Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đẩy mạnh cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.6 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
a. đặt vấn đề
Trong công cuộc đổi mới đất nớc những năm gần đây, nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung ở Việt Nam đã từng bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng
nh một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay
đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh
nghiệp thì nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nớc đã bộc lộ đầy đủ
những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng. Đại hội VI, VII, VIII
của Đảng đã xác định khâu đột phá để đổi mới nền kinh tế là sắp xếp và đổi
mới quản lý doanh nghiệp Nhà nớc. Một trong những giải pháp có tính chiến l-
ợc để giải quyết vấn đề này là tiến hành " cổ phần hoá một số doanh nghiệp
Nhà nớc nhằm đa dạng hoá sở hữu, đa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng
hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền
kinh tế thị trờng".
Sau hơn 12 năm thực hiện chủ trơng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc ,
cho đến nay đã có gần 2500 doanh nghiệp đợc cổ phần hoá. Nhìn chung các
doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh
nghiệp sau cổ phần hoá . Việc nhận thức đúng bản chất, tầm quan trọng, thực
trạng các doanh nghiệp cổ phần hoá và tìm biện pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp này phát triển tốt hơn là vấn đề bức xúc hiện nay.
Xuất phát từ tính thời sự của vấn đề này, đề án kinh tế chính trị của em đã
đợc thực hiện với đề tài :
" Đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt
Nam"

1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b. nội dung
I. Một số vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nớc:


1. Khái niệm về cổ phần hóa:
Điều 1 Thông t số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính quy định: "
Doanh nghiệp nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần ( hay còn gọi là cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nớc) là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu
nhà nớc sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở
hữu nhà nớc ".
Luật Công ty ngày 21/12/1990 và Luật sửa đổi một số điều luật Công ty: "
Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn gọi chung là doanh nghiệp
trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tơng
ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty
trong phạm vi phần vốn của mình vào công ty."
2. Bản chất cổ phần hoá:
ở nớc ta, chủ trơng cổ phần hoá (CPH) một số doanh nghiệp nhà nớc
(DNNN) xuất phát từ đờng lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của nớc ta
trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội
chủ nghĩa. Chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý
cho phù hợp với đờng lối ấy. Đó là sự chuyển hớng chiến lợc kinh tế - xã hội
của nớc ta, đó cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội
dung và phơng thức CPH DNNN. Trên cơ sở đó, cần nhận thức rằng: Thực chất
CPH ở nớc ta là nhằm cơ cấu lại DNNN cho hợp lý và hiệu quả, còn việc
chuyển đổi sở hữu của Nhà nớc thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ
phần chỉ là một trong những phơng tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên.
CPH DNNN xét về bản chất kinh tế là quá trình chuyển đổi hình thức
sở hữu một phần tài sản của Nhà nớc thành sở hữu của các cổ đông, tạo ra
dạng sở hữu hỗn hợp, trong đó Nhà nớc có thể giữ một tỷ lệ nhất định - hình
thành các công ty cổ phần.
Cụ thể:
2.1. Công ty cổ phần là sản phẩm xã hội hoá sản xuất và của nền kinh tế
thị trờng:

