đó sẽ
là mục tiêu "nhòm ngó" của nhiều nhà sản xuất của nước sở tại”.
Nếu chậm chân không đăng ký kịp thời nhãn hiệu thì DN dễ bị mất nhãn
hiệu, mất thị trường, do đó nhiều kế hoạch kinh doanh của DN bị phá sản và
hoạt động xuất nhập khẩu của DN sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong trường hợp
mất nhãn hiệu mà hàng chưa xuất vào thị trường thì việc xuất hàng sẽ không
thực hiện được. DN phải thay đổi nhãn hiệu khác nếu muốn tiếp tục xuất
khẩu, do đó tốn thêm chi phí. Nếu hàng đang xuất vào thị trường đó thì người
chiếm đoạt nhãn hiệu có thể yêu cầu pháp luật can thiệp và hàng hoá nhập
khẩu có thể bị bắt giữ, chủ hàng bị xử phạt, mất thị phần. Đó là chưa kể đến
việc bị làm hàng giả, hàng nhái, ảnh hưởng đến uy tín DN.
Việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa mang tính lãnh thổ: nhãn hiệu đăng ký ở
nứơc nào thì chỉ bảo hộ trên lãnh thổ nước đó. Muốn mở rộng phạm vi bảo hộ
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
nhãn hiệu của mình sang lãnh thổ nước khác thì doanh nghiệp phải làm thủ
tục đăng ký nhãn hiệu ở nước đó. Một trong những lý do cơ bản của việc
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nứơc ngoài là nhằm giành được độc quyền khai

thác, sử dụng nhãn hiệu và ngăn cản người khác khai thác, sử dụng nhãn hiệu
của doanh nghiệp tại nước đăng ký bảo hộ. Đây là việc làm có ý nghĩa đăc
biệt quan trọng đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động của
mình ra nước ngoài dưới hình thức đầu tư hoặc xuất khẩu hàng hóa.
1.3. Thể chế quốc tế và luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam về bảo hộ nhãn
hiệu
1.3.1.Thể chế quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu
Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, tiếng Anh viết tắt là WIPO, được thành
lập trên cơ sở Công ước ký tại Stockholm này 14/07/1967 gọi là Công ước về
việc thành lập "Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới". Đây là một tổ chức liên
chính phủ có trụ sở tại Geneve, Thụy Sỹ và là một trong 16 Tổ chức chuyên
môn của Liên Hiệp Quốc. WIPO có trách nhiệm thúc đẩy việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới thông qua sự hợp tác giữa các quốc
gia và quản lý các hiệp định, hiệp ước khác nhau liên quan đến các khía cạnh
luật pháp và quản lý sở hữu trí tuệ. Tính đến ngày 22/06/1999 số nước thành
viên của WIPO là 171. Việt Nam là thành viên của WIPO từ ngày
02/07/1976.
Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN
Được thông qua vào ngày 20/3/1883, được sửa đổi tại Brussels ngày
14/12/1900, tại Washington ngày 2/6/1911, tại LaHay ngày 6/11/1925, tại
London ngày 2/6/1934, tại Lisbon ngày 31/10/1958 và tại Stockholm ngày
14/7/1967, và được tổng sửa đổi ngày 28/9/1979.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
Công ước tạo lập cơ sở chung nhất cho các thỏa thuận đa phương và
song phương khác về bảo hộ quyền SHCN. Công ước đề ra nguyên tắc “đối
xử quốc gia” (Điều 2) mà theo đó, công dân Việt Nam có quyền được hưởng
các điều kiện thuận lợi như công dân của bất kỳ một nước thành viên nào