Công ty cổ phần là biểu hiện hình thức vận hành ở góc độ quan hệ sản xuất
của sự xã hội hoá sản xuất. Theo cách nói của Mác thì nó là " t bản xã hội". T
bản, tự nó vốn dựa trên phơng thức sản xuất xã hội và đòi hỏi phải có sự tập
trung xã hội về t liệu sản xuất và sức lao động, ở đây trực tiếp mang hình thái t
bản, t bản xã hội (t bản của những cá nhân trực tiếp liên hệ với nhau). Mác coi
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó là " hình thái quá độ từ phơng thức sản xuất TBCN sang phơng thức sản xuất
tập thể".
Công ty cổ phần là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài gắn liền với
những nấc thang phát triển của xã hội hóa sở hữu t nhân. Về mặt lịch sử, quá
trình tiến hoá của các doanh nghiệp đợc đặc trng bởi 3 loại hình chủ yếu tơng
ứng với 3 mức độ phát triển của xã hội hoá t nhân: hình thái kinh doanh một
chủ, hình thái kinh doanh chung vốn và hình thái công ty cổ phần. Hình thái
công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh
chủ yếu dựa vào vay mợn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn
trên thị trờng tài chính, trong đó chủ yếu là thị trờng chứng khoán. Các công ty
cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trờng chứng
khoán. Đổi lại, sự thịnh vợng của thị trờng này tạo điều kiện cho các công ty cổ
phần sinh sôi nảy nở. Có thể nói công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm
mới cho phép thích ứng với những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá cao và sự
phát triển nền kinh tế thị trờng hiện đại mà những hình thái khác không đáp ứng
đợc. Đó là :
- Công ty cổ phần là một tổ chức kinh tế có t cách pháp nhân và các cổ
đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều
này cho phép công ty có t cách pháp lý đầy đủ để huy động những lợng vốn rải
rác trong nhiều cá nhân trong xã hội.
- Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện đợc việc tách biệt
quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu:
Một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần, còn bên kia là đội ngũ những

nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng thiết bị xã hội cho những công
cuộc kinh doanh quy mô lớn.
- Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần đợc chuyển nhợng dễ
dàng trên thị trờng chứng khoán, vì thế bất kể cổ phiếu đợc chuyển giao bao
nhiêu lần thì cuộc sống của doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thờng mà
không bị ảnh hởng. Đồng thời, nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh
hoạt các nguồn vốn xã hội, theo các nhu cầu và cơ hội đầu t đa dạng của các
công ty và công chúng.
Do đó , có thể khẳng định loại hình công ty cổ phần là một hình thức tổ
chức về quyền tài sản, sự phát triển của công ty cổ phần gắn chặt với trình độ
phát triển của nền sản xuất xã hội và trình độ phát triển của nền kinh tế thị tr-
ờng.
2.2. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức về quyền tài sản phù hợp với nền
sản xuất xã hội hoá:
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hoặc hình thức
tổ chức kinh tế . Mặc dù kinh tế cổ phần ra đời trong xã hội TBCN nhng nó ra
đời cùng với sự phát triển của nền sản xuất lớn xã hội hoá và của nền kinh tế
hàng hoá.Chức năng cơ bản của nó là thúc đẩy quá trình xã hội hoá t bản tập
trung t bản nhàn rỗi, phân tán để đạt hiệu quả cao, kết quả của nó là thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá và sự phát triển của lực lợng sản xuất xã
hội. Theo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, công ty cổ phần có tác dụng
tích cực trong quá trình thúc đẩy sự chuyển hoá từ t bản cá nhân sang t bản xã
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội. Mác coi chế độ cổ phần là " điểm quá độ" từ sản xuất t hữu chuyển hoá
sang tài sản công hữu. Nền kinh tế hàng hoá là một giai đoạn không thể bỏ qua
để phát triển lực lợng sản xuất của xã hội loài ngời. Chỉ có thể xã hội hoá lực l-
ợng sản xuất thì cuối cùng mới có thể thực hiện đợc chế độ công hữu về t liệu
sản xuất. Sở dĩ công ty cổ phần có thể phát huy vai trò quan trọng trong việc
phát triển nền kinh tế hàng hoá bởi vì công ty cổ phần không phải thúc đẩy t

nhân hóa tài sản mà thúc đẩy xã hội hoá về tài sản.
Từ sự phân tích trên đây, có thể thấy sự khác nhau cơ bản giữa quá trình
CPH ở nớc ta với quá trình t nhân hoá của các nớc trên thế giới ở một số nội
dung chính sau đây:
- Thực chất của t nhân hoá DNNN là việc bán một phần hay toàn bộ t liệu
sản xuất (tài sản) thuộc sở hữu toàn dân cho t nhân. Còn CPH của ta là việc Nhà
nớc bán một phần hay toàn bộ giá trị t liệu sản xuất (tài sản) trong một số doanh
nghiệp cho các tổ chức hoặc t nhân ( cổ đông gồm các thành phần: Quốc doanh
+ tập thể; Quốc doanh + t nhân; Tập thể + t nhân; Quốc doanh + tập thể + t
nhân) - tức là chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu nhiều chủ, thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau, thờng gọi là sở hữu hỗn hợp, chứ không thể thuần tuý
là t nhân hoá.
- Ngoài sự khác biệt căn bản nêu trên, chúng ta còn nhận thấy rằng CPH
có đặc điểm là việc bán những DNNN nào và bán ở mức độ nào cho t nhân (tỷ
trọng cổ phiếu phát ra) là do Nhà nớc quyết định nên cũng không sợ rằng chủ
trơng CPH rốt cuộc chính là t nhân hoá toàn bộ kinh tế Nhà nớc làm mất định
hớng chủ nghĩa xã hội nh một số ngời vẫn hiểu.
- Mục đích của t nhân hoá là tăng cờng khu vực kinh tế t nhân. Và ở các n-
ớc, coi CPH là một trong những biện pháp để đạt mục đích đó. Còn CPH ở nớc
ta nhằm mục đích bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù
hợp với đờng lối xây dựng nền kinh tế mà Đảng và Nhà nớc đã đề ra.
Tóm lại, công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh tế thích ứng đòi
hỏi của nền sản xuất xã hội hoá. Nó là sự xác định và xác nhận quyền sở hữu tài
sản của doanh nghiệp bằng hình thức cổ phần và phân phối lợi tức cổ phần theo
mức doanh lợi của công ty. Công ty cổ phần là sự biểu hiện xã hội hoá về mặt
kinh tế xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ
thuật.
3. sự cần thiết phải đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ
phận doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam:
3.1. Cơ sở lý luận của cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc ở