khác trong việc bảo hộ nhãn hiệu (NH) tại nước đó, miễn là tuân thủ các điều
kiện và thủ tục quy định đối với công dân của nước tương ứng
Công ước cũng đề ra nguyên tắc được hưởng quyền ưu tiên trong việc đăng
ký mở rộng thị trường quốc tế (các Khoản A,B,C Điều 4) theo đó, nếu một công
dân Việt Nam đã nộp đơn đầu tiên để đăng ký NH tại bất kỳ một trong các nước
thành viên nào của Công ước, trong thời hạn 6 tháng tiếp theo, nếu tiếp tục nộp
đơn đăng ký NH đó vào các nước thành viên khác, sẽ có quyền yêu cầu các quốc
gia liên quan xem ngày ưu tiên của các đơn nộp tiếp sau này sẽ là ngày đã nộp
đơn đầu tiên. Đặc biệt, Công ước quan tâm đến việc bảo hộ các NH nổi tiếng
(Điều 6 bis), theo đó, các nước thành viên có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ
đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng một NH có tính sao chép, bắt chước, phiên dịch
... và có khả năng gây nhầm lẫn với một NH đã được cơ quan có thẩm quyền coi
là NH nổi tiếng tại nước đó.
Thoả ước Madrid và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước :
Thoả ước này được ký tại Madrid năm 1891, trong đó quy định việc đăng
ký quốc tế Nhãn hiệu hàng hoá tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva. Theo Thoả ước này thì công dân của một nước
thành viên của Thoả ước muốn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hoá của mình tại
nhiều nước thành viên khác, trước tiên phải đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của
mình tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia, sau đó thông qua Cơ quan Sở
hữu công nghiệp quốc gia có thể nộp đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng
quốc tế của WIPO. Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và chỉ
rõ những nước thành viên mà người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
hoá của mình (nước được chỉ định). Nước được chỉ định có thời gian 1 năm
để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trên lãnh thổ
của mình. Nếu sau 1 năm nước được chỉ định không có ý kiến thì nhãn hiệu
hàng hoá coi như được chấp nhận bảo hộ ở nước đó.

Thoả ước Madrid hiện có 78 thành viên. Việt Nam tham gia Thoả ước
này từ ngày 08/03/1949.
Nghị định thư liên quan tới Hiệp định Madrid về đăng ký các nhãn hiệu
quốc tế - Nghị định thư Madrid - đã được thông qua tại thủ đô Tây Ban Nha
ngày 27/6/1989, và có hiệu lực ngày 1/12/1995. Nghị định thư này là một trong
hai hiệp định tạo nên hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế Madrid. Hiệp định đầu
tiên - Hiệp định Madrid 1891 - đã quy định đăng ký nhãn hiệu ở một số quốc gia
thông qua việc đăng ký nhãn hiệu quốc tế với WIPO tại Geneva.
Nghị định thư Madrid đã ra đời vì một số quốc gia gặp nhiều khó khăn
trong quá trình thực hiện Hiệp định Madrid. Điều đó được coi là cải thiện hệ
thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế. Do đó, ngày càng nhiều chủ sở hữu nhãn
hiệu đang sử dụng Nghị định thư Madrid mỗi năm để bảo hộ nhãn hiệu của họ
ở nước ngoài. Tính đến ngày 15/9/2005, đã có 66 quốc gia ký kết Nghị định
thư Madrid.
Nghị định thư Madrid là một hiệp định về thủ tục lập hồ sơ chứ không
phải là hiệp định điều chỉnh về mặt nội dung. Nghị định thư giúp những người
sở hữu nhãn hiệu - các cá nhân và doanh nghiệp - bảo vệ được nhãn hiệu của
họ một cách hiệu quả cùng một lúc ở nhiều quốc gia thông qua việc lập hồ sơ
xin cấp bằng phát minh sáng chế tới một cơ quan duy nhất với một ngôn ngữ,
một khoản chi phí và một loại tiền tệ. Hơn nữa, không cần phải lập hồ sơ qua
trung gian. Đơn xin cấp bằng phát minh, sáng chế có thể được lập bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp hoặc Tây Ban Nha.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
Việc nộp hồ sơ đăng ký mang tính quốc tế cũng có hiệu quả tương tự
như hồ sơ đăng ký nhãn hiệu ở trong nước như đã được người nộp hồ sơ lựa
chọn. Khi cơ quan bảo hộ nhãn hiệu ở một quốc gia được lựa chọn đồng ý
bảo hộ thì nhãn hiệu đó sẽ được bảo hộ trong toàn hệ thống tương tự như cơ
quan này đã đăng ký.

Nghị định thư Madrid cũng đơn giản hóa việc quản lý nhãn hiệu bởi lẽ
một thủ tục đơn giản sẽ giúp Cục Quốc tế của WIPO cập nhật được những
thay đổi sau này về sở hữu, hoặc tên, hoặc địa chỉ của người sở hữu nhãn
hiệu.
Trước khi nghị định thư được ban hành, các yêu cầu hành chính phức
tạp đối với việc chuyển giao tài sản bình thường của doanh nghiệp đã gây khó
khăn cho những người sở hữu thực hiện việc chuyển nhượng hợp pháp các
nhãn hiệu của họ trên thế giới. Nghị định thư đã cho phép người sở hữu đăng
ký trên phạm vi quốc tế chỉ bằng một hồ sơ duy nhất, trả tiền một lần trước
khi chuyển nhượng một nhãn hiệu ở tất cả mọi quốc gia tham gia ký kết. Việc
gia hạn đăng ký cũng chỉ có duy nhất một thủ tục đơn giản. Việc đăng ký trên
phạm vi quốc tế có thời hạn 10 năm và thời gian gia hạn mới là 10 năm.
Những người sở hữu nhãn hiệu có thể lựa chọn thêm một số quốc gia
nữa nếu họ quyết định tìm cách bảo hộ ở nhiều quốc gia thành viên hơn hoặc
nếu có thêm nhiều quốc gia mới gia nhập nghị định thư.
Nếu việc đăng ký cơ bản - hoặc việc đăng ký làm cơ sở cho đăng ký quốc tế
- bị hủy vì bất kỳ lý do gì trong năm năm đầu tiên thì công ước Madrid sẽ tạo
điều kiện cho người đăng ký quốc tế chuyển việc đăng ký đó thành một loạt các
hồ sơ đăng ký ở các quốc gia tham gia ký kết như đã lựa chọn. Các đơn đăng ký
này sẽ giữ nguyên ngày ưu tiên như đã nêu trong hồ sơ đăng ký quốc tế ban đầu
ở mỗi nước. Người sở hữu cũng bảo lưu quyền ở mỗi quốc gia thành viên, ngay
cả khi không thực hiện được đăng ký quốc tế.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS có hiệu lực vào năm 1995 trong khuôn khổ Hiệp định
Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. TRIPS đã tổng hợp và xây dựng
trên cơ sở các hiệp định quan trọng và mới nhất về sở hữu trí tuệ do Tổ chức
Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thực thi với Công ước Paris về Bảo hộ Tài

sản Công nghiệp và Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật – những hiệp định có từ những năm 1880.
Hiệp định TRIPS có vị thế độc nhất trong số các điều ước quốc tế về
IPR bởi lẽ việc trở thành thành viên của WTO đồng nghĩa với việc tham gia
“trọn gói” các hiệp ước. Nói cách khác, các quốc gia thành viên của WTO
không được phép lựa chọn các hiệp ước mà phải tuân thủ tất cả các hiệp ước
đa phương của WTO, bao gồm cả TRIPS.
Hiệp định TRIPS áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc
tế đối với các quốc gia thành viên về sở hữu trí tuệ, trong đó có quy chế đối
xử quốc gia và quy chế tối huệ quốc. TRIPS cũng đề ra các chuẩn mực tối
thiểu về mức độ, phạm vi và việc sử dụng bảy hình thức sở hữu trí tuệ - quyền
tác giả, nhãn hiệu, xuất xứ địa lý, thiết kế công nghiệp, bằng phát minh sáng
chế, thiết kế bố trí mạch điện tử tích hợp và thông tin mật (bí mật thương
mại). TRIPS cũng nêu cụ thể những hạn chế và ngoại lệ có thể chấp nhận
nhằm hài hòa lợi ích sở hữu trí tuệ với lợi ích trong những lĩnh vực khác,
chẳng hạn như sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế. (Toàn văn Hiệp định
TRIPS cũng như phần giải thích các điều khoản của hiệp định có tại trang
web của WTO ).
Theo Hiệp định TRIPS, các nước phát triển hoàn toàn thực thi hiệp định
này vào ngày 1/1/1996. Các quốc gia đang phát triển và những thành viên
đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường được phép lùi ngày thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong TRIPS đến 1/1/2000. Các nước kém
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
phát triển được phép bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ của mình vào ngày
1/1/2006, và có khả năng được kéo dài thời kỳ chuyển giao nếu có yêu cầu.
Các quốc gia đang phát triển chưa có quy định bảo hộ bằng phát minh sáng
chế đối với một số lĩnh vực công nghệ nhất định tính đến thời điểm xin gia
nhập thì được phép kéo dài thêm năm năm nữa, tức là đến ngày 1/1/2005, để