Việt Nam:
Thứ nhất, xét về hình thái kinh tế xã hội,trong một xã hội, với lực lợng
sản xuất nhất định- phù hợp với tính chất và trình độ của nó là các quan hệ sở
hữu t liệu sản xuất, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối khác nhau- sẽ hình
thành các phơng thức sản xuất khác nhau, trong đó có một phơng thức sản xuất
thống trị làm cơ sở, nền tảng của toàn xã hội. Đối với giai đoạn quá độ chuyển
từ chế độ này sang chế độ khác, do không có phơng thức sản xuất nào giữ địa vị
thống trị nên mỗi phơng thức sản xuất chỉ là một bộ phận của kết cấu kinh tế -
xã hội có tính độc lập tơng đối, chúng tác động lẫn nhau, hợp tác và đấu tranh
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với nhau để hình thành nên một thành phần kinh tế - xã hội.Một trong các thành
phần này sẽ vơn lên nắm vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác
theo định hớng của mình, tiến tới giữ địa vị thống trị nền kinh tế quốc dân và
xác lập nên phơng thức sản xuất xã hội. Nh vậy, đối với bất kỳ xã hội nào trong
thời kỳ quá độ, cơ sở để phân định các thành phần kinh tế là quan hệ sản xuất,
trong đó quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất là cơ bản.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Mác - Ăngghen cũng chỉ ra rằng
không thể có một hình thái kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ
quá độ, muốn định hớng một hình thái kinh tế- xã hội thì trớc hết phải định h-
ớng một phơng thức sản xuất, hay nói cụ thể hơn là phải định hớng đợc một
thành phần kinh tế. Định hớng phơng thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, gắn
liền với nó là những thiết chế nhà nớc XHCN, quan điểm t tởng xã hội, điều
kiện địa lý, dân số và truyền thống văn hoá dân tộc sẽ hình thành định hớng
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Điều này lý giải sự không thể
giống nhau trong việc mỗi quốc gia phải chọn một con đờng phát triển kinh tế
xã hội cho riêng mình, đặc biệt đối với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự phân tích về trình độ phát triển của lực lợng sản xuất ở nớc ta, quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất và lý luận của Lênin
về đặc điểm nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội cho thấy: nền kinh tế nớc ta có các thành phần kinh tế sau đây:
- Kinh tế nhà nớc: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng
(công hữu) về t liệu sản xuất.
- Kinh tế tập thể : là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể
về t liệu sản xuất.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: là thành phần kinh tế dựa trên t hữu nhỏ về t liệu
sản xuất và khả năng lao động của bản thân ngời lao động và gia đình.
- Kinh tế t bản t nhân : dựa trên hình thức sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về
t liệu sản xuất.
- Kinh tế t bản nhà nớc:thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu
hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nớc với kinh tế t bản t nhân trong và ngoài nớc.
- Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài:bao gồm các doanh nghiệp có thể 100%
vốn nớc ngoài có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nớc hoặc doanh
nghiệp t nhân của nớc ta.
Tuy nhiên, nếu xét về quan hệ, hình thức và quy mô sở hữu đối với t liệu
sản xuất ở dạng tổng quát nhất thì có thể nói rằng trong nền kinh tế nớc ta đang
tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản đó là:
- Sở hữu nhà nớc XHCN
- Sở hữu hỗn hợp: gồm Nhà nớc với t nhân trong và ngoài nớc; Nhà nớc
với t nhân nớc ngoài; Nhà nớc với t nhân trong nớc; Nhà nớc với t nhân và ngời
lao động; t nhân với t nhân
- Sở hữu t nhân
Căn cứ vào các chính sách mở cửa và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nớc qua các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay, chúng ta có thể khẳng định
rằng quá trình hình thành loại hình sở hữu hỗn hợp- mà hạt nhân trung gian là
thành phần kinh tế t bản nhà nớc XHCN- sẽ là quá trình chủ yếu có tính kinh tế
xã hội cao và diễn ra với tốc độ nhanh trong thời gian này ở nớc ta.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, xét về xã hội hoá sản xuất thì xã hội hoá sản xuất là sự liên kết

nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội và quá trình này
đợc hình thành, hoạt động và phát triển liên tục, tồn tại nh một hệ thống hữu cơ.
ở bất kỳ một xã hội nào, xã hội hoá sản xuất biểu hiện ở sự phân công lao động
phát triển; mối liên hệ giữa các ngành, các khu vực, các vùng ngày một chặt
chẽ; sản xuất tập trung với quy mô hợp lý; sản phẩm làm ra là kết quả của nhiều
ngời, thậm chí nhiều quốc gia. Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác - Lênin,
xã hội hoá sản xuất là xu hớng vận động cơ bản của sự phát triển kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và nội dung của xã hội hoá sản xuất XHCN
phải đợc tiến hành trên cả ba mặt của quá trình: kinh tế kỹ thuật, kinh tế xã hội
và kinh tế tổ chức; có nghĩa là phải xem xét trong một tổng thể hình thái kinh tế
- xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất là then chốt.
Xem xét xu hớng xã hội hoá sản xuất theo học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội của Mác - Ăngghen, có thể khẳng định rằng: trong giai đoạn hiện nay ở nớc
ta, xã hội hoá sản xuất theo định hớng XHCN, trớc hết phải thực hiện xã hội
hóa sở hữu t liệu sản xuất theo định hớng XHCN. Quá trình xã hội hoá sở hữu t
liệu sản xuất phải đảm bảo đợc: tính chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nớc
XHCN, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật để có năng suất lao động cao và phù
hợp với những vận động và thiết chế của Nhà nớc để củng cố và phát triển lực l-
ợng sản xuất XHCN. Xã hội hoá sở hữu t liệu sản xuất ở nớc ta, trong thời kỳ
quá độ, đợc thực hiện bằng hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp, hợp tác hoá
đối với kinh tế cá thể và nhà nớc xây dựng mới, trong đó hình thức cổ phần hoá
doanh nghiệp để hình thành loại hình sở hữu hỗn hợp là chủ yếu. CPH doanh
nghiệp, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là để nhằm thiết lập các quan
hệ sản xuất phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh sự cạnh tranh
và liên kết giữa các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá, tập trung
nguồn lực của Nhà nớc để phát triển các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế mũi
nhọn, phát triển kinh tế tập thể- vốn đợc coi là hình thức sở hữu xã hội thu nhỏ,
hạn chế tập trung t bản t nhân và thúc đẩy quá trình xã hội hoá công tác tổ chức
quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.

3.2. Cơ sở thực tiễn của cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc ở
Việt Nam:
Cơ sở thực tiễn của CPH chính là thực trạng của các DNNN trớc cổ phần
hoá.
Các DNNN ở Việt Nam đợc hình thành từ năm 1954 ( ở miền Bắc) và từ
năm 1975 ( ở miền Nam). Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và đợc
xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các DNNN ở Việt Nam có đặc tr-
ng khác biệt so với nhiều nớc trong khu vực và trên thế giới. Biểu hiện:
- Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số l-
ợng lao động và mức độ tích luỹ vốn.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Trừ một số rất ít DNNN đợc đầu t
mới đây (sau 1986), phần lớn các DNNN đã đợc thành lập khá lâu, có trình độ
kỹ thuật thấp. Theo báo cáo điều tra bộ khoa học - công nghệ và môi trờng thì
trình độ công nghệ trong các DNNN của Việt Nam kém các nớc từ 3- 4 thế hệ.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mặt khác, đại bộ phận DNNN đợc xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nớc khác
nhau nên tính đồng bộ của các doanh nghiệp thấp. Vì vậy, khi chuyển sang kinh
tế thị trờng, các DNNN khó có khả năng cạnh tranh cả trong nớc và quốc tế.
- Việc phân bố còn bất hợp lý về ngành và vùng.
Sau gần 20 năm đổi mới, các DNNN đã và đang chuyển biến khá căn bản,
đã sắp xếp lại một bớc quan trọng, giảm đợc gần một nửa số doanh nghiệp chủ
yếu là những doanh nghiệp địa phơng, nhỏ bé hoạt động không có hiệu quả. Số
lớn doanh nghiệp còn lại đợc tổ chức lại và từng bớc phát huy quyền tự chủ kinh
doanh làm ăn năng động và có hiệu quả. Nhng nhìn chung các DNNN vẫn còn
rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn
thua lỗ triền miên, hoạt động cầm chừng; sự đóng góp của DNNN cho ngân
sách cha tơng xứng với phần đầu t của Nhà nớc, cũng nh với tiềm lực của
DNNN; tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm
trọng, việc quản lý đối với DNNN còn quá yếu kém, đặc biệt nghiêm trọng là