ban hành quy định bảo hộ như vậy.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Thương mại của WTO tại Doha năm 2001, các
quốc gia kém phát triển đã được gia hạn thêm 10 năm để thực thi các quy
định về bảo hộ bằng phát minh sáng chế và “bí mật thương mại” trong khuôn
khổ của TRIPS vì những quy định này có liên quan đến dược phẩm.
Tuy nhiên, do Hiệp định TRIPS đã trải qua 10 năm nên không thể
bao hàm được một số diễn biến mới, như các vấn đề về Internet và tác
quyền kỹ thuật số, công nghệ sinh học tiên tiến, và quá trình nhất thể hóa
những chuẩn mực toàn cầu về luật pháp hoặc thông lệ. Hiệp định này mới
chỉ đặt nền tảng cho việc bảo hộ IPR ở mức tối thiểu chứ chưa phải tối đa.
Kể từ khi ký kết Hiệp định TRIPS, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới đã
giải quyết nhiều vấn đề tác quyền kỹ thuật số trong các hiệp định về Internet,
cụ thể Hiệp định Quyền tác giả của WIPO (WCT) và Hiệp định về Biểu diễn
và Ghi âm của WIPO (WPPT).
Yêu cầu:
Nhìn chung, hiện có 9 loại tài sản trí tuệ đang được thừa nhận và bảo hộ
bởi các công ước quốc tế. Đó là:
- Các phát minh sáng chế trong lĩnh vực chế tạo (Công ước Pari; Hiệp
ước hợp tác về phát minh sáng chế; Hiệp ước Buđapét);
- Các giải pháp hữu ích như các thiết kế chức năng trong lĩnh vực chế tạo
(Công ước Pari);
- Nhãn hiệu thương mại phân biệt hàng hóa và dịch vụ của các doanh
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
nghiệp khác nhau (Công ước Pari; Hiệp định Mađrít; Hiệp ước về Luật nhãn
hiệu thương mại);
- Thiết kế công nghiệp trong lĩnh vực may mặc, ô tô, điện tử (Hiệp ước
Hague; Công ước Pari; Hiệp định Lôcácnô);
- Chỉ dẫn địa lý xác định nguồn gốc và đặc tính của các sản phẩm

nông nghiệp như rượu, bia (Hiệp định Lixbon; Hiệp định Mađrít về những chỉ
dẫn giả);
- Bản quyền và các quyền cận kề trong các lĩnh vực in ấn, giải trí, phần
mềm, phát thanh truyền hình (Công ước Bécnơ; Công ước Rôm; Công ước
Giơnevơ; Công ước Brucxen; Công ước chung về bản quyền);
- Các giống và sản phẩm cây con mới trong nông nghiệp và công nghiệp
thực phẩm (Liên hiệp Bảo hộ quốc tế đối với các loại cây trồng mới - UPOV);
- Thiết kế mạch tích hợp trong công nghiệp vi điện tử (Hiệp ước
Oasinhtơn);
- Bí mật thương mại.
Trừ UPOV, tất cả các hiệp định quốc tế nêu trên đều nằm trong sự quản
lý của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) mà Việt Nam là thành viên
Điều 15 Hiệp định TRIPS quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết hợp các
dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hoá , dịch vụ của doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá.
Chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có độcquyền ngăn chặn tất cả các bên
thứ ba sử dụng trái phép trong hoạt động thương mại các dầu hiệu trùng hoặc
tương tự đối với hàng hoá hoặc dịch vụ giống hệt hoặc tương tự với hàng hoá
đã được đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của mình nếu việc sử dụng này có nguy
cơ gây nhầm lẫn. Điều 16 qui định các thành viên của WTO phải tuân thủ
điều 6bis của Công ươcs Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Như
Bình
Điều 17 của Hiệp định cho phép các thành viên của WTO áp dụng một
số ngoại lệ nhất định đối với các quyền liên quan đến một nhãn hiệu hàng
hoá, chẳng hạn như sử dụng các thuật ngữ mang tính mô tả với mục đích lành
mạnh, với điều kiện những ngoại lệ này không làm tổn hại đến lợi ích hợp
pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.

Các thành viên của WTO có thể quy định các điều kiện cấp Lixăng và
chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hoá, trong đó không được quy định việc cấp
lixăng không tự nguyện và chủ sở hưu nhãn hiệu hàng hoá đã đăng kí có
quyền chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hoá đó có hoặc không kèm theo việc
chuyển nhượng cơ sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hoá đó.
Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng háo là không dưới 7 năm và có
thể được gia hạn với số lần không hạn chế.
Một mặt nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy việc bảo hộ một cách có
hiệu quả và toàn diện quyền SHTT, mặt khác muốn bảo đảm rằng những biện
pháp và thủ tục thực thi quyền SHTT không trở thành các chướng ngại cho
hoạt động thương mại quốc tế, đã đưa ra những quy định tối thiểu mà mỗi
quốc gia thành viên đều phải tuân thủ, đặc biệt nhấn mạnh các thủ tục và các
biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự đối với các hành vi xâm phạm
quyền, kiểm soát biên giới về SHTT, ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp liên
quan đến SHTT giữa các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
Hiệp ước về luật nhãn hiệu
Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT), được thông qua ngày 27/10/1994, đã
có hiệu lực ngày 1/8/1996. Tính đến ngày 1/7/2005, 33 quốc gia, trong đó có
Hoa Kỳ, đã tham gia hiệp định. TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ
tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc
gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan cấp phép đăng ký nhãn
hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những yêu cầu tối
Nguyễn Thị Trà Giang Kinh tế quốc tế 46

×