tình hình buông lỏng quản lý tài chính làm Nhà nớc mất vai trò thực sự là ngời
chủ sở hữu; tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng (có
nhiều doanh nghiệp thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/ngời/ tháng, trong khi
nhiều doanh nghiệp lơng công nhân không đảm bảo nhu cầu tối thiểu).
Có thể nói, các DNNN ở nớc ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng
góp vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhng lại hoạt
động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nớc sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc tất yếu phải đổi mới căn bản DNNN. Đây là một mâu
thuẫn lớn, song bắt buộc phải kiên quyết đổi mới, phải có giải pháp và bớc đi
phù hợp với trình độ thực tế cơ sở. Chủ trơng chuyển phần lớn DNNN sang
công ty cổ phần là một trong những giải pháp cơ bản và cần thiết.
Tóm lại, từ cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta có thể thấy CPH
một bộ phận DNNN ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
4. Mục tiêu của cổ phần hoá:
Theo " Đề án thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần" ban
hành kèm theo Quyết định 202 - HĐBT của Chủ tịch Hội đồng bộ trởng (nay là
Thủ tớng chính phủ) thì CPH phải đạt ba mục tiêu:
4.1. Mục tiêu thứ nhất: Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà
nớc thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Mục tiêu này xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trờng phải có
các hình thức sở hữu khác nhau tồn tại; Yêu cầu của nó cũng xuất phát từ yêu
cầu của một nền kinh tế quá độ không quốc doanh hoá tràn lan mà chỉ duy trì
các DNNN ( 100% vốn) trên các lĩnh vực và các ngành then chốt của nền kinh
tế.
Khi chuyển các DNNN sang công ty cổ phần và xoá bỏ cấp chủ quản dới
các hình thức, việc xác lập quyền tự chủ kinh doanh, tách quyền quản lý Nhà n-
ớc và quyền quản lý kinh doanh là đơng nhiên thực hiện đợc. Và cũng chính
điều đó đa lại một khả năng mới là việc xác lập bộ máy quản lý và bổ nhiệm

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngời vào các chức vụ quản lý kinh doanh do các cổ đông quyết định. Nhờ đó mà
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty.
4.2. Mục tiêu thứ hai: Huy động một khối lợng vốn nhất định ở trong và
ngoài nớc để đầu t cho sản xuất kinh doanh.
Sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong CPH DNNN cũng có nghĩa thu hút các
nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội vào doanh nghiệp. Đây là
mục tiêu cần thiết, tuy nhiên việc thực hiện ở nớc ta gặp rất nhiều khó khăn và
trở ngại. Bởi vì, trên thực tế các nhà đầu t chỉ bỏ vốn góp cổ phần theo sự lựa
chọn của họ đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi, có triển
vọng. Do vậy, để thu hút đợc vốn từ các thành phần kinh tế, chúng ta cần lựa
chọn kỹ lỡng các loại doanh nghiệp và xác định bớc đi cụ thể trong giai đoạn
CPH.
4.3. Mục tiêu thứ ba: Tạo điều kiện để ngời lao động thực sự làm chủ doanh
nghiệp
Việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng
quyền sở hữu và quyền sử dụng t liệu sản xuất của doanh nghiệp, quyền sở hữu
và quyền kinh doanh, hành vi của chính quyền và hành vi của doanh nghiệp đợc
hợp lý hoá một cách rõ nét. Sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền vào
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất. Thông qua
việc mua cổ phần, ngời lao động mới có điều kiện để thực hiện trên thực tế
quyền làm chủ đích thực của mình. Với t cách là cổ đông, họ tham gia cùng các
cổ đông khác quyết định chiến lợc phát triển của công ty, tham gia quản lý,
phân chia lợi nhuận, sáp nhập, giải thể công ty, lựa chọn Hội đồng quản trị.
II.Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n-
ớc ở Việt Nam:
1. Tiến trình cổ phần hoá:
Chủ trơng CPH DNNN ở Việt Nam lần đầu tiên đợc nêu tại Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ơng khoá VII ( tháng 11/1991), đợc cụ

thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
( 1/1994) và hàng loạt các văn bản khác đã ra đời. Chính phủ đã triển khai thực
hiện từng bớc các Nghị quyết, văn bản và chú ý điều chỉnh các chính sách cho
phù hợp với tình hình thực tế.
Quá trình thực hiện có thể chia làm 2 giai đoạn chính:
a. Giai đoạn thí điểm ( 1992 - 1995 ):
Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ( nay là Thủ tớng Chính
phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về tiếp tục
thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần và Chỉ thị 84/TTg về việc
xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức
sở hữu đối với các DNNN.
Sau 4 năm triển khai , 5 DNNN đã đợc chuyển thành công ty cổ phần:
- Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải (năm
1993)
- Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
(năm 1993)
8

×